• 1,567

V - Chương 4


Số từ: 6001
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Rồi sự kiện tháng Sáu năm 1967 nổ ra, và khi tin tức lọt đến Detroit thì không ai còn dám bảo cậu nhát gan nữa.
Khoảng giữa tháng Năm, Bruce đã thấy rõ Trung Đông sẽ không tránh khỏi chiến tranh.
Cậu và ông bà ngoại kinh hoàng theo dõi sự đổ vỡ của các quan hệ ngoại giao; họ không thể tin U Thant[48] dám cư xử như ông ta đã làm; họ không thể tin Gamal Abdel Nasser[49] sẽ mạo hiểm như ông ta đang làm.
Ông ta phải biết,
Bruce phát biểu tại bàn ăn vào buổi tối vịnh Aqaba đóng cửa đối với tàu thuyền Israel,
là quân ta có thể đánh bại quân của ông ta bất cứ lúc nào chứ.


Vì sao cháu có thể tự tin như thế?
ông ngoại cậu hỏi.

Cháu đã tận mắt thấy quân ta.

Kỳ thi lớp mười một thông thường, đến đúng vào thời điểm sức ép của Ai Cập lên cực điểm, là một thử thách; Bruce nắm vững nội dung môn thi, nhưng cậu không thể chú tâm đến những vấn đề trừu tượng trong khi vấn đề sinh tử thực tế đang được định đoạt tại quê hương. Buổi sáng hôm cậu rời khỏi nhà ông ngoại để đi thi toán, đài phát thanh đưa tin từ Damascus, khoác lác rằng quân Syria sắp mở đường thẳng qua Israel, gặp ai giết nấy, và đẩy các cư dân còn lại của đất nước này ra biển. Người phát ngôn của Syria nói rõ,
Chúng tôi sẽ giội bom cho Haifa biến khỏi mặt đất.
Làm xong bài môn cuối cùng trong cả kỳ thi khổ sở, Bruce gọi riêng một bạn cùng lớp ra, một cô gái Do Thái, và nói,
Sáu giờ tối nay – nhớ nhé, sáu giờ, không sớm hơn - tôi muốn bạn gọi điện cho ông ngoại tôi nói rằng sau giờ học tôi rẽ vào nhà bạn để thảo luận chuyện thi cử. Bạn phải thuyết phục ông là tôi đang ở đó ăn tối với bạn.


Bạn muốn tôi nói dối hộ bạn sao?


Bạn phải làm thế.


Bạn sẽ ở đâu?

Bruce nhìn quanh, rồi nói khẽ,
Tôi có tin bạn được không?


Bạn biết là được mà.


Tôi sẽ ở Israel.

Cô gái cứng đơ như bị một dòng điện chạy qua người. Cô hiểu ngay mọi chuyện và nhận ra mình được đề nghị trở thành kẻ đồng mưu vì một mục đích cao cả. Cô không nói gì trong lúc Bruce giải thích rằng mọi thành viên trong gia đình cậu đều giữ sao cho hộ chiếu còn hạn và rằng mùa thu nào sang Mỹ cậu cũng có vé máy bay khứ hồi. Cậu lấy từ trong chiếc cặp giả da hai tài liệu vô cùng ấn tượng đó và thuyết phục được cô bạn là cậu đang nói thật.

Tôi ra sân bay ngay bây giờ, bắt chuyến bay đi New York, và khoảng bảy giờ tối tôi sẽ trên đường bay về Israel. Ông ngoại tôi là một ông già khôn lanh, nếu không có tin gì của tôi, ông có thể đoán được tôi đang làm gì, vì ông cũng lo lắng về tình hình Israel như tôi vậy. Tôi đoán khoảng sáu giờ thì ông sẽ sinh nghi, và tôi không muốn ông gọi điện cho cảnh sát ở sân bay New York.

Vậy là âm mưu đã được sắp đặt, và mặc dù kẻ đồng lõa không phải một cô gái xinh đẹp, cũng không phải người cậu từng hẹn hò, cậu vẫn hôn cô, xong cô hỏi,
Bạn có định nhập ngũ không?
cậu đáp,
Hầu hết bạn bè tôi đều ở trong quân đội và tôi giúp họ chuyện điện đài.
Cậu hôn cô lần nữa, nhảy lên chiếc Pontiac mui trần phóng đến sảnh đón khách sân bay Detroit. Bảy giờ, đúng như Bruce dự đoán, cậu đã đang bay rời New York về Israel.
Cậu đến nơi vào giữa buổi sáng thứ Sáu, ngày 2 tháng Sáu, nhận thấy đất nước mình bị cuốn vào cái mà sau này, trong bức thư gửi ông ngoại, cậu miêu tả là
một thực tế kinh hoàng. Không ai hoang mang sợ hãi. Không ai tuyên bố những lời khoác lác rỗng tuếch. Nhưng mọi người đều biết lời đe dọa đáng sợ mà đài truyền thanh Damascus đã phát. Điều khiến cháu kinh ngạc là quốc vương Hussein, người chúng ta vẫn dựa vào để tìm kiếm sự cân bằng nào đó, lại tham gia vào dàn hợp xướng ấy và hò hét những điều ngớ ngẩn. Chúng cháu biết sẽ có chiến tranh, và chúng cháu biết nếu thua, chúng cháu sẽ bị tàn sát. Bọn chúng đã nói với chúng cháu như thế. Vì vậy, chúng cháu quyết không chịu thua.

Cậu bắt một chiếc cherut - loại xe tư nhân hoạt động như taxi chạy theo tuyến cố định - và lái nhằm hướng Bắc tới Haifa, nơi cha mẹ cậu vừa kinh ngạc vừa nhẹ nhõm nhìn thấy cậu; họ tán thành việc cậu đã làm và nói rằng trong những thời điểm như thế này thì gia đình phải ở bên nhau.
Cháu sẵn sàng đối diện với cha mẹ và sự can trường lặng lẽ của họ,
cậu viết cho ông ngoại,
cháu cũng sẵn sàng đón nhận không khí khích động căng thẳng thít chặt Haifa, nhưng cháu lại hoàn toàn chưa sẵn sàng trước những gì xảy ra khi gặp hai em gái, vì đột nhiên cháu nhận ra Đài truyền thanh Damascus vẫn ra rả rằng mọi người ở Haifa sẽ bị tàn sát, cũng có nghĩa là cả Ruth và Shoshana, vậy là không thể kiềm chế nổi bản thân, cháu bật khóc.

Cậu về đến Israel đúng thứ Sáu, ngày đi lễ, và dù gia đình cậu thường tránh các giáo đường Do Thái, tối đó tiến sĩ Zmora nói,
Cha nghĩ chúng ta nên đến Shul[50],
và họ cùng đi. Khuya hôm đó Yigal tìm cách liên lạc với những người bạn hơn tuổi đang là quân dự bị. Cậu vào trung tâm Haifa tới tận quảng trường, nơi con đường sắt ngầm leo núi, Carmelit, bắt đầu hành trình lên đỉnh Carmel, và tại quán cà phê ngoài trời cậu gặp ba người bạn trong nhóm. Họ rất vui mừng gặp cậu, nhưng không khí chờ đợi lặng lẽ bao trùm thành phố cũng tác động đến nơi này, nên họ giữ giọng nói thật nhỏ để khách hàng ngồi ở các bàn xung quanh khỏi nghĩ họ sợ hãi hay bị kích động.

Thể nào cũng chiến tranh,
họ bảo cậu.

Sao các anh không ra mặt trận?
Yigal hỏi.

Mặt trận? Ở đâu chả là mặt trận. Họ chưa gọi chúng tớ vì chưa bố trí xong thôi. Chúng tớ đang đợi.

Đêm tháng Sáu ở Haifa thường tuyệt vời, với tiếng thì thầm mơ hồ của những cây tuyết tùng trên đồi và tiếng vọng của biển cả dọc bến cảng. Các đôi tình nhân tay trong tay leo lên những dãy cầu thang dài, trong khi mớ hỗn độn nhiều thứ tiếng góp phần đối âm cho tiếng Hebrew gốc đa số dân chúng sử dụng. Nhưng vào đêm thứ Sáu ấy thành phố còn đẹp đẽ gấp ba, vì con người lúc cận kề cái chết ân cần với nhau gấp ba.
Rồi, không còi báo động hay còi tín hiệu, những chiếc xe khách bình thường bắt đầu đi lại khắp thành phố, cả trong những ngõ nhỏ gần bến cảng lẫn trên những đại lộ rộng rãi ở Carmel. Tài xế thường là một cô gái, không bao giờ mặc quân phục, và đám đàn ông ngồi trên xe cũng mặc quần áo thường dân. Chiếc xe sẽ dừng lại, máy vẫn nổ, những người đàn ông vội vã xuống xe nhưng không hề chạy để khỏi gây hoảng loạn. Họ sẽ đi từ nhà này đến nhà khác, hầu như im lặng, gõ cửa một hai lần và gật đầu với người đã biết trước cuộc thăm viếng này. Thường thường, không một lời nào được thốt ra, chỉ có cái gật đầu hiểu ý, nụ cười chào nhau nghiêm nghị, cánh cửa đóng lại và người liên lạc quay ra xe để tới một khu phố khác. Israel, không một lời tuyên bố trên đài phát thanh hay ngoài đường phố, đang lặng lẽ chuyển sang chế độ tổng động viên.
Khoảng chín giờ buổi tối mùa xuân đẹp đẽ đó, một trong những chiếc xe này chạy vào quảng trường, nơi Yigal đang uống soda cam cùng các bạn. Họ thấy chiếc xe đến gần và đoán ngay được tầm quan trọng của nó khi nhận ra cô gái cầm lái. Cô đỗ xe bên lề đường, và bốn người đàn ông lách qua đám đông. Một người tiến đến bàn Yigal, ánh mắt nhận ra người quen của họ giao nhau trong một thoáng, nhưng cả người liên lạc lẫn ba người lính mặc thường phục đều không lên tiếng. Người đàn ông chỉ nhìn họ và gật đầu. Ông ta vừa khuất dạng, mấy thanh niên liền nhanh chóng đứng lên rời khỏi quảng trường không để ai chú ý, ngoại trừ lúc cả nhóm đã bước đi rồi thì một người quay lại chỗ Yigal và hỏi, không cần dùng lời, liệu cậu có muốn đi cùng không, cậu muốn đi, rất muốn, vậy là cậu đứng lên tự nhiên như thể sắp đi xem phim và theo họ tiến vào bóng đêm.
Các kế hoạch động viên cho đơn vị đặc biệt này đòi hỏi họ phải trưng dụng một chiếc cherut và hai mươi gallon xăng của một người bán hàng ở rìa thành phố, rồi lái xe xuống thủ phủ sa mạc Beersheba. Họ phải lên đường ngay lập tức, không lời chào tạm biệt, và sẽ tìm thấy trang thiết bị cần thiết đã được lắp ráp sẵn ở phía Nam. Từ đó họ sẽ theo hướng Tây tiến một cách khá chắc chắn vào Sinai, vì chuyên môn của họ là bộ binh yểm hộ xe tăng hạng nặng, kiểu hoạt động mà thông tin liên lạc mang tính sống còn.
Buổi tối trong sáng và tĩnh lặng đó, vừa lái xe về hướng Nam, Yigal vừa nghĩ: Điểm khác biệt giữa người Mỹ và người Israel là ông bà mình thì đang rền rĩ ở Detroit, hỏi,
Tại sao nó lại làm như vậy?
trong khi cha mẹ mình ở Haifa, khi nhận ra mình đã đi rồi, sẽ hỏi,
Nó còn có thể làm gì khác?

Xe họ tới Beersheba khi trời còn chưa rạng, xếp hàng sau một nghìn chiếc khác tập hợp từ khắp nơi trong nước, và kho quân nhu họ đến trình diện đang rối loạn đến mức chẳng ai để ý đến sự có mặt trái phép của Yigal; suy cho cùng, cậu không quá nhỏ tuổi so với đa số binh sĩ, và vẻ ngoài thường dân của cậu không khác mọi người lắm, vì cả dân tộc thường dân đang chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh. Khi tình hình trở nên rõ ràng rằng đêm đó đơn vị họ sẽ không làm được gì nhiều, họ ngủ thiếp đi trên xe, một nhóm thanh niên bình thường có lẽ đang đợi xem trận bóng.
Trưa ngày 3 tháng Sáu, đơn vị ít nhiều coi như đã được thành lập xong, và viên sĩ quan chỉ huy, một thiếu tá mặc thường phục được mọi người gọi là ngài Sabra vì ông sinh ra ở Israel và chỉ nói tiếng Hebrew, nhòm vào xe Yigal hồi,
Ai đây?
và các bạn Yigal giải thích,
Cậu ấy là người say mê phương tiện liên lạc. Cậu ấy có thể sửa bất cứ thiết bị gì.
Ngài Sabra quan sát cậu rồi hỏi,
Cậu đã quen với thiết bị của chúng tôi chưa?
Yigal gật đầu, thiếu tá nói,
Chúng ta có thể dùng cậu ấy,
và cứ cái lối ngẫu nhiên đó, Yigal ra trận.
Nửa đêm ngày 3 tháng Sáu, đơn vị dùng taxi trưng dụng hành quân tiến một địa điểm cách biên giới Ai Cập không quá hai dặm, nhưng biện pháp này quả sai lầm vì trong vùng này, phần đất duy nhất của Ai Cập tiếp giáp với Israel là Sinai, nơi hoang vu mênh mông mà trong suốt chiều dài lịch sử phải đảm nhận vai trò là vùng đệm tự nhiên giữa Ai Cập và các nước láng giềng ở phía Đông nhưng lại chưa bao giờ hoàn thành vai trò đó. Thay vì tạo nên một bức tường, nó lại trở thành con đường đáng sợ rực rỡ ánh sáng suốt bốn nghìn năm qua đã chén sạch bao đạo quân lẫn lạc đà và trong những thập kỷ gần đây lại đâm ra thèm được ngốn xe tăng với máy bay.
Yigal và các bạn chờ suốt cả ngày 4 tháng Sáu dài dằng dặc và nóng bức ấy; họ lau chùi súng ống, còn Yigal mày mò với thiết bị điện đài, không thể thử đến nơi đến chốn vì buộc phải giữ im lặng. Cậu dò được nhiều bức điện từ Sinai, và dù chúng đều bị mã hóa, cậu vẫn suy ra rằng tại khu vực đó chắc hẳn phải có sự di chuyển của một số lượng xe tăng đáng kể.
Mình không hiểu đứng trước một chiếc xe tăng thì như thế nào nhỉ?
Cậu hỏi các bạn thân.
Chúng ta sẽ khám phá ra,
họ trả lời một cách kiên cường,
vì xe tăng của ta sẽ không quanh quẩn ở đây để bảo vệ chúng ta đâu. Cờ lệnh mà phất là chúng sẽ đi Cairo liền.

Nói chung trong đám bộ binh, mọi người đều biết rằng một khi chiến tranh bắt đầu, họ phải tự xoay xở lấy, vì thắng lợi không phụ thuộc vào sự an toàn của họ mà vào tốc độ xe tăng mở được đường vào Ai Cập.
Chúng ta sẽ có mặt ở kênh Suez hai ngày sau khi chiến tranh nổ ra,
một anh bạn của Yigal dự đoán.
Chúng ta sẽ di chuyển rất nhanh... thế đấy, cậu giữ cho điện đài hoạt động để họ có thể theo dõi được vị trí của chúng ta. Vì chúng ta phải tự xoay xở lấy.

Đơn vị đã có vài chiếc xe tải được trang bị để chiến đấu trên sa mạc, nhưng không đủ. Họ còn có mấy chiếc taxi có bánh xe dự trữ và giá để thùng xăng, nhưng cũng không đủ.
Cậu không thể khẳng định chúng ta là một đơn vị sáng giá,
bạn Yigal nói.
Thiết bị tốt thì ở mặt trận, nơi người ta cần. Nhưng cậu biết tớ nghĩ gì không? Tớ hoàn toàn tin tưởng rằng trước hoàng hôn ngày đầu tiên chúng ta sẽ sử dụng trang thiết bị của Ai Cập.

Trong buổi chiều nóng bức, mọi người hỏi Yigal xem nước Mỹ như thế nào, cậu nói,
Không tệ. Đường sá rộng rãi. Hệ thống điều hòa không khí. Tớ thích những cái đó nhưng trường lớp thì có phần lộn xộn. Cậu không học được nhiều... không nhiều nếu trước đó cậu đã được học tại một trường tốt ở Israel.
Trong số thính giả của cậu không ai được học trung học, vì vậy họ không thể đánh giá được.

Cậu có thích sống ở bên đó không... ý tớ là thường xuyên ấy?


Cũng không đến nỗi nào.


Bọn con gái thì sao?


Buồn cười thật. Có một điều trước kia tớ chưa bao giờ nhận thấy. Nhưng khi cậu ở Hoa Kỳ, mọi người yêu cầu cậu phải là người Do Thái. Còn ở đây - ai thèm quan tâm chứ, có lẽ chỉ trừ người Ai Cập, mà cũng chỉ một vài người trong bọn họ thôi. Cha mẹ tớ hầu như chẳng bao giờ đến giáo đường. Nhưng ở Hoa Kỳ thì... Các cậu đang hỏi về bọn con gái. Mọi cô gái đều là Do Thái hoặc không phải Do Thái... Làm như ghê gớm lắm. Ngoài ra, bất cứ cầu thủ bóng đá nào ở Israel cũng có thể gia nhập đội của họ.

Đêm xuống và không gian chìm trong tĩnh lặng. Không một âm thanh nào vọng từ Sinai. Ánh sáng yếu ớt lờ mờ chiếu lên cảnh vật bất động, và mọi người thiếp đi, nhưng gần sáng có tiếng máy bay ầm ì. Tất cả mọi người sẵn sàng đối phó với cuộc tấn công của quân Ai Cập, nhưng chẳng có gì xảy ra cả, và ngay trước lúc bình minh, lệnh
Xuất phát
được truyền xuống, vậy là cái tập hợp đủ kiểu xe thường lẫn xe tải nổ máy rồi bắt đầu chạy về biên giới phía Tây, nhưng mới đi được hai dặm thì họ nhận được lệnh rời khỏi đường, và họ ngồi trong đám bụi, sững sờ và có phần khiếp sợ, khi một đoàn xe tăng lao qua với ý định rõ ràng là vượt biên giới phía trước. Mặc dù khi nhìn thấy những con quái vật đó cách mình chỉ vài bước, các chiến sĩ trẻ đều kinh sợ trước sức mạnh khủng khiếp của chúng, nhưng nghe chúng lao qua, tiếng ầm ầm xé toang bầu không khí xung quanh, thì lần đầu tiên họ mới hiểu thế nào là chiến tranh.
Trời đã sáng ngay khi họ tới biên giới và tạm thời dừng lại, hành động có vẻ buồn cười, vì hiển nhiên xe tăng đã lọt vào sâu trong lãnh thổ Ai Cập, nhưng mệnh lệnh cuối cùng vẫn chưa tới, vì vậy họ phải đợi, và ngay sau đó thấy một đoàn máy bay trên bầu trời, họ ban đầu cho rằng đó là quân Ai Cập.
Tránh xuống hào!
các sĩ quan hét lên, Yigal chưa kịp nhảy ra khỏi chiếc xe thông tin thì một người khác đã reo,
Máy bay Israel! Máy bay Israel!
và mọi người hoan hô cổ vũ.
Họ chờ ở biên giới khoảng hai tiếng, không nghe thấy gì không nhìn thấy gì suốt thời gian đó, nhưng đến tám giờ sáng, một người cưỡi xe máy ầm ầm chạy tới, mang theo chỉ thị cho phép họ tự do hành động, và lần thứ hai Yigal được nếm trải mùi vị chiến tranh, vì liên lạc viên là một cô gái - khoảng hai mươi tuổi, vai rất rộng - không hiểu sao trông có vẻ con người hơn đám đàn ông ấy, và khi cô gái quay xe trong đám bụi mù mịt phóng trở về Beersheba, Yigal bất giác kêu lên,
Chúc may mắn!
Như thể cô mới là người đang ra trận chứ không phải cậu.

Tiến về Cairo!
Ai đó hô to, tất cả kêu lên hưởng ứng. Đoàn xe đủ mọi kiểu nhanh chóng chuyển bánh, vượt biên giới với tốc độ tối đa và tiến vào vùng hoang mạc mênh mông nơi xưa kia Đức Chúa đã trao cho con dân Israel những tấm đá khắc lời răn của Người.
Căn cứ tốc độ của đoàn xe, Yigal đoán họ đang cố gắng tới Cairo lúc hoàng hôn, không mong chạm trán quân Ai Cập thù địch, vì chân ga bị dận sát xuống sàn xe và chẳng ai thèm quan tâm đến ụ đất hay hiểm nguy trên đường. Họ tiến được khoảng bốn mươi dặm thì chiến tranh mới trở thành một thực tế; trước mặt họ, một chiếc xe tăng Ai Cập bị thiêu rụi đang nằm cháy chập chờn như bó đuốc sắp tắt. Mọi người reo lên hoan hô khi phóng qua, và Yigal ngạc nhiên nhận thấy không ai bắn dù là một phát đạn vào chiếc xe tăng.
Nhưng đến giữa buổi chiều tình hình đã thay đổi đáng kể. Một là địa hình gồ ghề hơn nhiều. Hai là một chiếc máy bay Ai Cập xuất hiện cố gắng oanh tạc một cách dữ dội nhưng vô ích.
Tên phi công chắc say rượu,
một anh bạn của Yigal nói.
Tớ lái còn giỏi hơn, mặc dù tớ chưa được lên máy bay bao giờ.


Nhìn kìa! Hắn không say. Hắn sợ.
Một người lính khác chỉ về phía chân trời, nơi hai chiếc phản lực Israel vừa xuất hiện từ phía bên kia dãy núi thấp. Với tốc độ kinh người, chúng vút qua bầu trời và tiếp cận chiếc máy bay Ai Cập đang hoang mang. Đó không phải một trận đánh, chỉ đơn thuần cuộc tập bắn, với chiếc máy bay Israel thứ nhất, rồi chiếc thứ hai xông vào chiếc máy bay Ai Cập bất hạnh, nó bay lắt léo rồi lượn một vòng trước khi nổ tung trên không. Yigal và các bạn vui mừng tung hô.
Khoảng nhá nhem tối, cuối cuộc hành trình gấp gáp không gặp trở ngại nào xuyên qua Sinai, đoàn xe tới gần dãy núi phía Tây và xác định được một khe cạn có tên trên bản đồ là đèo Qarash. Nhận được tín hiệu, xe tải dừng lại và binh sĩ nhảy xuống quan sát địa hình phía trước. Như tất cả mọi người, họ cũng trải qua cái ảo tưởng dãy núi đã tạo ra:
Chỉ cần lên tới đỉnh núi kia, chúng ta sẽ nhìn suốt được đến tận kênh Suez.
Bản thân việc lên được đỉnh núi đã trở thành một mục đích cuối cùng.
Ông Sabra tập hợp các thiếu úy lại và nói,
Theo lẽ thường, thể nào xe tăng Ai Cập cũng phục kích ở đó.
Thuộc cấp của ông gật đầu.
Nhưng tôi cho rằng chúng ta phải lọt qua.
Các phụ tá của ông lại tỏ ý đồng tình. Ông ngập ngừng, chậm rãi bước từ nhóm này sang nhóm khác, nhìn vào mặt họ. Trong cuộc sống dân sự, ông là chuyên viên tính toán bảo hiểm, còn là một quân nhân, ông đã từng chiến đấu ở Sinai năm 1956, biết rằng vũ khí chủ yếu của Israel là tính cơ động được hỗ trợ bởi lòng dũng cảm của người dân.

Chúng ta đi thôi,
ông lặng lẽ nói. Không ai hô,
Tiến về Cairo.
Đối với họ, đây là đi vào trong cả dãy đồi tối tăm nơi mặt trời sẽ lặn ngay khi họ tới điểm sâu tối nhất.

Chúng ta đi thôi,
các sĩ quan cấp dưới nói, rồi tất cả quay về xe, để vùng đất bằng phẳng lại phía sau.
Khi họ đã vào sâu hẳn trong hẻm núi hẹp, nơi không thể rút lui được nữa, quân Ai Cập mới nổ súng từ ba phía và khởi động sáu chiếc xe tăng phục kích giữa các tảng đá, rõ ràng để tránh con mắt tìm kiếm của không lực Israel. Một thiếu úy Israel hoảng hốt đâm bổ lên chỗ Yigal và hét,
Đánh điện đi! Chúng ta bị bao vây rồi.

Yigal chưa kịp vận hành điện đài thì một quả đạn pháo Ai Cập đã ầm ầm xuyên qua chiếc xe tải, phá hủy phần lớn thiết bị của cậu và chặt phăng đầu viên thiếu úy. Nhiệm vụ đầu tiên của Yigal trong trận Sinai là đẩy cái thân người không đầu với cái cổ trống hoác đang phun máu lên khắp phần còn lại của chiếc radio ra xa.
Khi đêm xuống, quân Israel bị sa vào ổ phục kích đó còn lại mười bốn chiếc xe vô dụng, hai khẩu súng máy đặt trên bệ và một trăm hai mươi người. Họ bị sáu chiếc xe tăng, một số lớn súng máy đặt trên bệ và hơn sáu trăm lính địch bao vây. Trong khi quân Ai Cập vẫn chưa phải hứng chịu bất kỳ thiệt hại gì thì những loạt đạn liên tiếp đã giết chết khoảng ba mươi lính Israel. Đến nửa đêm, ông Sabra tập hợp sĩ quan dưới gầm một chiếc xe tải để bàn bạc xem nên làm gì. Yigal nghe thấy họ nghiêm túc cân nhắc các phương án, và cậu cảm thấy họ đã lường trước một thảm họa. Ông Sabra rời khỏi cuộc họp kín bước đến chỗ cậu, hồi xem bao lâu nữa thì điện đài hoạt động được, Yigal đáp,
Máy lớn thì không bao giờ. Máy nhỏ thì sắp sửa,
vậy là ông Sabra bảo,
Cậu đã nói với tôi cậu có thể lo được việc liên lạc qua điện đài,
Yigal nói,
Ông nhìn thử máy móc xem, thì viên thiếu tá gắt,
Thôi được, làm nó hoạt động đi.

Khoảng ba giờ sáng, trong lúc quân Ai Cập vẫn bắn vào đám xe tải chết máy, Yigal đã lắp đặt xong bộ phận thu nhận tín hiệu của chiếc điện đài, và đám sĩ quan xúm quanh để nghe tin tức trong các chương trình thời sự trên khắp thế giới, nhờ vậy biết đến thắng lợi to lớn của Israel ngày hôm đó. Họ gần như không thể tin những gì mình nghe: sáu trăm máy bay bị phá hủy; các đơn vị xe tăng sẵn sàng tấn công kênh Suez; những trận đánh lớn tại Jerusalem và cao nguyên Golan; bầu trời không còn bóng dáng máy bay địch.

Trời,
một sĩ quan trịnh trọng phát biểu.
Chúng ta đang ở thế chiến thắng.


Các đơn vị khác thôi, không phải chúng ta,
ông Sabra chỉ rõ, và như thể để nhấn mạnh tính đúng đắn của phân tích này, quân Ai Cập lại nã một cơn mưa đạn pháo khác vào đoàn xe tải.

Bọn chúng không biết là đã thua trận,
ông Sabra nói,
nên sáng ra chúng sẽ băm vằm chúng ta. Máy bay của ta sẽ không bao giờ phát hiện ra đám xe tăng đó. Cái điện đài chết tiệt kia thế nào rồi?

Yigal không thể làm gì với hệ thống truyền tin, nhưng bộ phận thu tín hiệu vẫn tiếp tục đưa hàng loạt bản tin khiến tất cả người nghe phấn chấn. Tại Jerusalem những người đứng đầu chính phủ công khai bày tỏ sự vui mừng trước thắng lợi trên quy mô lớn mà có khả năng ngày hôm sau vẫn còn tiếp tục. Mọi người hoan hô trong bóng đêm, rồi nghiên cứu một cách tỉnh táo về tình thế dở khóc dở cười của bản thân: sắp bị tiêu diệt hoàn toàn vào đúng thời điểm đất nước giành thắng lợi.
Vì vậy ngay trước bình minh, ông Sabra tập hợp chín mươi chiến sĩ sống sót của mình và nói,
Chúng ta sẽ nhanh chóng giải quyết từng chiếc xe tăng một. Chúng ta sẽ đánh đuổi từng tên Ai Cập một ra khỏi hẻm núi này. Và chúng ta sẽ làm thế nào để không mất một binh sĩ Israel nào hết.
Họ đã từ bỏ mọi hy vọng vào sự can thiệp thần diệu từ bên ngoài; nếu hôm qua không quân Israel không phát hiện ra xe tăng Ai Cập thì hôm nay cũng sẽ không phát hiện ra, và nếu điện đài không thể gửi tin thông báo vị trí của họ thì chẳng thể nào trông mong vào cứu viện.
Chúng ta tiêu diệt đám xe tăng ấy,
ông Sabra nói, vậy là trước khi ánh sáng hé rạng trên khắp dãy đồi vô tận, quân Israel chia thành mười một mũi tấn công. Yigal và bốn anh bạn Haifa ở lại trong chiếc xe tải thông tin đã bị tàn phá, cố gắng thiết lập mối liên lạc nào đó với lực lượng Israel chiến thắng. Họ ở trung tâm cửa vành đai, nhưng sẽ không được bảo vệ.
Các cậu ở lại đây làm việc đi,
ông Sabra hạ lệnh, Yigal gật đầu:
Tôi sẽ sửa được... bằng cách này hay cách khác.

Ông Sabra hỏi,
Cậu bao nhiêu tuổi?


Mười sáu.


Cậu có chắc cậu hiểu rõ về điện đài không?


Tôi sửa được.


Nếu sửa được, hãy cho họ biết về đèo Qarash. Thông báo những tọa độ này. Sáu xe tăng Ai Cập ẩn kín sau đồi. Mà chỉ ít lâu nữa sẽ không còn đủ cả sáu đâu.

Đó là một sáng chiến đấu oai hùng, lực lượng Israel chia thành nhiều mũi xông vào chiếc xe tăng Ai Cập thứ nhất, rồi một chiếc khác, lần nào cũng thất bại vì tháp pháo luôn xoay sang đối đầu với họ bất kể họ tấn công từ hướng nào. Thỉnh thoảng đưa mắt quan sát từ chiếc xe tải thông tin, Yigal thấy hai chiếc xe tăng nặng nề tiến về phía trước mấy thước, bắn xối xả vào những kẻ tấn công không nhìn thấy được, rồi rút về vị trí định sẵn. Chốc chốc một chiếc xe tăng lại rót đạn pháo vào đám xe tải chết máy, đốt cháy chiếc này chiếc kia, nhưng hình như cấp chỉ huy Ai Cập phán đoán rằng xe tải không có người, vì rất lâu không thấy họ nã pháo.
Trong tâm trạng thất vọng, Yigal đánh vật với thiết bị hư hại cố làm cho nó hoạt động được ở mức nào đó và dần quên mất cuộc chiến đấu trong thung lũng, song giữa buổi sáng cậu nghe thấy bốn anh bạn trong xe reo hò ầm ĩ và ngẩng lên đúng lúc một chiếc xe tăng Ai Cập nổ tung như một quả cầu lửa. Một phân đội đã tiêu diệt nó bằng đạn nhiệt nhôm.
Nhưng trong lúc quá say sưa với thắng lợi cục bộ đó, một người trong xe tải đã ném vật gì đó ra ngoài, nhìn thấy hành động này ban chỉ huy Ai Cập nhận ra trong xe có người và suy ra đây hẳn phải là trung tâm thông tin liên lạc. Họ bèn quay súng tiêu diệt xe, nhưng khi đám xe tăng tập trung vào mục tiêu này, chúng lại để hở sườn và thêm hai chiếc nữa bốc cháy.
Quân Ai Cập nổi giận phái hai đơn vị biệt kích đi triệt hạ chiếc xe tải. Một người bạn của Yigal kêu lên,
Chúng đến kìa!
Quét mắt nhìn, Yigal nhận thấy không có đơn vị Israel nào ở gần đủ để ngăn chặn quân tấn công, nên cậu cùng bốn anh bạn phải giữ không cho bọn họ tiếp cận được ít nhất là trong hai đợt tấn công đầu. Cậu vớ lấy khẩu tiểu liên dù chưa quen dùng rồi lao xuống gầm xe tải.
Quân Ai Cập không được chỉ huy tốt, nhưng dũng cảm và kiên quyết tiến lên. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi cuộc chiến bắt đầu, Yigal tự hỏi liệu quân địch có nghe được tin bại trận phát trên đài không, liệu họ có biết họ là những kẻ bị cô lập trong vô vọng không những kẻ sẽ sớm bị quân Israel phát hiện và tiêu diệt. Cậu đoán là không, vì chúng mở đầu cuộc tấn công như thể đang góp phần vào một thắng lợi lớn lao hơn.
Yigal và đồng đội đẩy lùi được cuộc tấn công thứ nhất, gây thương vong đủ khiến cho quân Ai Cập phải rút lui và yêu cầu thêm hỏa lực yểm trợ, nhưng khi xe tăng tham chiến thì đơn vị này hoặc đơn vị khác của Israel lại xông ra bắt chúng phải câm họng. Súng ngừng nã đạn và đội biệt kích Ai Cập quay lại mở đợt tấn công thứ hai.
Lần này, họ bắn thấp, cố tập trung hỏa lực vào gầm xe tải và đã thành công, vì trong loạt đạn thứ nhất họ đã giết chết người ở bên trái Yigal. Theo bản năng, đề phòng trường hợp súng của mình bị hóc, Yigal với lấy khẩu súng của người chết, và bằng cách bắn nhanh và hiệu quả, bốn người Israel còn lại đã đẩy lui được đối phương.
Hành động đó đã cho ông Sabra thời gian rút khỏi cuộc tấn công đoàn xe tăng, đưa đội quân tinh nhuệ của mình chắn ngang đường rút của đơn vị biệt kích. Với hiệu quả khủng khiếp, trong tiếng nổ ròn rã, binh sĩ Israel lần lượt bắn hạ từng kẻ tấn công - tiêu diệt mọi tên trong đơn vị địch. Sau đó ông Sabra chạy tới chiếc xe tải hỏi,
Các cậu không sao chứ?


Một người hy sinh.


Các cậu sửa được điện đài chưa?


Cho tôi nửa giờ,
Yigal đáp.

Được. Chúng tôi sẽ yểm hộ các cậu,
đoạn ông quay lại chiến đấu với xe tăng.
Nhóm của Yigal lại leo lên xe, không để tâm đến những quả đạn pháo rít qua. Với lòng hăng hái chưa từng thấy, Yigal kiên trì kiểm tra lại từng chi tiết của thiết bị còn lại:
Cái này ổn. Cái này còn tốt. Cái này đang hoạt động. Cái này vào điện.
Cậu làm việc không chút sợ hãi, không hề lo lắng, và cuối cùng, cậu kết luận rằng nếu thay một bộ ống điện tử, cả hệ thống nhất định sẽ hoạt động.
Hãy báo hiệu chúng ta đã sửa xong rồi,
cậu nói với một người trong đám phụ tá, nhưng chưa kịp thử thiết bị thì một tiếng reo đã vang lên.

Một xe tăng nữa tiêu rồi!
Yigal dừng lại vừa đủ thời gian để ngó qua cánh cửa sau vỡ toang và nhìn thấy một quả cầu lửa nổ tung rực rỡ hơn cả vầng mặt trời buổi sáng. Đó cũng là lúc cậu lắp ráp xong toàn bộ, kiểm tra và gửi đi một bức điện khiến cho bộ tư lệnh tối cao và nhân dân Israel bị chấn động:
Đèo Qarash. Chúng tôi bị sáu xe tăng địch bao vây, đã tiêu diệt được bốn.

Khi cuối cùng máy bay cũng tới, tiêu diệt tàn binh Ai Cập, các chiến sĩ Israel mệt nhừ tập hợp bên chiếc xe tải thông tin hướng dẫn hỏa lực cho máy bay, và sau khi máy bay đã lao về phía Đông để quay lại căn cứ ở Beersheba và Haifa, và khi rõ ràng là một đoàn xe bọc thép đang tràn về phía Bắc cứu viện, ông Sabra mệt mỏi ngồi với quân của mình mà nói,
Hãy rút ra bài học qua trận này. Nếu một khi nào đó anh chỉ huy xe tăng, đừng chốt chúng ở những vị trí cố định. Xe tăng chẳng có ích gì trừ khi chúng di chuyển. Vì nếu anh để chúng nằm im, một đội có quyết tâm cao bao giờ cũng có thể tiêu diệt được chúng.

Khi niềm hân hoan tràn ngập Israel, Yigal không tham gia vào cuộc tán dương. Trong những ngày đầu, cậu được tôn vinh là
chú bé phụ trách điện đài ở Qarash
, nhưng rồi việc này cũng qua đi khi người ta nhận thấy trong thời kỳ khủng hoảng, Israel đã sản sinh ra hàng nghìn anh hùng.
Trong những tháng hè tươi đẹp, khi cuộc điều tra cho thấy vũ khí của địch tối tân hơn và quân đội của họ đông như thế nào, người ta mới đánh giá đúng được sự kỳ diệu trong cuộc thoát hiểm của quân Israel và họ thì thầm với nhau, trong lúc hàng đoàn xe chở vũ khí Nga chiến lợi phẩm chạy qua đường phố,
Ơn Chúa, chúng ta thật may mắn.

Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook 6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập).