Phần III - Chương 14: Bầy thú


Số từ: 9581
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 1 giờ 55 phút chiều
Nam Phi
Fiona đứng nghe ngóng ở ngưỡng cửa, trong tay lăm lăm súng phóng điện. Giọng người nói đang tiến gần đền chiếu nghỉ của tầng hai. Nỗi hoảng sợ làm cô bé nghẹn họng. Bất kể những gì mà chất kích thích adrenalin đã giúp cô chống đỡ suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua đã hết tác dụng. Tay cô bé run run. Nhịp thở nông và gấp gáp.
Tên lính gác bị giật và nhét giẻ vào mồm mà đã vồ vào người cô, đang nằm sóng sượt đằng sau lưng cô. Cô bé đã phóng cho hắn một cú giật nữa khi tên này bật tiếng rên rỉ.
Tiếng người nói tiến dần đến chỗ cô đang ẩn náu.
Fiona cảm thấy căng thẳng.
Gray đâu nhỉ? Anh đã đi gần một tiếng đồng hồ rồi.
Có hai người đi đến cánh cửa chỗ cô. Cô nhận ra một giọng. Đó là giọng con quỷ cái tóc vàng đã băm dao vào lòng bàn tay cô. Mụ Ischke Waalenberg. Mụ này và kẻ đi cùng nói tiếng Hà Lan, nhưng Fiona thạo ngôn ngữ này.
— …thẻ khóa, - Ischke nói cáu bẳn. - Tôi hẳn đã đánh mất thẻ lúc tôi ngã.
— Ôi, chị, chị bây giờ đã về đến nhà và an toàn rồi.
Chị. Vậy là người đi cùng là em trai của mụ.
— Ta sẽ đổi mật mã để phòng chừng. - Hắn nói thêm.
— Và chưa ai tìm thấy hai thằng Mỹ cùng đứa con gái à?
— Chúng ta đã bố trí hai lớp canh gác tại đường biên Ta tin là chúng vẫn trong đất của ta. Chúng ta sẽ tìm thấy bọn này. Ông nội có chuyện ngạc nhiên đây.
— Ngạc nhiên gì?
— Bảo đảm rằng không ai ra khỏi cái đồn điền mà còn sống. Nhớ rằng chúng ta đã lấy mẫu DNA của bọn này khi lần đầu chúng đến đây.
Ischke cười ầm lên làm Fiona ớn lạnh toàn thân. Tiếng nói đi xa dần.
— Đi nào. - Giọng cậu em trai chìm dần xuống cầu thang lúc chúng đi đến tầng chính. - Ông nội muốn tất cả chúng ta xuống tầng dưới.
Giọng nói của bọn chúng dừng lại gần bậc cuối cầu thang. Tai áp vào cửa, Fiona không thể nào nghe rõ được những lời khác, nhưng nghe như là tranh cãi về vấn đề gì đấy. Mà cô nghe thế cũng đủ rồi.
Không ai ra khỏi cái đồn điền mà còn sống.
Chúng âm mưu cái gì nhỉ? Tiếng cười của mụ Ischke lạnh băng vẫn vang vọng trong đầu cô, đầy vẻ khoái trá và mãn nguyện. Bất kể chúng đang âm mưu cái gì, song có vệ như chúng chắc chắn về kết quả lắm. Nhưng mẫu DNA của họ thì có gì liên quan với âm mưu của chúng nhỉ?
Fiona biết chỉ có mỗi một cách tìm ra. Cô bé không biết khi nào Gray sẽ quay lại và sợ rằng tất cả bọn họ sẽ không còn thời gian. Họ cần biết nguy hiểm là gì… và liệu họ có thể tránh được không.
Như thế có nghĩa chỉ một điều.
Cô đút khẩu súng điện vào túi và lôi ra tấm khăn lau bụi bằng lông chim. Cô xoáy chốt cửa và mở cánh cửa. Để đi săn kiểu này, cô cần sử dụng tất cả những mánh khóe của những ngày trên đường phố. Cô kéo mở cánh cửa và lách người ra khỏi căn phòng. Lưng tựa vào cửa, cô lấy mông đây cho cửa đóng lại. Cô chưa bao giờ cảm thấy cô đơn đến thế, sợ hãi đến thế. Cân nhắc lại một chút, cô đặt tay lên núm cửa. Cô nhắm mắt lại và tự trấn tĩnh, cầu nguyện, không phải cầu Chúa, mà là cầu người đã dạy cô lòng dũng cảm đã đến như thế nào với muôn hình muôn vẻ, kể cả hy sinh.
— Bà Mutti ơi… - cô bé cầu nguyện.
Cô đã mất người mẹ nuôi của mình, Grette Neal. Những bí mật của quá khứ đã giết chết bà, và giờ đây những bí mật mới lại đang đe dọa Fiona cùng những người khác. Hy vọng sống còn, cô cần phải dũng cảm và vị tha như Mutti.
Những giọng người nói dạt dần xuống cầu thang.
Fiona rụt rè đến gần hơn, giơ khăn lông chim bảo vệ. Cô ngó qua ban công chiếu nghỉ đầu tiên, đủ để nhìn thấy những cái đầu tóc màu hung bạch kim của hai đứa sinh đôi. Lời nói của chúng lại vẳng đến tai cô bé.
— Đừng để ông nội chờ đợi. - Người em trai nói.
— Chị sẽ xuống ngay đây. Chị chỉ muốn kiểm tra con Skuld thế nào. Bảo đảm chắc chắn rằng nó đã vào chuồng. Nó đang bức bối lắm, và chị e rằng nó có thể tự hại mình khi cáu.
— Có thể nói y như vậy đối với chị.
Fiona bước một bước gần hơn. Cậu em trai sờ vào má bà chị gái, một cử chỉ quá thân mật đến ghê người.
Ischke vươn người tới hứng lấy cái vuốt má, sau kéo mình ra bỏ đi.
— Chị sẽ không đi lâu đâu.
Cậu em trai gật đầu và bước về phía buồng thang máy trung tâm.
— Em sẽ báo ông nội biết. - Hắn ấn một nút và cánh cửa mở ra.
Ischke bỏ đi vào một hướng khác, hướng tới phía sau biệt thự.
Fiona vội vã đi sau. Cô bé bóp chặt tay vào súng phóng điện trong túi. Giá mà bắt được riêng yêu nữ, thì phải bắt nó nói…
Chạy như bay xuống cầu thang, Fiona đến gần cuối cầu thang thì đi chậm lại, giữ nhịp ghìm chân. Ischke đi xuống phòng sảnh trung tâm, dường như chạy thẳng xuyên qua tâm ngôi biệt thự.
Fiona bám theo, vẫn giữ một khoảng cách, đầu cúi thấp xuống, cái quạt phẩy lông chim gập trong tay như là một nữ tu ôm cuốn Kinh thánh. Cô bước đi những bước nhỏ, dáng rón rén của một người hầu. Ischke đi xuống một đoạn năm bậc thang, qua hai vọng gác, và theo tiếp một hành lang khác phía bên trái.
Fiona đến chỗ hai hai tên lính gác. Cô tăng nhịp bước, ra dáng một người hầu đang vội vã vì trễ một việc mơ hồ nào đó. Nhưng cô vẫn giữ thế cúi đầu, nửa vùi mình vào cái áo choàng đồng phục quá khổ của những người hầu.
Cô bé đến chỗ bậc cầu thang ngắn.
Bọn lính gác lờ cô đi, đơn giản vì đó là hành vi hay nhất của chúng khi bà chủ nhà của chúng vừa đi qua. Fiona bước qua năm bậc. Khi xuống đến sảnh dưới, Fiona thấy sảnh trống không.
Cô dừng lại.
Ischke đã đi mất.
Một cảm xúc lẫn lộn, một phần nhẹ người, một phần khủng khiếp, lan khắp người cô, hai phần bằng nhau.
Mình có nên quay lại cần phòng lúc nãy không nhỉ? Hay là hy vọng điều hay nhất xảy ra?
Cô nhớ đến tiếng cười lạnh lùng của Ischke rồi lúc đó giọng nói của mụ đàn bà sủa choang choác, rất gần, vang ra từ phía cánh cửa đôi bằng kính và sắt phía bên phải.
Có việc gì đấy làm Ischke cáu nhặng.
Fiona chạy vội lên. Cô đến bên cửa lắng nghe.
— Thịt phải có máu chứ! Thịt tươi! - Ischke la hét ầm ĩ. - Hay là tao tống chúng mày vào đấy với con đó.
Tiếng làu bàu xin lỗi. Tiếng chân người chạy đi.
Fiona tựa sát hơn, tai gí vào mặt kính.
Một sai lầm.
Cánh cửa xô mạnh mỏ tung, đập vào thái dương cô. Ischke lao vù ra, chạy thẳng đến chỗ Fiona.
Ischke chửi thề, hất cô sang một bên.
Fiona phản ứng theo bản năng, dựa vào những kỹ năng cũ của mình. Cô cuộn người lại như quả bóng, sụp mình thu gối, co rúm ró, không phải cố gắng đóng kịch nhiều lắm.
— Đi đứng phải nhìn chứ! - Ischke phì ra một lời.
— Dạ thưa bà. - Cô nói giọng nịnh bợ, cúi thấp hơn.
— Tránh ra ngay!
Fiona phát hoảng. Cô phải đi đến chỗ nào đây? Bắt gặp người hầu lúi húi ở cánh cửa, chắc hẳn Ischke sẽ tự hỏi con này đang rình rập ở đây làm gì. Tấm thân của mụ vẫn đang giữ cánh cửa để mở. Fiona lê chân tìm lối đi, đầu cúi thấp qua ngưỡng cửa, tránh đường cho Ischke.
Tay Fiona lần tìm súng điện giấu trong người, nhưng phải chững lại một lát để cô thả thứ mà cô vừa mới nẫng được từ tụi áo khoác của Ischke. Cô không có ý trộm đồ ấy, chỉ là phản xạ khi đi qua người mụ. Ngố thật. Giờ thì vì chậm trễ đó cô phải trả giá cho mọi thứ. Trước khi cô bé lấy được súng điện, Ischke đã chửi thề và chạy đi mất. Cánh cửa kính khung thép đóng rầm giữa hai người.
Fiona vò đầu bứt tai, tự trách mình. Bây giờ thì làm gì đây? Cô phải đợi chốc lát trước khi đi. Bọn chúng sẽ nghi ngờ nếu chúng thấy cô bám theo vết Ischke lần nữa. Mà cô đã biết Ischke đi đâu rồi. Quay lại thang máy. Thật không may là Fiona không thạo đường trong căn nhà này để đi một lối khác đến sảnh chính, định làm một vụ phục kích khác.
Chực ứa nước mắt, vừa sợ vừa cáu.
Cô đã làm lõ hết vụ này.
Thất vọng, cuối cùng cô chú ý đến căn buồng trước mặt. Căn buồng có ánh sáng mặt trời tự nhiên, xuyên qua mái kính. Khu đó kiểu như loại sân nội thất hình tròn. Những cây cọ to mọc lên từ sàn trung tâm và vươn lên phía mái kính. Tất cả xung quánh, những hàng cột to tướng trụ đỡ mái nhà cao và ngăn chia ra những hiên nhà xung quanh căn phòng. Ba sảnh đường cao, có mái cánh cung vòm cao như sảnh sân trung tâm, vươn thành nhánh như những khu thò nhỏ của một thánh đường nhà thờ, tạo thành hình một cây thập tự.
Nhưng sảnh đường này không phải là chỗ cầu nguyện.
Mùi gì đó sộc vào mũi cô đầu tiên. Am, mốc, hôi hám, tanh tanh mùi nhà quan. Tiếng khóc, tiếng rên rỉ vọng lại qua không gian hang động. Tò mò làm cô bé bước tiến tới một bước. Ba bậc thang dẫn xuống tầng chính, chẳng có nhân viên nào cả. Cái người mà cô nghe thấy tiếng đã chạy đi sau khi bị Ischke mắng không thấy đâu cả.
Từ vị trí của mình cô quan sát căn phòng.
Khớp vào từng gian nhà vây quanh cái sân trời khổng lồ là những chiếc lồng to có mành vỉ viền thép và làm bằng kính, giống như cửa ra vào. Đằng sau các chấn song, cô nhìn thấy bóng dáng vụng về, một số cuộn tròn mình ngủ gà ngủ gật, số khác nằm ườn ra, một con thì đang ngồi chồm hổm trên một khúc xương đùi, nhá nhá gặm nhấm. Loài linh cẩu.
Nhưng đó chưa phải là hết.
Trong các lồng khác, cô còn thấy những quái vật khác. Một con đười ươi ngồi sưng xỉa gần phía trước của lồng, ngắm nhìn Fiona với vẻ thông minh hết nhuệ khí. Tồi tệ hơn, phần đột biến nào đó đã lột lông con thú này. Những mảnh da voi nhăn nhúm treo lủng lẳng trên cơ thể nó.
Trong một cái lồng khác, một con sư tử đi tới đi lui trong chuồng. Nó bị cạo lông nhưng đang có lông mọc lên từ những mảng tẩy lộng và vá da, dính bẩn phân và những cục máu đông. Nó thỏ hổn hển, vành mắt đỏ. Răng chìa ra ngoài, sắc như kiếm và cong như liềm.
Tất cả xung quanh là những hình thù dị dạng: một con sơn dương sọc có cặp sừng xoắn, hai con chó rừng cao nhòng, một con lợn lòi bạch tạng mặt có bướu, vẩy trên người giống con tê tê. Tất cả lũ thú đó trông ủ rũ buồn rầu Hai con chó rừng xô lồng vào nhau kêu ư ử, chí chóe, lắc như hai khúc gỗ, chân thì què.
Vẫn còn, đáng tiếc là nói quá ít về nỗi kinh hoàng khi nhìn thấy con linh cẩu khổng lồ. Mắt nó đang dán vào gặm khúc xương đùi của một loài thú to. Trâu nước hay bò rừng gì đó. Một mẫu thịt và lông đen còn vương lại trên khúc xương. Fiona không thể không tưởng tượng ra nếu như đó là mình. Nếu Gray không cứu cô.
Cô bé rùng mình.
Căng hàm ra, khúc xương chân nghe rắc một tiếng, to như tiếng súng nổ bộp. Fiona nhảy dựng lên, chợt tỉnh cả người.
Cô bé lùi ra phía cửa. Cô đợi thế là đủ rồi. Nhiệm vụ của cô đã thất bại, cô cần giấu đuôi lủi về chỗ ẩn náu thôi.
Cô chộp lấy cánh cửa và kéo sập lại.
Khóa.

• 2 giờ 30 phút chiều
Gray nhìn chằm chằm vào hàng cần gạt bằng thép, nhịp tim đập thình thịch trong cổ. Anh mất quá lâu mới tìm ra núm điều khiển mạch chính trên bảng công tắc điện. Anh có thể cảm nhận được dòng điện chạy qua dây cáp to tướng trong phòng, một lực từ trường cảm giác ngay chỗ gáy.
Anh đã lãng phí quá nhiều thời gian.
Sau khi phát hiện một bình tang trống chứa chất Xerum 525 bị mất, bình để trong ô dành cho Hoa Kỳ, cảm giác khẩn cấp đè nặng lên Gray. Anh đã bỏ mọi cố gắng báo tin trinh sát cho người còn lại tại tiểu trại căn cứ. Ngay bây giờ quan trọng hơn cả là phải báo nguy ngay cho Washington.
Marcia đã báo cáo thấy máy bộ đàm sóng ngắn trong khu vực an ninh khi bà bị chúng đưa đến xà lim. Bà biết cần gọi ai, đó là một đối tác của bà, Tiến sĩ Paula Kane, người có khả năng truyền tin báo động. Ấy vậy, cả hai đều biết rằng bây giờ mà đi lấy chiếc máy bộ đàm thì có thể là một nhiệm vụ tự sát. Nhưng họ còn cách chọn nào khác đâu?
Ít nhất, Fiona đang ẩn nấp an toàn.
— Anh còn đợi gì nữa? - Marcia hỏi. Bà đã cắt dây buộc và thay vào đó bộ đồ phòng thí nghiệm lấy từ một móc áo trong kho. Trong bóng tối bà có thể qua mặt người khác vì có thể nhầm bà với một nhà nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm.
Marcia đứng tựa lưng anh, tay nắm chặt một đèn pin cấp cứu.
Gray giơ tay lên cần gạt thứ nhất.
Họ đã định vị được cầu thang phòng cháy cho tầng hầm. Cầu thang này dĩ nhiên cần phải dẫn trở lại tòa nhà chính. Nhưng để mà ra ngoài và đến được khu an ninh, họ cần có phương cách nào đấy để đánh lạc hướng, một sự bảo đảm thêm.
Câu trả lời đã đến trước đó rồi. Gray đang tựa vào một trong những cánh cửa. Anh để ý thấy độ rung và tiếng kêu o…o của cần gạt chỗ trạm phát điện. Nếu họ đốt nóng bảng công tắc điện chính - tạo thêm hỗn loạn, có thể làm mù mắt bọn bắt cóc họ một lát - và thế là họ có cơ hội tốt hơn để đến lấy chiếc máy bộ đàm.
— Sẵn sàng chưa? - Gray hỏi.
Marcia nháy đèn phin. Bà bắt gặp ánh mắt anh, hít một hơi thở sâu và gật đầu.
— Ta làm thôi.
— Mất điện này. - Gray nói và] giật mạnh cần gạt đầu tiên.
Rồi đến cần gạt tiếp sau đó, lại cần gạt tiếp.

• 2 giờ 35 phút chiều
Fiona theo dõi thấy các bóng điện quanh sảnh sân trời nhập nhoàng và tắt lịm.
Ôi, trời ơi…
Fiona đứng ở chính giữa sảnh sân đó, gần một đài phun nước nhỏ. Giây lát trước, cô đã lén ra khỏi vị trí cạnh cánh cửa chính đã khóa và lẻn đi ngang qua sảnh sân. Cô đã cố đi tìm một lối thoát nữa. Chắc chắn là phải có một lối.
Cô ớn lạnh cả người.
Một thoáng im lặng trải khắp căn phòng, cứ như thể bọn thú vật đã đánh hơi thấy cái gì đó thay đổi căn bản, thiếu hẳn tiếng o o muôn thủa của điện. Hay có thể đơn thuần là cảm giác điện lực truyền sang chúng.
Một cánh cửa kẹt mở đằng sau cô.
Fiona từ từ quay lại.
Một chốt chuồng thú bằng sắt và kính mở ra, mũi của một con linh cẩu dã thú đã đẩy chốt ra. Vụ mất điện đã nhả các khóa từ. Con dã thú lén chui ra khỏi chuồng. Máu rỏ tong tỏng từ mũi của nó. Đó chính là con linh cẩu lúc nãy nhá khúc xương đùi. Từ phía nó có tiếng gầm gừ.
Đâu đó phía sau mình, Fiona nghe thấy khục khục như thể là có tuyến giao tiếp không lời xuyên qua bọn thú ăn thịt này. Những cánh cửa khác cũng lẹt kẹt kêu ở chỗ bản lề thép.
Fiona đứng ì cạnh đài phun nước. Thậm chí bơm nước cũng chết lịm, làm câm lặng nước chảy, cứ như thể sợ thu hút bọn thú chú ý đến nó.
Đâu đó sâu trong một khoang mái vòm bên cạnh, vẳng ra một tiếng la. Tiếng người. Fiona đồ rằng đó là người coi vườn thú trước đấy đã bị Ischke mắng. Hình như là anh ta đã nạp thêm cho bữa ăn đầy máu của bọn dã thú. Tiếng chân chạy đến phía cô. Rồi lại có tiếng la hét mới bật lên, đau đớn và bị đứt quãng giữa muôn tiếng gầm gào, khóc thét.
Fiona bịt tai lại lúc nghe tiếng khóc thét cuối cùng, tiếp sau đó là tiếng nhai nuốt.
Toàn bộ chú ý của cô tập trung vào chỗ thoát hiểm đầu tiên.
Con linh cẩu mũi đầy máu đến gần. Fiona nhận ra con thú qua bóng của những đốm trên sườn con thú, dễ nhận ra, trắng trên nền trắng, vẫn chính là con dã thú trong rừng rậm.
Con thú yêu của Ischke.
Con skuld.
Nó đã không chịu vào lồng trước đó.
Nhưng không còn lâu nữa.

• 2 giờ 40 phút chiều
— Giúp chúng tôi đi… một chút. - Gunther chạy xồ vào lều, theo sau là thiếu tá Brooks.
Lisa đứng dậy, hạ chiếc ống nghe xuống từ ngực Painter. Cô đã nghe theo dõi nhịp tâm thu. Nửa ngày qua, nhịp đã thay đổi từ đập sớm sang đập đệm muộn, cho thấy tiến triển của tình trạng hẹp van động mạch chủ. Bệnh viêm họng làm trầm trọng thêm các cơn choáng ngất, bất tỉnh nếu Painter gắng sức. Cô chưa bao giờ thấy dạng thoái hóa nhanh đến như vậy. Cô còn nghi rằng van tim còn bị tình trạng vôi hóa. Những kiểu lắng đọng khoáng chất kỳ dị ấy bắt đầu xuất hiện khắp cơ thể Painter, ngay cả ở trong dịch mắt.
Nằm ngửa đuỗn ra, Painter đẩy nghiêng cùi tay nhăn mặt.
— Có chuyện gì thế? - Anh hỏi Gunther.
Thiếu tá Brooks trả lời với giọng nói lè nhè của người miền nam đầy lo lắng.
— Chuyện em gái anh ta, thưa ngài. Chị ta đang bị… dạng như là tai biến mạch máu não.
Lisa vơ lấy bộ đồ nghề y tế. Painter cố đứng dậy nhưng phải nhờ Lisa đỡ người mới cố đứng được.
— Anh cứ ở đây. - Cô cảnh báo.
— Tôi có thể xoay xở được mà. - Anh trả lời, tỏ vẻ khó chịu.
Lisa không có thì giờ tranh luận. Cô thả cánh tay anh ra. Anh đi lảo đảo. Cô vội vàng đến chỗ Gunther.
— Chúng ta đi nào.
Brooks chờ đợi, không biết là nên đi theo hay đỡ Painter một tay.
Viên thiếu tá bị gạt đi.
Painter tập tễnh chạy theo họ.
Lisa chạy ra khỏi lều và đi ngang đến một lều gần đó. Cái nóng của ngày làm cô như đang đi trên bếp lò. Không khí không dao động lửng lơ, thiêu đốt, rất khó thở. Mặt trời chói mắt. Nhưng chỉ một lát sau, Lisa đã chui vào được góc tối mát của phòng bên cạnh.
Anna nằm trên chiếc chiếu cỏ, nửa nằm nghiêng, người cong lên, cơ co giật. Lisa chạy vội đến bên. Cô đã cầm sẵn ống thông mạch máu dưới da trên tay. Painter cũng có một bộ giống vậy. Như thế sẽ dễ quản lý thuốc và chất dịch.
Lisa nhanh nhẹn quỳ xuống và vớ lấy một bơm tiêm đã có thuốc sẵn. Cô tiêm cả liều loại lớn số IV. Chỉ vài giây sau, Anna dịu lại, thả người nằm xuống sàn. Mắt mụ chớp chớp mở và thể hiện hồi tỉnh, trông tuy hốc hác nhưng có vẻ chăm chú.
Painter đến. Monk xuất hiện sau đang dìu anh.
— Chị ấy thế nào? - Painter hỏi.
— Anh nghĩ thế nào? - Lisa cáu tiết hỏi.
Gunther giúp em mình đứng dậy. Mặt mụ xám xỉn, đầy mồ hôi. Painter cũng như thế trong một tiếng đồng hồ tới. Mặc dầu cả hai đều bị phơi nhiễm như nhau, tầm vóc lớn hơn của Painter dường như giữ anh ngon lành hơn. Nhưng khả năng sống còn của họ chỉ còn tính bằng giờ.
Lisa nhìn lên luồng ánh sáng mặt trời xỉa vào căn phòng qua khe cửa sổ. Còn lâu mới tối.
Monk nói phá tan không khí im lặng lo lắng.
— Tôi đã nói chuyện được với Khamisi. Anh ấy báo cáo là tất cả các bóng đèn trong ngôi biệt thự đã tắt. - Anh ướm thử một điệu cười nhăn nhó như thể không biết tin mừng đó có đáng vui hay không. - Tôi đoán là có bàn tay của Gray.
Painter cau mày. Đó là biểu hiện duy nhất từ nãy đến giờ của anh.
— Chúng ta không biết được việc này.
— Và chúng ta không biết là nó không phải như vậy. - Monk lấy tay lau cái đầu trọc của mình. - Thưa ngài, tôi nghĩ rằng chúng ta nên thúc thời biểu lên. Khamisi nói là…
— Khamisi không chỉ huy điệp vụ này. - Painter nói, ho dữ dội.
Monk bắt gặp ánh mắt Lisa. Hai người bọn họ đã trao đổi riêng cách đây hai mươi phút. Đây là một trong nhiều lý do mà Monk đã gọi điện cho Khamisi. Những điều thực dụng cần phải được xác minh ngay. Monk gật đầu với cô.
Cô rút ra một bơm tiêm nữa từ túi mình và bước đến bên người Painter.
— Để tôi thêm thuốc vào ống truyền cho anh. - Lisa nói.
Có máu trong đó.
Painter nâng cao cánh tay. Tay run run.
Lisa đỡ cánh tay anh và tiêm vào một liều. Monk bước đến bên Painter và đỡ ngay lấy anh lúc chân anh khuỵu xuống.
— Cái gì…? - Đầu Painter lơ đãng quay lại.
Monk cầm cánh tay đỡ lấy anh.
— Để vì sức khỏe của ngài.
Painter nhăn mặt nhìn Lisa. Cánh tay kia của anh vung về phía cô - để đánh cô hay để thể hiện là anh bị sốc vì cô đã phản anh, Lisa nghĩ rằng anh thậm chí đã biết chuyện rồi. Liều thuốc mê làm anh xỉu đi.
Thiếu tá Brooks há hốc mồm theo dõi tình hình.
Monk nhún vai nhìn người lính không quân.
— Cậu chưa từng bao giờ thấy nổi loạn hả?
Brooks trấn tĩnh lại:
— Tất cả những gì tôi có thể nói, thưa ngài… về thời đại đẫm máu này.
Monk gật đầu:
— Khamisi đang trên đường về mang theo trọn bộ. ETA ba phút. Anh ta và Tiến sĩ Kane sẽ hỗ trợ mặt đất ở đây.
Lisa quay sang phía Gunther:
— Anh có thể bế em gái anh chứ?
Như để minh chứng, y xốc em gái đứng lên.
— Tất cả các vị sẽ làm gì? - Anna hỏi yếu ớt.
— Hai người sẽ đi cuối cùng lúc màn đêm buông xuống. - Lisa nói. - Chúng ta sẽ cùng chạy cho kịp để lấy Cái chuông.
— Làm thế nào?
— Đừng lo lắng quá những cái đầu bé tí tẹo của các vị. Monk nói và cùng Painter tập tễnh đi ra, có Thiếu tá Brooks đỡ cùng.
— Chúng ta cần ngụy trang.
Monk lại bắt gặp ánh mắt Lisa. Cô đọc vị diễn đạt của anh.
— Có thể đã quá muộn rồi.
• 1 giờ 41 phút chiều
Gray dẫn đường lên cầu thang, súng lục trong tay. Anh và Marcia cố di động thật êm lặng. Bà bịt lòng bàn tay vào đèn pin, giữ cho ánh sáng chiếu đủ mức tối thiểu. Chỉ vừa đủ để thấy đường đi. Khi các cầu thang máy hết công dụng, anh e ngại sẽ giáp mặt một tên lính gác lạc bầy nào đó chạy lông nhông trên cầu thang.
Mặc dù đã cải trang như một lính gác, người đang áp giải một nhà nghiên cứu ra khỏi tầng hầm tối, anh muốn tránh giáp mặt bất cứ người nào không cần thiết.
Họ đi qua tầng ngầm thứ sáu, tối mò như tầng dưới.
Gray tiếp tục đi, tăng nhịp bước chân, cân bằng sự cẩn trọng với nỗi e ngại là các máy phát điện phụ sẽ bật lên vào lúc nào đó. Trèo qua tiếp một chiếu nghỉ, có ánh sáng xuất hiện phía trước mặt.
Giơ một tay lên, anh kéo Marcia đứng im lại phía sau mình.
Ánh sáng không chuyển động. Nó đứng nguyên tại chỗ.
Không phải là một tên lính gác đang đi lang thang. Có thể đó là đèn chiếu sáng lúc khẩn cấp.
Ấy nhưng…
— Ở nguyên đây. - Anh thì thào với Marcia.
Bà gật đầu.
Gray tiếp tục tiến lên phía trước, súng đã nâng lên và sẵn sàng. Anh leo lên các bậc cầu thang. Tại chỗ chiếu nghỉ tiếp đó, ánh sáng chiếu xuyên qua một cửa mở bé. Khi Gray đến gần anh nghe thấy giọng người nói. Phía trên các bậc cầu thang vẫn tối. Vậy thì vì sao lại có ánh đèn và điện ở đây nhỉ? Tầng này chắc hẳn có mạng cấp điện riêng.
Giọng nói vọng xuống hành lang.
Giọng nghe quen quen. Isaak và Baldric.
Họ nằm ngoài tầm nhìn trực tiếp, nấp sâu trong phòng. Anh liếc nhìn xuống và thấy mặt bà Marcia họa nét trong ánh sáng đổ xuống cầu thang. Anh vẫy tay ra hiệu cho bà đi lên chỗ chiếu nghỉ.
Bà cũng đã nghe thấy những giọng nói đó.
Isaak và Baldric dường như không quan tâm đến chuyện mất điện. Tại đây có điện, nên phải chăng chúng thậm chí không biết rằng khu vực còn lại của tòa biệt thự đã mất điện? Gray cứ tò mò muôn kiểm chứng. Anh phải gửi cảnh báo đến Washington.
Lời nói đến tai anh: - Cái chuông sẽ giết tất cả lũ chúng nó. - Baldric nói.
Gray dừng lại. Chúng đang nói đến Washington sao? Nếu vậy, kế hoạch của chúng là gì? Giá mà anh biết nhiều hơn…
Gray giơ hai ngón tay ra hiệu cho Marcia. Hai phút. Nếu anh không quay trở lại, bà phải tự mình xoay xở. Anh để lại cho bà khẩu súng lục thứ hai của mình. Nếu như anh có thể thấy được Cái chuông này, khác biệt ở đây sẽ là cứu mạng hoặc mất mạng.
Anh lại giơ hai ngón tay lên lần nữa.
Marcia gật đầu. Tùy bà quyết định nếu Gray bị bắt.
Anh nén mình đi qua khe hở, không chạm vào cánh cửa, chỉ sợ tiếng kẹt của bản lề sẽ làm hai đứa trong đó cảnh giác, vẫn kiểu phòng xám được đèn nê - ông chiếu sáng trải ra trước mặt. Nhưng sảnh hành lang này ngắn, có hai cửa sắt liền kề đối diện với hai cửa vào ô cầu thang máy đang mở tối om ở tầng này.
Một trong hai cánh cửa đôi mở ra.
Gray di chuyển nhanh, nhón chân. Anh đến chỗ cửa và bám sát vào tường. Anh quỳ xuống ghé mắt nhìn qua khe bản lề.
Căn buồng phía sau cửa này mái thấp và trông như không gian của hang động, chiếm toàn bộ tầng hầm. Đây là tâm điểm chỉ huy của phòng thí nghiệm. Dọc theo một thành tường là một dãy máy vi tính. Các màn hình sáng chiếu các con số và mật mã đang chạy. Các máy vi tính được bảo đảm một mạch cấp điện, nguồn riêng cho máy.
Những người đang ngồi trong phòng này rất chăm chú làm việc, đã không chú ý đến khu vực khác mất điện. Nhưng chắc chắn bất cứ lúc nào họ cũng có thể tỉnh ra ngay.
Baldric và Isaak, ông nội và cháu trai đang cúi mình vào một máy trạm. Một màn hình phẳng ba mươi in - sơ trên tường nhấp nháy vội vã qua một loạt các chữ Run, hết chữ này đến chữ kia. Đó là năm chữ trong các cuốn sách của Hugo.
— Chưa bẻ được mã số. - Isaak nói. - Nên chăng ta chuyển chương trình Cái chuông toàn cầu trong khi câu đố này vẫn chưa giải được?
— Sẽ giải được. - Baldric đấm mạnh lên bàn. - Vấn đề chỉ còn là thời gian. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sát sạt đến chỗ hoàn hảo rồi. Như cháu và chị cháu ấy. Các cháu sẽ sống lâu. Năm mươi năm. Thoái hóa sẽ không làm yếu sức các cháu cho đến tận thập niên cuối cùng. Đến lúc chúng ta phải tiến lên.
Isaak trông có vẻ hơi vững tâm.
Baldric ngồi thẳng người dậy. Lão giơ một cánh tay và vẫy về phía trần nhà.
— Xem có chỗ trễ nào đây. Cố gắng cua chúng ta đánh lạc hướng quan tâm quốc tế khỏi vùng Hípialayas đã phản tác dụng.
— Bởi vì chúng ta đã đánh giá thấp Anna Sporrenberg.
— Và cả lực lượng Sigma nữa, - Baldric nói thêm. - Nhưng không sao. Các chính phủ hiện giờ đều đang nín thở. Vàng sẽ che chở cho chúng ta lắm đó. Bây giờ chúng ta phải hành động. Đầu tiên là Washington, sau đó là cả thế giới. Và trong cảnh hỗn loạn đó, sẽ có khối thời gian để phá mã. Hoàn hảo sẽ thuộc về chúng ta.
— Và từ châu Phi, một thế giới mới sẽ vươn mình đứng dậy. - Isaak nói như học vẹt, cứ như thể là một lời cầu nguyện đã khoan sâu vào đầu óc y từ hồi còn bé, như xi - măng hóa đá trong mã gien của y.
— Trong sạch và không có đồi bại tham nhũng. - Baldric nói thêm, kết thúc lời kinh cầu. Nhưng những lời lão nói cũng vô vị không kém. Cứ như thể là tất cả những chuyện này không hơn gì một bước nữa tiến vào chương trình lai tạp của hắn, một bài tập khoa học.
Baldric loạng choạng đứng thẳng người lên bên chiếc ba - toong. Không có khán giả chỉ có cháu nội của lão. Gray nhận ra người này mới có dáng vẻ thực sự yếu đuối làm sao. Gray tự hỏi nếu như thời biểu hành động đã được đẩy sớm lên này không bị thêm dầu vào lửa bởi cái chết đang đến gần lão Baldric hơn bất cứ việc cần thiết nào, liệu có phải tất cả bọn họ đều là những con tốt đen vô ý thức trong ham vọng của lão Baldric muốn thúc nhanh kế hoạch của lão? Liệu lão Baldric có điều hành kịch bản với mục đích - tỉnh táo hoặc không tỉnh táo - để minh chứng cho hành động bây giờ, trong cuộc đời của lão?
Isaak lại nói. Y đã chuyển sang một máy trạm khác.
— Trên bảng đã có đèn xanh. Cái chuông đã sạc đủ năng lượng sẵn sàng kích hoạt. Chúng ta có thể làm vệ sinh đồn điền, quét sạch bọn tù lẩn trôn.
Gray đơ người ra. Tất cả những trò này là gì?
Baldric quay lưng lại phía màn hình nhấp nháy những mã chữ Run và chú ý đến trung tâm căn phòng.
— Chuẩn bị kích hoạt.
Gray chuyển chỗ nhìn sâu hơn vào căn phòng.
Giữa tâm căn phòng là một vật hình vỏ sò to tướng làm bằng chất liệu tổng hợp thép và gốm. Nó có dáng dấp như một Cái chuông để lộn ngược, cao bằng tầm của Gray. Anh cho rằng anh chỉ ôm được nửa vòng chu vi khối trụ đó.
Tiếng mô-tơ, khục khục vẳng lại, một ống trụ thép hạ từ trần xuống, vận hành bằng bánh răng. Nó được thả vào trong ống trụ to hơn. Đồng thời một bình màu vàng cạnh đó mở ra một vành đệm và một dòng chất lỏng kim loại màu tím chảy vào tâm Cái chuông.
Dầu bôi trơn à? Nhiên liệu à?
Gray không biết, nhưng anh nhìn thấy số đóng tem trên thành bình 525. Đó có phải là chất Xerum bí hiểm không?
— Nâng cái khiên chắn lửa lên. - Baldric ra lệnh. Lão phải hét to để có thể nghe thấy, át được tiếng bánh răng của bộ ly hợp mô-tơ. Hắn chọc chọc cái ba - toong xuống sàn nhà.
Tầng này được lát đá xám, ngoại trừ một chỗ hình tròn trông vô vị, bề ngang khoảng ba mươi thước Anh, xung quanh Cái chuông. Quanh đó có gờ nổi dày khoảng một foot, giống như một vòng tròn sân khấu. Trần phía trên là một tấm gương phản chiếu sàn, ngoại trừ phần trần này có một vành biên lõm xuống.
Tất cả làm bằng chì.
Gray hiểu ra vành sàn ngoài hẳn phải nâng bằng pit - tông và cắm vào trần, hình thành một khối xi - lanh trụ trọn vẹn quanh Cái chuông.
— Sao thế? - Baldric lại hét lên, quay: sang phía Isaak đang cúi bên máy trạm.
Isaak giật đi giật lại một cần gạt.
— Chúng ta không có điện đế thổi mô-tơ khiên chắn!
Gray liếc nhìn ngón chân. mô-tơ chắc hẳn phải nằm
dưới tầng dưới. Tầng tối. Một tiếng chuông diện thoại reo vang trong phòng, ngân tiếng gay gắt, đua với tiếng mô-tơ. Gray có thể đoán được người đang gọi đó. Bọn an ninh cuối cùng đã đoán được những ông chủ ngôi nhà đang trốn nấp ở đâu.
Đến lúc phải đi.
Gray đứng thẳng người dậy và quay mình.
Một thanh ông nước quật xuống và đánh trúng cổ tay anh làm khẩu súng lục rơi tuột mất. Một thứ vũ khí gì đó lao đến đầu anh. Gray chỉ kịp tránh nhanh.
Ischke lao về phía anh. Bên cạnh mụ, các cánh cửa dân đến ô cầu thang máy tối đang mở, bị cạy ra. Chắc hẳn mụ này đã bị kẹt trong thang máy lúc bị mất điện và đã trèo xuống đến đây. Tiếng ồn ào của mô-tơ Cái chuông át đi, Gray đã không nghe thấy tiếng cánh cửa bị cạy mở phía sau mình.
Ischke giơ tiếp ống nước lên, thành thục kỹ năng như xiếc quen đánh đập nhân viên của mình.
Gray dán mắt mình vào mụ và rút lui vào buồng có Cái chuông. Anh không dám liếc nhìn xuống cầu thang chống hỏa hoạn. Anh cầu cho Marcia đã thoát đi, trên đường đến lấy chiếc bộ đàm sóng ngắn và cấp báo cho Washington.
Ischke, quần áo dính đầy dầu mỡ, mặt mày lem luốc đi theo sau Gray vào buồng có Cái chuông.
Baldric nói phía sau Gray.
— Cái gì vậy? Có vẻ như bé Ischke đã bẫy được con chuột gặm nhấm phá dây.
Gray quay lại.
Tay không. Hết giải pháp.
— Các máy phát điện đang hoạt động trở lại. - Isaak nói, thái độ chán ngán, chẳng lấy làm ấn tượng gì với vụ xâm nhập.
Một tiếng mô-tơ quay quay rung rung dưới chân Gray. Vành khiên bắt đầu từ sàn nâng dần lên.
— Bây giờ để hủy diệt các con chuột khác. - Baldric nói.

• 2 giờ 45 phút chiều
Monk phải hét lên mới nghe được, át tiếng cánh quạt chiếc trực thăng. Cát và bụi xoáy mù mịt quanh người họ theo chiều quay của chong chóng máy bay.
— Anh biết lái con chim này chứ?
Gunther gật đầu, nắm lấy cần lái của chiếc cào cào.
Monk vỗ vào vai của anh chàng khổng lồ. Anh phải tin vào quân Quốc xã thôi. Monk không thế lái con chim này được, không thể lái một tay. vẫn còn nữa, lòng trung thành của gã khổng lồ này giờ đây tập trung vào sự sống còn của em gái hắn, Monk nghĩ rằng đó là bảo đảm an toàn.
Anna ngồi ghế sau cùng với Lisa. Painter nằm rũ giữa hai người, đầu lắc la lắc lư. Anh mối hơi mê mê. Painter thỉnh thoảng lại lảm nhảm, chẳng mang ý nghĩa gì, cảnh báo về một cơn bão cát nào đó, bị ám ảnh trong những chuyện kinh sợ đã qua.
Lúi chúi đầu dưới những cánh quạt đang quay vù vù, Monk đi vòng quanh chiếc trực thăng. Phía xa, Khamisi đứng cạnh Mosi D’Gana, người tộc trưởng của bộ lạc Zulu. Họ đang nắm tay nhau.
Mosi đã trút bỏ bộ trang phục truyền thống và lúc này đang mặc bộ đồng phục dã chiến bằng vải ka - ki nhàu nhĩ, mũ lưỡi trai và đeo khẩu súng trường tự động trên vai. Một khẩu súng lục có bao treo lủng lẳng trên thắt lưng đen. Nhưng anh vẫn chưa bỏ hẳn di sản dân tộc mình. Một thanh đoản giáo có lưỡi loằng ngoằng giắt sau lưng.
— Cậu chỉ huy đi. - Mosi nói với Khamisi vẻ chính thức khi Monk đến gần.
— Rất vinh dự, thưa vâng.
Mosi gật đầu và thả cánh tay Khamisi ra.
— Ta có nghe người ta nói nhiều chuyện hay về cậu, Thằng Béo ạ.
Monk nhập nhóm. Tại sao lại gọi là Thằng Béo?
Mắt Khamisi mở to, pha trộn cảm giác ngượng ngùng và vinh dự trong ánh mắt. Anh gật đầu và bước đi. Mosi trèo vào máy bay. Anh sẽ tham gia vào đợt tấn công đầu tiên. Monk không có cách lựa chọn nào khác. Anh mang nợ với người tù trưởng này.
Khamisi bước ngang đến chỗ Paula Kane. Hai người sẽ chịu trách nhiệm phối hợp đợt tấn công trên mặt đất.
Monk tìm kiếm cái gì đó trong đám cát bụi xoáy mù mịt. Lực lượng tấn công tập trung mau lẹ, người thì đi bộ, người thì đi ngựa, người đi xe máy cũ và người thì đi bằng xe tải nhỏ. Mosi đã ra lòi hiệu triệu. Và giống như vị tổ tiên vĩ đại của ông - người anh hùng Shaka Zulu, cả một đạo quân đã tụ hội. Đàn ông, đàn bà. Người thì đóng khố khoác vải da trang phục truyền thống, người thì mặc đồ dã chiến đã cũ, người thì mặc quần bò Le vi. Và còn nhiều người nữa đang lục tục kéo đến.
Chuyện này là tùy thuộc ở họ, áp đảo đội quân nhà Waalenberg, chiếm giữ lấy đồn điền nếu có thể. Làm thế nào mà người Zulu có thể đánh lại được lực lượng an ninh của đồn điền có kinh nghiệm và được trang bị vũ khí siêu việt hơn? Hay lại sẽ là chuyện Dòng sông Máu đây?
Chỉ có mỗi một cách để tìm ra.
Monk chuyển mình về khoang phía sau đông đúc. Mosi ngồi trên ghế cạnh Thiếu tá Brooks. Họ ngồi trên một ghế băng đối diện Anna, Lisa, và Painter. Một người mới đến khác - một chiến binh Zulu trần nửa người có tên là Tau, cũng cột mình vào ghế sau, xoay nửa người để gí một mũi đoản lao chọc vào cổ họng người phi công phụ của chiếc cào cào này.
Trưởng đồn kiểm lâm Gerald Kellogg ngồi ngay cạnh Gunther, bị trói và nhét giẻ vào mồm. Một mắt bị sưng lên, tím tái.
Monk trèo vào khoang sau máy bay, vỗ vào vai Gunther và khoác tay ra hiệu cho chú chim sắt bay lên. Gật đầu nhận lệnh, Gunther kéo bộ ly hợp điều khiển và chiếc cán gáo bốc lên trời cùng tiếng động cơ gầm gào.
Mặt đất rời xa dần. Đồn điền trải ngay trước mắt họ. Monk đã được cảnh báo rằng đồn điền này có tên lửa đất - đối - không. Chẳng có vũ khí gì trên máy bay, chiếc cào cào thương mại này sẽ chẳng khác gì tấm bia đang bay.
Như vậy sẽ không hay ho gì.
Monk vươn người về phía trước.
— Đến lúc cho mày lập công chuộc tội đây, gác rừng ơi.
Monk cười nhăn nhở đầy ác ý. Anh biết trông như thế không đẹp, nhưng mà cứ tự nhiên lộ ra thôi.
Kellogg mặt tái mét.
Hài lòng, Monk vươn về phía trước nhấc micro chiếc bộ đàm gí vào môi tên gác rừng.
— Bắt liên lạc với nhóm an ninh ngay.
Khamisi đã thu được mã. Vậy nên mắt Kellogg mới thâm tím.
— Đọc cho đúng bản viết tay đấy. - Monk cảnh báo, vẫn cười nhăn nhở.
Kellogg vươn mình một chút tránh ra.
Điệu cười của anh có khủng khiếp đến thế không nhỉ?
Để gia tăng sức đe dọa, chiến binh Tau còn ép mũi giáo của mình vào chỗ thịt mềm ở cổ người đàn ông.
Tiếng nhiễu xạo xạo từ máy bộ đàm phát ra, và Kellogg chuyển thông điệp như được hướng dẫn.
Chúng tôi bắt lại được một tù nhân của các vị
. Tên gác rừng nói với bọn an ninh tại căn cứ.
Tên hắn là Monk Kokkalis. Chúng tôi đang chở hắn đến hạ cánh tại sân bay trên mái nhà.

Gunther theo dõi lời đáp của tụi an ninh qua cáp đeo tai.

Nghe rõ. Xong, thoát sóng
. Kellogg nói.
Gunther hét lên một chút.
— Chúng ta vừa được phép vào rồi. Nào ta đi vào.
Y chúi mũi chiếc trực thăng xuống và tăng tốc nhằm hướng đồn điền bay tới. Trước mặt, khu biệt thự hiện lên. Từ trên không trung trông nó thậm chí còn rộng lớn hơn.
Xoay mình và ngồi vào ghế, Monk đối diện với Lisa. Bên cạnh cô, Anna tựa mình vào cửa sổ, mắt cau lại vì đau. Painter thì thả mình treo trên dây an toàn rên rỉ. Thuốc giảm đau đang hết tác dụng.
Lisa giúp dựng anh ngồi ngay ngắn trở lại.
Monk để ý thấy cô nắm bàn tay anh và cứ giữ như thế suốt.
Mặt cô hướng về phía Monk.
Nỗi sợ hãi rõ nét trong ánh mắt cô.
Nhưng không phải sợ cho riêng cô.

• 2 giờ 56 phút chiều
— Đã kéo ăng - ten phát sóng lên chưa hả? - Baldric hỏi.
Isaak gật đầu xuống bảng điều khiển.
— Cho Cái chuông chuẩn bị kích hoạt.
Baldric quay sang Gray.
— Chúng tao vừa nạp mã DNA của những đứa cùng đi với mày vào Cái chuông. Nó sẽ điều chỉnh đầu ra để làm biến chất, phá hủy có lựa chọn bất cứ mã DNA khớp giống với nó, trong khi đó lại không làm hại tất cả những mã gien khác. Phiên bản của một giải pháp cuối cùng của chúng tao.
Gray hình dung thấy Fiona đang trốn nấp trong một căn phòng. Còn Monk thì lúc này đang bay trên trời.
— Không cần phải giết họ đâu. - Gray nói. - Các vị vừa bắt được đồng đội của tôi rồi. Chỉ cần thả thằng bé và con bé con đi.
— Nếu như tao đã học được điều gì trong mấy ngày qua, thì tao học được điều tốt nhất là không được để lỏng một sợi dây trói nào hết. - Baldric gật đầu với Isaac. - Kích hoạt Cái chuông ngay.
— Đợi đã! - Gray hét ầm lên, bước hẳn lên một bước.
Ischke đã rút súng lục ra và cảnh cáo anh bước lui lại.
Baldric liếc nhìn lại, chán chường và sốt ruột.
Gray chỉ còn mỗi một con bài.
— Tôi biết cách phá mã của Hugo.
Ngạc nhiên đã làm dịu thái độ cương quyết của Baldric. Lão giơ một tay ra hiệu hoãn lệnh về phía Isaak.
— Mày biết à? Mày có thể làm được bài toán mà một loạt máy tính Cray của chúng tao đến bây giờ vẫn thua sao?
Trong giọng lão nói vang lên vẻ nghi ngờ.
Gray biết rằng anh phải mời chào lão Baldric thứ gì đó, bất kể thứ gì, để chặn không cho hắn bật Cái chuông lên phóng xạ vào bạn bè đồng đội anh. Anh chỉ tay lên màn hình, táp qua lại các chữ Run. Chiếc máy tính chóp chuyển và tìm ra một tổ hợp toán tử, cho ra mật mã số không.
— Các vị hỏng ngay trên chính máy các vị. - Gray hứa.
— Tại sao lại thế?
Gray liếm đôi môi khô của mình, sợ hồi hộp, song anh phải tập trung trí lực. Anh biết chắc chắn rằng máy tính sẽ tính sai vì thực ra anh đã giải xong bài toán đố của các chữ Run đó. Anh không hiểu được lòi giải, nhưng anh biết anh đã cho ra lời giải đúng, đặc biệt xét đến di sản
Do Thái của Hugo Hirszfeld.
Ấy nhưng, anh có thể để lộ ra tới mức nào? Anh phải mặc cả bằng tất cả khả năng của mình, cân đối giữa sự thật và câu trả lời.
— Các ngài đã nhập chữ Run sai từ cuốn Kinh thánh Darwin. - Gray nói chân thật. - Có sáu chữ Run chứ không chỉ có năm.
Baldric thở dài vẻ không tin làm cho các nếp nhăn quanh mồm lão hằn sâu hơn
— Cũng giống như bánh xe mặt trời mà các vị vẽ trước đó, tôi cho là như thế có phải không ạ? - Lão quay lưng về phía Isaak.
— Không à! - Gray lên giọng chắc chắn. - Để tôi chỉ cho các vị xem.
Anh tìm tìm quanh đó và phát hiện ra một cái bút dạ bên một chiếc máy trạm. Anh chỉ tay vào chiếc bút và vẫy tay xin cái bút.
— Đưa cho tôi cái bút.
Lông mày nhíu dựng lên lão Baldric ra hiệu cho Isaak.
Người ta ném cái bút dạ cho anh.
Gray bắt lấy cái bút dạ và quỳ xuống sàn. Anh vẽ lên gạch lát xám bằng cái bút dạ đen.
— Đây là chữ Run từ cuốn Kinh thánh Darwin.
Anh vẽ.
Chữ Run kiểu Run Mensch. - Baldric nói.
Gray vỗ vào đó.
— Chữ này thể hiện trạng thái cao hơn của con người, phần thánh thần ẩn náu trong tất cả chúng ta, đấy là cái tôi đã được hoàn hảo.
—Nên?
— Đây là mục đích của Hugo. Kết quả cuối cùng đã được tìm ra. Đúng không nào?
Baldric từ từ gật đầu.
— Hugo không muốn nhập kết quả đó vào mã của mình. Mã của ông dẫn đến đây. - Anh vỗ vào chữ Run mạnh hơn. - Cái này không nằm trong mã.
Dần dà hiểu ra và lão già bắt đầu tin.
— Còn các chữ Run khác trong cuốn Kinh thánh Darwin thì…
Gray vẽ lên sàn minh họa cho quan điểm của anh.
— Hai chữ Run này kết thành chữ thứ ba. - Anh khoanh tròn hai chữ Run có ngạnh lồng vào nhau. - Những chữ này đại diện cho nhân loại ở dạng cơ bản nhất, mà dẫn đến trạng thái cao hơn. Như thế; chính là hai chữ Run này phải được nhập vào mã.
Gray viết một loạt các chữ Run gốc.
— Đây là trình tự sai.
Anh xóa đi và viết đúng bộ, tách chữ cuối cùng thành hai như sau.
Baldric bước đến gần hờn.
— Và đây là bộ có trình tự đúng sao? Thế thì phải giải đoán là gì?
Gray chân thực trả lời.
— Vâng.
Baldric gật đầu, mắt háy háy khi lão xem xét phần phát hiện này.
— Tôi tin rằng anh đúng đấy, chỉ huy trưởng Pierce ạ.
Gray đứng dậy.
— Cảm ơn. - Baldric nói và quay sang phía Isaak. - Kích hoạt Cái chuông. Giết bạn thằng này đi.

• 2 giờ 7 phút chiều
Lisa giúp nâng Painter ra khỏi chiếc trực thăng lúc rô - tơ cánh quạt quay chậm dần. Người chiến binh Zulu,
Tau, đỡ một vai bên kia. Thuốc an thần mà cô tiêm cho Painter có tác dụng ngắn. Thuốc sẽ tan trong vài phút nữa.
Gunther đỡ Anna, mắt mụ bạc phếch. Người phụ nữ này đã tự cho mình một liều mooc - phin giảm đau làm tê nữa. Nhưng mụ đã bắt đầu ho văng ra đờm dính máu.
Trước mặt họ, Monk và Mosi D’Gana đứng bên xác chết của ba tên lính gác sân bay trực thăng. Bên an ninh đã đòi có gác, chực đón một tù binh. Chỉ mất một loạt đạn súng có Ống giảm thanh là trưng dụng được sân đậu máy bay.
Monk đổi chỗ cho Tau.
— Anh ở lại đây. Canh chiếc cán gáo này. Để mắt đến thằng tù binh nhé.
Warden Kellogg đã bị lôi tuột khỏi máy bay và dúi vào một chỗ trên mái nhà. Mồm bị nhét giẻ, tay bị trói phía sau lưng, chân bị trói. Hắn chẳng thể đi đâu được.
Monk vẫy Thiếu tá Brooks và Mosi D’Gana dẫn đường. Họ đã xem xét kỹ sơ đồ ngôi nhà mà Paula Kane đưa cho và tính toán tuyến đi đến tầng hầm. Đó là đường cần phải đi. Sân trực thăng này nằm gần phía sau khu biệt thự.
Brooks và Mosi dẫn họ đến cửa trần nhà dẫn vào biệt thự, súng khoác trên vai. Hai người này di chuyển cứ như thể là họ trước đó đã làm việc với nhau, rất nhịp nhàng hiệu quả. Gunther cũng mang theo khẩu súng lục và khẩu tiểu liên cụt nòng treo chéo sau lưng. Xù xì lỏm chởm súng đạn, họ đến chỗ cửa.
Brooks lao về phía trước. Thẻ khóa lấy trộm từ những tên lính gác bị bắn chết đã mở được khóa xuống dưới. Brooks và Mosi biến luôn vào trong, dọn đường. Những người kia theo sau.
Monk kiểm tra đồng hồ. Bấm định giờ cho khớp là quyết định mọi thứ.
Một tiếng huýt sáo vẳng lên từ bên dưới.
— Ta xuống đi. - Monk nói.
Họ vội vã đi qua cửa và thấy một giếng cầu thang ngắn dẫn đến tầng sáu. Brooks đứng ở chiếu nghỉ. Một tên lính gác khác nằm sóng sượt trên cầu thang, cổ vỡ toác, máu động mạch đang bơm ra. Mosi nép mình ở chỗ chiếu nghỉ tiếp đó, tay cầm con dao đẫm máu.
Họ tiếp tục đi xuống, quanh quanh cầu thang. Họ không chạm trán tên lính gác nào nữa. Như họ dự đoán, phần đông lực lượng chiến đấu của đồn điền này đã ra phía ngoài đồn điền rồi. Đám đông người bộ lạc Zulu đã lôi kéo phần đa sự chú ý của chúng.
Monk lại nhìn đồng hồ lần nữa.
Đến được tầng hai, họ thoát ra cầu thang và nhằm hướng hành lang gỗ dài bóng vec - ni. Ớ đó nhiều bóng che và tối. Những nến có đế treo tường bập bùng cứ như thể là hệ thống điện vẫn sáng sau khi mất điện… hoặc là cái gì đó hút giữ rất nhiều điện.
Lisa cũng để ý thấy không khí có mùi ghê tởm.
Hành lang tịt lối vào chỗ cắt ngang. Brooks trinh sát phía phải, hướng mà họ cần phải đi. Anh trở lui một vòng xoay, ép người vào tường.
— Quay lại… quay lại ngay.
Một tiếng gừ dữ dội đầy thách thức bật lên từ một góc. Tiếng khịt khịt tiếp theo và tiếng tru đầy phấn kích. Một tiếng gầm ré lên át đi tất cả.
— Ukufa, - Mosi nói, vẫy họ lui hết lại.
— Chay đi - Brooks nói. - Tôi sẽ cố dọa chúng sợ bỏ đi, rồi theo kịp sau.
Monk kéo lôi Lisa và Painter đi.
— Những con này là…? - Lisa hỏi, nghẹn cả lời.
— Có đứa thả bọn cẩu vệ này ra cắn chúng ta. - Monk nói.
Gunther lếch nhếch chạy cùng với Anna. Gã khổng lồ cõng em gái, chân mụ lướt sướt kéo lê trên sàn nhà.
Một loạt đạn bắn phía sau lưng họ.
Tiếng gầm gào, tru tréo chuyển thành tiếng kêu ăng ẳng, ư ử vì đau.
Họ chạy nhanh hơn.
Nhiều loạt đạn hơn, nghe tiếng bắn như điên.
— Mẹ kiếp. - Brooks chửi thề rất to.
Lisa liếc qua vai.
Brooks và Mosi đã bỏ vị trí và chạy xuống hành lang, tay chỉ ra phía sau, bắn.
— Đi, đi. - Brooks hét lên. - Quá nhiều chó!
Ba con dã thú lông trắng phóng vòng vào góc đằng sau mấy người, đầu chúng cúi xuống đất, hàm lập bập, lông gáy dựng hết cả lên. Móng cày xối vào sàn gỗ lúc chúng chạy như kiểu chạy của thằn lằn, hầu như đoán được đường đạn, tránh được những viên đạn giết người, cả ba con đều bị thương, nhưng hình như chúng càng cuồng điên hơn chứ không yếu đi vì bị thương.
Lisa quay lại đúng lúc nhìn thấy hai con dã thú cùng giống nhảy ra từ hai phía ở cuối hành lang, cắt đứt đường thoát.
Phục kích à.
Khẩu súng lục to đùng của Gunther nổ như súng đại bác, đinh tai. Phát đạn của y bắn trượt con dã thú dẫn đầu khi nó di chuyển vị trí nhanh y như những bóng hình nhảy múa.
Monk giơ súng lên, dừng lại.
Quán tính chạy của Lisa lôi cô văng lên trước. Cô ngã quỵ một gối, kéo theo tay của Painter. Anh ngã sập xuống, hơi bừng tỉnh vì cú va đập.
— Đâu cơ…? - Anh hỏi giọng chếnh choáng.
Lisa kéo anh thấp đầu xuống khi cả căn phòng sảnh đầy đạn bay.
Một tiếng gầm phía sau cô.
Cô giật giật vòng quanh. Một bóng hình nặng nề xô ra từ cửa gần đó xô mạnh Thiếu tá Brooks vào tường.
Lisa quờ quạng tìm đường kêu lên.
Mosi nhào đến giúp, ngọn mác hua trên đầu, môi hú lên.
Lisa ôm ghì lấy Painter.
Bọn dã thú khắp nơi.
Lisa nhìn thấy có vật gì cử động. Lại một con dã thú khác xuất hiện ở cánh cửa bên trái, tiếng kèn kẹt của bản lề cánh cửa. Mõm nó đầy máu và mảnh thịt tươi. Mắt đỏ ngầu lóe lên trong phòng tối. Cô nhớ ngay đến vị sư đầu tiên mà cô đã trông thấy, như thú đói, hoang dại nhưng lại hành động đầy khôn ngoan và láu cá.
Ở đây cũng y như vậy.
Lúc con thú lao bổ vào cô, môi nó bạnh ra cùng tiếng gầm đắc thắng.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Trật Tự Đen (A Sigma Force #3).