Chương 16: Mười hai giờ
-
Công Tắc Bão
- Anthony Horowitz
- 3645 chữ
- 2020-05-09 03:36:53
Số từ: 3638
Nhà Xuất Bản Trẻ
London hiện ra.
Những đám mây đột nhiên trôi dạt lại phía sau, mặt trời ló dạng, chiếu những tia nắng chói lọi xuống toàn thành phố. Kia là nhà máy điện của hạt Battersea, đang đứng một cách kiêu hãnh cùng bốn ống khói to đùng vẫn còn nguyên vẹn, mặc dù hầu như toàn bộ phần nóc đã bị mục nát theo năm tháng. Đằng sau nhà máy, công viên Battersea hiện ra như một ô vuông phủ đầy cây cối cùng những bụi rậm xanh rờn, công viên chính là khu vực cuối cùng còn chống lại việc mở rộng thành phố. Ở phía xa, Vòng quay Thiên niên kỷ được đặt ở trên cao hiện ra như một đồng bạc sáng chói, trông rất cân xứng với vành bánh xe của nó. Cả London đều cúi mình trước Vòng quay Thiên niên kỷ; những ngọn tháp cung cấp hơi đốt, cùng những khu nhà khối, hàng dãy vô tận những cửa hiệu, nhà ở, đường phố, những tuyến đường ray, những cây cầu nối giữa hai bờ, bị ngăn cách nhau bởi một dải bạc sáng lóng lánh nằm ngay giữa phong cảnh, đó chính là con sông Thames.
Alex ngắm tất cả những cảnh này qua khung cửa ra vào mở trên máy bay mà lòng rối như tơ vò. Năm mươi phút trôi qua, cậu bé cứ miên man suy nghĩ về những điều mình sẽ phải làm. Đã năm mươi phút trôi qua kể từ thời điểm chiếc máy bay kêu o o trên bầu trời xứ Cornwall, qua hạt Devon, hạt Somerset, rồi đồng bằng Salisbury, trước khi qua dãy núi North Downs, thị trấn Windsor, rồi đến London.
Khi vào được máy bay rồi, cậu đã định dùng sóng vô tuyến để gọi cho cảnh sát hoặc bất cứ ai có thể nghe thấy cậu nói. Nhưng lúc nhìn thấy ông Grin đang điều khiển máy bay, cậu thay đổi ngay quyết định. Cậu bé nhớ lại người đàn ông này đã nhanh tay như thế nào khi cậu chạm trán với ông ta ở ngoài phòng ngủ. Cậu biết rằng mình chỉ có thể an toàn ở khoang chứa hàng, khi ông Grin còn bị buộc phải ngồi dính trên cái ghế phi công ở khoang trước của máy bay. Cậu bé không dám lại gần hơn, thậm chí là với khẩu súng lục rất nguy hiểm này.
Alex cũng đã nghĩ đến việc ra lệnh cho ông Grin hạ cánh xuống sân bay Heathrow. Chiếc rađiô đã bắt đầu phát ra tiếng ồn khi họ vào đến không phận của London, nhưng nó đã ngừng kêu khi bị ông Grin tắt máy. Và chiếc rađiô cũng chẳng cần phải hoạt động. Lúc họ bay về đến phi trường, hạ cánh xuống và vào phòng chờ, thì cũng đã là quá trễ rồi.
Trong lúc đứng lom khom ở khoang chứa hàng, Alex đã nhận ra hai món đồ nằm trên sàn ngay bên cạnh cậu. Chúng khiến cho cậu bé biết chính xác mình phải làm gì.
- Êeee ! (Ê này!) - ông Grin lên tiếng.
Ông ta xoay người lại trên chiếc ghế, Alex được nhìn thấy lần cuối cùng nụ cười gớm guốc do con dao xiếc bửa xuống mặt ông ta.
- Cảm ơn đã chở đến đây.
Alex nói và nhảy ra ngoài khung cửa đã mở sẵn.
Hai món đồ đó chính là hai cái dù. Alex đã mở chúng ra, đeo một cái vào trên lưng, trong lúc họ vẫn còn đang bay trên bầu trời thị trấn Reading. Cậu bé lấy làm mừng vì mình đã từng có được một ngày tập huấn về nhảy dù với Quân chủng Không quân Đặc biệt, chuyến bay do ông Grin lái này còn tệ hơn cả chuyến bay mà cậu phải chịu đựng nơi thung lũng Welsh nữa. Lần này không có dây cáp trượt. Chẳng ai có thể cam đoan với cậu là dù của cậu đã được gói đúng cả. Nếu cậu bé đã nảy ra được một ý nghĩ nào khác để đến Viện Bảo tàng Khoa học trước lúc cậu chuẩn bị nhảy bảy phút, thì cậu đã làm rồi. Không có cách nào khác. Alex biết như vậy. Thế nên cậu đã nhảy ra khỏi máy bay.
Lúc còn đứng ở ngưỡng cửa, cậu không cảm thấy tệ lắm. Cậu chỉ thoáng thấy chóng mặt khI gió thổi thốc vào người một lần nữa. Cậu nhắm mắt lại, buộc mình phải đếm đến ba. Nếu bung dù quá sớm thì dù sẽ dễ vướng vào đuôi máy bay. Mà ngay cả có đúng như thế thì cậu bé cũng vẫn nắm chặt tay lại, cậu đã đếm đến ba trước khi cố hết sức mở dù. Chiếc dù xòe ra bên trên Alex và cậu bị kéo giật ngược trở lại, dây đeo thắt vào nách và vào hông cậu bé.
Họ đã bay ở độ cao ba trăm mét. Khi mở mắt, Alex ngạc nhiên khi thấy mình trở nên điềm tĩnh một cách lạ lùng. Cậu đang lơ lửng trong không trung, bên dưới một vòm lụa trắng. Cậu có cảm giác như mình chẳng hề chuyển động. Hiện giờ, cậu đã rời khỏi máy bay, thành phố trở nên xa cách và huyền ảo đến huyễn hoặc. Lúc này chỉ có cậu, bầu trời và London thôi. Alex chợt cảm thấy vui vì điều đó.
Đột nhiên cậu nghe thấy tiếng máy bay quay trở lại.
Nó đã bay đi được hơn một dặm rồi kia mà, nhưng giờ thì cậu thấy nó đang nghiêng hẳn về bên phải khi thình lình bẻ ngoặt lại. Động cơ tăng tốc, chiếc máy bay lao thẳng tới, mục tiêu chính là Alex. ông Grin không thể để cho cậu bé bỏ đi dễ dàng như thế. Khi chiếc máy bay tới gần hơn, gần hơn, cậu có thể hình dung ra nụ cười bất tận của ông ta phía sau cửa kính buồng lái. Ông Grin hẳn là có ý định sẽ xé cậu bé ra thành từng mảnh trong không trung.
Nhưng Alex đã đoán trước điều đó.
Cậu bé thò tay xuống, lấy trong túi quần ra cái máy chơi điện tử. Lần này, cậu không gài bộ trò chơi nào vào trong đó cả, bởi cậu đã lấy Bé Bom ra từ trước rồi, cậu đặt nó ở trên chiếc máy bay chở hàng trống rỗng kia, ngay đằng sau chỗ ngồi của ông Grin. Đó là một quả bom khói, được kích hoạt bởi máy điều khiển từ xa.
Cậu nhấn vào nút START ba lần.
Trong máy bay, Bé Bom bắt đầu nổ, đám mây khói vàng cay xè cả mắt đã được giải phóng. Khói từ cái lỗ thoát ra, bốc cuồn cuộn lên các ô cửa sổ, bốc cả ra ngoài cửa lên xuống đang mở. Không còn thấy ông Grin đâu nữa, ông ta đã bị khói phủ kín hết rồi. Chiếc máy bay chao đảo, lao thẳng xuống.
Nhìn theo chiếc máy bay đang rơi, Alex có thể hình dung được là ông Grin không còn nhìn thấy gì, nhưng vẫn đang cố gắng điều khiển bộ cần lái. Lúc đầu, chiếc máy bay đang xoay từ từ, sau đó, mỗi lúc nó mỗi xoay nhanh hơn. Động cơ như đang rên rỉ. Và rồi chiếc máy bay chở hàng rít lên, từ trên trời xanh, nó đâm thẳng đầu xuống đất. Đám khói vàng tỏa ra ngùn ngụt xung quanh nó. Vào phút cuối cùng, ông Grin cố gắng xoay sở để đưa chiếc máy bay đi lên. Nhưng muộn rồi. Chiếc máy bay của ông ta đâm thẳng vào một chỗ trống như là một miếng đất hoang vắng gần sông Thames, và nó biến mất trong quả cầu lửa.
Alex nhìn đồng hồ. Mười hai giờ thiếu ba phút. Thế mà giờ này, cậu bé vẫn còn cách mặt đất những ba trăm mét, nếu cậu không đáp đúng ngưỡng cửa của Viện Bảo tàng Khoa học thì cậu sẽ thất bại. Cậu bé loay hoay điều khiển mấy sợi dây dù, cố gắng tìm đường xuống đất nhanh nhất.
Trong hội trường phía Đông của Viện Bảo tàng Khoa học, lão Herod Sayle đang chuẩn bị kết thúc bài diễn văn của mình. Tất cả các gian phòng đều đã được trang hoàng thật đẹp để chứng kiến một sự kiện trọng đại, đó là những chiếc Công Tắc Bão được nối mạng.
Căn phòng là sự kết hợp giữa xưa và nay, giữa những cột đá và nền nhà bằng kim loại không rỉ sét, giữa những thiết bị tối tân nhất và những đồ vật cổ xưa từ thời Cách mạng Công nghiệp.
Ở giữa đại sảnh là một bục đứng, nơi đó dành cho Sayle, ngài thủ tướng, thư ký thủ tưởng, và ngài Bộ trưởng Bộ giáo dục. Phía trước họ là mười hai hàng ghế cho nhà báo, giáo viên, khách mời. Ông Alan Blunt ngồi ở hàng ghế đầu tiên, vẫn vô cảm như vốn dĩ. Ngồi cạnh bên ông ta là bà Jones vận trang phục màu đen, có gài một cái ghim hoa thật lớn nơi ve áo. Ở hai bên khán phòng, các ăngten truyền hình được gắn vào những camêra đều tập trung vào lão Sayle đang nói. Bài diễn văn được phát thanh trực tiếp đến các trường học trong cả nước, và sẽ được truyền hình lại trong bản tin buổi tối. Khán phòng còn chứa khoảng hai trăm đến ba trăm người khác đang đứng ở hành lang lầu một và lầu hai, tất cả mọi người từ mọi phía đều nhìn chú mục xuống cái bục đứng. Khi lão Sayle phát biểu, các máy ghi âm đều đồng loạt bật lên, đèn flash lóe liên tục. Trước đây, chưa từng có cá nhân nào lại hào phóng đến độ tặng một món quà cho quốc gia cả. Đây là một hiện tượng, một sự kiện lịch sử của loài người tiến bộ.
- ... Chính là ngài thủ tướng, đích thân ngài thủ tướng sẽ nhận lãnh trách nhiệm về cái điều sắp xảy ra ở đây - Lão Sayle nói - Tôi hy vọng rằng tối nay, khi ngài thủ tướng nhận được thông tin phản hồi từ khắp nơi trên đất nước về những gì xảy ra vào ngày hôm nay, ngài ấy sẽ nhớ lại những ngày chúng tôi cùng học chung với nhau dưới một mái trường, và sẽ nhớ tất cả mọi điều ngài ấy đã làm vào thời gian đó. Tôi nghĩ tối nay cả nước sẽ biết ngài là một người như thế nào. Đó là một điều chắc chắn. Đây là một ngày mà các bạn sẽ không bao giờ quên được.
Lão cúi chào mọi người. Lác đác có tiếng vỗ tay. Ngài thủ tướng liếc nhìn người trợ lý của mình, bối rối. Viên trợ lý nhún vai che giấu sự khinh thị. Thủ tướng tiến đến trước cái micrô.
- Tôi không biết phải đáp lại điều đó như thế nào đây.
Ông pha trò làm cho cánh nhà báo đều bật cười. Chính phủ đã có được một hậu thuẫn đông đảo, họ ủng hộ thủ tướng nên mới bật cười trước lời pha trò như thế. Thủ tướng nói tiếp:
- Tôi rất mừng là ông Sayle đã giữ được những ký ức vui tươi vẻ những ngày tháng chúng tôi cùng học bên nhau, và tôi cũng rất lấy làm vui mừng là ngày hôm nay, hai chúng tôi, lại cùng nhau đem lại sự thay đổi quan trọng cho các ngôi trường trên toàn lãnh thổ của chúng ta.
Lão Herod Sayle khẽ ra hiệu, chỉ về phía chiếc bàn đặt bên cạnh cái bục. Trên bàn là chiếc máy vi tính Công Tắc Bão, bên cạnh nó là con chuột. Lão nói.
- Đây là máy chủ. Mời ngài nhấn vào con chuột để các máy vi tính được nối mạng.
- Được.
Ngài thủ tướng đưa ngón tay của mình lên, đồng thời điều chỉnh lại tư thế để các máy camêra có thể thu được hình ảnh đẹp nhất của ngài. Ở đâu đó bên ngoài bảo tàng, đồng hồ gõ đúng mười hai tiếng.
Alex đã nghe thấy tiếng chuông đồng hồ ở độ cao một trăm năm mươi mét, nóc Viện Bảo tàng Khoa học đang hướng thẳng lên cậu bé.
Cậu bé chỉ nhìn thấy tòa nhà sau khi chiếc máy bay đã nổ tung. Chẳng dễ dàng tìm ra nó trong cái thành phố ngày một thêm rộng lớn này, thành phố trông không khác gì một bản đồ ba chiều ở bên dưới cậu. Alex đã sống phần lớn thời gian ở phía Tây London và cũng thường hay viếng thăm bảo tàng. Lúc đầu, cậu bé nhận ra một tòa nhà được xây dựng từ thời Nữ hoàng Victoria được gọi là lâu đài Albert. Ở phía nam của lâu đài là tòa tháp trắng muốt được che phủ bởi một vòm cây xanh, đó là Học viện Hoàng gia. Khi rơi xuống, Alex cảm nhận được mình rơi mỗi lúc một nhanh hơn. Cả thành phố trở thành một trò chơi ghép hình kỳ quái và cậu bé biết rằng mình chỉ còn vài giây để lắp ráp chúng lại. Một tòa nhà to lớn, xa hoa với những tòa tháp và cửa sổ trông như của nhà thờ hiện ra. Đó chính là viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên nằm trên đường Cromwell. Từ đó đến Viện Bảo tàng Khoa học sẽ phải đi như thế nào ? Dễ thôi, khi gặp đèn giao thông thì quẹo trái để ra đường Exhibition.
Chính là ở chỗ đó. Alex kéo dù, cố lái mình đến Viện Bảo tàng Khoa học. Trông viện bảo tàng thật nhỏ nhoi so với những vật thể khác được nhìn thấy từ xa, đó là một tòa nhà vuông vức nằm thụt vào con đường chính với mái bằng màu xám, cạnh đó là một loạt các cửa tò vò, kiểu cấu trúc thường hay gặp ở nhà ga hay ở một ngôi nhà kính trồng cây rộng lớn. Chúng là một khối cầu màu cam mờ đục, cái này nối với cái kia. Hình như chúng được làm bằng thủy tinh. Alex có thể đáp xuống mái bằng. Sau đó, tất cả những gì cậu bé phải làm là nhìn xuyên qua một trong các ô cửa tò vò. Alex vẫn còn giữ khẩu súng lục mà cậu đã lấy được từ tên bảo vệ. Cậu có thể dùng nó để báo cho ngài thủ tướng biết. Nếu được, cậu bé hình dung, thì cậu cũng có thể dùng nó để bắn lão Herod Sayle.
Dù sao, Alex cũng phải xoay xở để đáp được xuống Viện Bảo tàng. Trong độ rơi ở mét cuối cùng, cậu bé nghe thấy tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ trưa, và cậu bé nhận ra hai điều: Cậu rơi quá nhanh và cậu đã không đáp trúng mái bằng.
Thật ra, Viện Bảo tàng Khoa học có hai nóc. Nóc đầu tiên làm bằng kính cốt thép, thuộc thời kỳ các vua George của Anh. Hẳn là dạo gần đây, thi thoảng cái nóc đầu tiên này bị dột bởi vì những nhà phụ trách bảo tàng đã cho chồng thêm một cái nóc thứ hai lên trên cùng. Đây chính là mái nhà màu cam mà Alex đã trông thấy.
Cậu bé rơi thẳng vào đó bằng cả hai chân ở vận tốc khoảng ba mươi dặm một giờ. Mái nhà vỡ toang. Cậu tiếp tục rơi xuống, vào một ngăn xép ở bên trong, không hề va chạm phải hệ thống xà nhà làm bằng thép và những bậc thang. Cậu hoàn toàn có đủ thời gian để nhận thức được một thứ trông giống một tấm thảm nâu, phủ lên trên một bề mặt cong. Cậu tiếp tục rơi xuống tấm thảm nâu đó. Nó chẳng qua chỉ là một tấm chắn mỏng để ngăn không cho bụi bặm cùng ánh nắng rọi vào tấm kính. Alex kêu thét lên, cậu đã làm vỡ tan cả tấm kính. Cuối cùng, cái dù của cậu mắc kẹt vào một cái xà. Cậu đang rơi bỗng chựng lại, đung đưa giữa khoảng không trong hội trường phía Đông.
Đây là điều cậu nhìn thấy.
Phía xa bên dưới Alex, tất cả mọi người đều đang tập trung xung quanh cậu bé, ba trăm con người đã dừng hết mọi hoạt động, sững sờ nhìn chằm chằm vào cậu. Nhiều người đang đứng trên ghế, ngay bên dưới cậu bé và một vài người bị thương. Có máu chảy cùng những mảnh kính vỡ. Có một chiếc cầu tạo thành từ những tấm thủy tinh xanh lục bắc ngang qua hội trường. Trong hội trường có một chiếc bàn hiện đại, và đằng trước nó, ở ngay chính giữa, là một cái bục tạm thời. Alex trông thấy chiếc Công Tắc Bão đầu tiên.: Sau đó, cậu ngờ ngợ nhận ra ngài thủ tướng đang đứng cạnh lão Herod Sayle.
Alex lơ lửng trong không trung, đang đu đưa bên dưới chiếc dù. Khi những tấm kính cuối cùng rơi xuống, vỡ đầy trên đất, mọi âm thanh và hoạt động bỗng trở lại với Hội trường phía Đông trong một làn sóng nhốn nháo chưa từng có.
Lực lượng an ninh phản ứng đầu tiên. Đang ẩn mình trong đám đông, họ bỗng thình lình xuất hiện ở mọi nơi, phía sau những dãy cột, bên dưới những ăngten truyền hình, chạy qua chiếc cầu xanh lục, những bàn tay chỉ một giây trước đó không hề có gì, thế mà giờ lại lăm lăm những khẩu súng. Alex cũng đã rút khẩu súng của mình ra, cậu lấy nó từ lưng quần. Cậu bé có thể giải thích sự xuất hiện của mình trước khi lão Sayle hay ngài thủ tướng kịp kích hoạt những Công Tắc Bão. Nhưng cậu hồ nghi điều đó. Nã đạn, sau đó mới đặt câu hỏi là tình huống hay thấy trong những bộ phim bạo lực. Nhưng đôi khi những hành động trong phim bạo lực thỉnh thoảng lại đúng.
Cậu bé nã hết đạn trong súng.
Những viên đạn được bắn ra vang khắp phòng, nổ to một cách đáng kinh ngạc. Mọi người kêu thét lên, cánh nhà báo xô đẩy, chen lấn nhau để tìm chỗ nấp. Viên đạn đầu tiên nhắm thẳng vào chiếc bàn hiện đại. Viên thứ hai trúng ngay tay ngài thủ tướng, ngón tay của ông ta chỉ cách con chuột chưa tới một xăngtimét. Viên đạn thứ ba trúng thẳng vào con chuột, làm nó vỡ tan thành từng mảnh. Viên thứ tư bay vào phích cắm, phá vỡ chốt cắm và làm chập mạch. Lão Sayle lẻn lên đằng trước, quyết tâm nhắp con chuột cho bằng được. Viên đạn thứ năm và thứ sáu bắn trúng lão.
Ngay khi Alex bắn ra viên đạn cuối cùng, cậu bé ném khẩu súng xuống đất, để nó rơi lóc cóc xuống sàn nhà, và giơ hai tay lên. Cậu cảm thấy lố bịch, cậu đang bị treo trên trần nhà, thế mà hai tay lại cứ phải đưa lên. Có cả tá họng súng đang chĩa vào người cậu bé, thế nên cậu muốn cho họ thấy rằng mình không còn vũ khí nữa, rằng họ không cần phải bắn. Dù cho có đúng như thế thì cậu cũng đã chuẩn bị tinh thần, chờ đợi một nhân viên an ninh nổ súng. Cậu bé có thể tưởng tượng ra được là một loạt đạn sẽ ghim tới tấp vào mình. Điều mà họ lo ngại nhất chính là cậu bé này là một tên khủng bố điên khùng, kẻ đã nhảy dù vào Viện Bảo tàng Khoa học, bắn một hơi sáu phát đạn vào ngài thủ tướng. Nhiệm vụ của họ là phải giết cậu. Đó là điều họ được huấn luyện.
Nhưng những viên đạn đó không bao giờ bắn vào cậu. Tất cả nhân viên an ninh đều được trang bị điện đàm, ở hàng ghế đầu tiên, bà Jones đã ra lệnh. Bà ta đã nhận ra Alex và nói thật nhanh vào chiếc ghim hoa.
- Không được bắn ! Tôi lặp lại - không được bắn ! Tất cả hãy chờ lệnh tôi !
Trên bục, một đám khói xám bốc ra từ bên hông chiếc Công Tắc Bão bị vỡ, bây giờ, nó chỉ là một cái máy vô dụng. Hai nhân viên an ninh lao về phía thủ tướng, lúc này ông ta đang nắm chặt lấy cổ tay, máu chảy đầm đia. Những tay nhiếp ảnh cùng cánh nhà báo bắt đầu hét to những câu hỏi, đèn flash lóe liên tục cùng những chiếc camêra cứ đưa qua đưa lại theo nhân vật đang đong đưa ở phía bên trên. Theo lệnh của bà Jones, các nhân viên bảo vệ được điều đến nhiều hơn, đứng chặn ở mọi nẻo thoát, trong khi ông Alan Blunt thì ngước nhìn lên, lần đầu tiên trong đời, ông ta bị ngợp.
Không thấy bóng dáng của Herod Sayle đâu cả. Nhân vật chính của Tập đoàn Sayle đã bị bắn hai phát, nhưng bằng cách nào đó, lão đã biến mất.