39.
-
Dặm Đường Xanh
- Stephen King
- 3304 chữ
- 2020-05-09 02:27:34
Số từ: 3301
Dịch giả: Khắc Vinh
Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên
Nhà văn H.G.Wells đã có lần viết truyện về một người sáng chế ra cỗ máy thời gian, và tôi phát hiện rằng, khi viết tập hồi kí này, tôi đã sáng chế ra cỗ máy thời gian của riêng mình. Không giống như của Wells, nó chỉ có thể đi ngược về quá khứ - thực tế là trở về năm 1932, khi tôi là đội trưởng đội lính gác Khu E ở Trại Giam Tiểu Bang Cold Mountain - nhưng hiệu quả một cách kỳ lạ. Tuy thế, cỗ máy thời gian này gợi tôi nhớ đến chiếc xe Ford cũ kỹ của mình vào thời đó: bạn biết chắc rốt cuộc nó sẽ khởi động, nhưng không bao giờ biết một vòng quay chìa khoá có đủ để kích hoạt động cơ chưa, hoặc bạn phải ra khỏi xe và quay maniven cho đến khi tay bạn thực sự rã rời.
Tôi có nhiều khởi đầu dễ dàng khi kể lại câu chuyện về John Coffey, nhưng hôm qua đã phải quay maniven. Tôi nghĩ vì mình đã quá đắm chìm trong vụ xử tử Delacroix, và một phần tâm hồn tôi không muốn hồi tưởng lại sự kiện đó. Một cái chết tồi tệ, một cái chết khủng khiếp, và nó đã xảy ra theo cách của nó, bởi vì Percy Wetmore, một thanh niên trẻ thích chải đầu nhưng không chịu nổi sự chế nhạo - kể cả sự chế nhạo của gã người Pháp nhỏ bé hói nửa đầu, kẻ sẽ không bao giờ nhìn thấy lễ Giáng Sinh nữa.
Tuy nhiên ,cũng như hầu hết những công việc bẩn thỉu, phần khó khăn nhất là lúc bắt đầu. Một cỗ máy không quan tâm bạn dùng chìa khoá công tắc hay quay maniven, một khi bạn đã khởi động được, thường thường nó sẽ chạy tốt, theo cách này hoặc cách kia. Ngày hôm qua, công việc đã tiến hành với tôi như thế. Lúc đầu, chữ nghĩa xuất hiện thành những cụm từ chưa hoàn chỉnh, rồi thành câu, sau đó là một dòng thác. Tôi phát hiện viết là một dạng hồi tưởng đặc biệt là đáng kinh hãi - nó có một tổng thể gần giống như sự hiếp dâm. Có lẽ tôi chỉ có cảm giác như vậy vì đã trở thành một lão già, nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi tin rằng sự kết hợp giữa bút chì và ký ức tạo ra một loại pháp thuật kỳ diệu, đầy thiết thực; mà pháp thuật thì nguy hiểm. Là người biết John Coffey và nhìn thấy điều gã có thể làm - cho chuột và cho người - tôi cảm thấy mình đủ tư cách để nói như thế.
Pháp thuật là nguy hiểm.
Dù thế nào thì tôi đã viết suốt ngày hôm qua, từ ngữ cứ đơn giản tuôn trào ra khỏi tâm trí tôi, ngôi nhà kính của trại dưỡng lão vinh quang này biến mất, thay vào đó là căn nhà kho ở cuối Dặm Đường Xanh, nơi quá nhiều những đứa trẻ có vấn đề của tôi ngồi xuống lần cuối cùng và chân cầu thang dẫn xuống đường hầm bên dưới đường đi. Đấy là nơi Dean, Harry, Brutal và tôi chạm trán với Percy Wetmore vì cái xác bốc khói của Eduard Delacroix, và buộc Percy nhắc lại lời hứa nộp đơn xin thuyên chuyển đến bệnh viện tâm thần tiểu bang ở Briar Ridge.
Trong nhà kính luôn luôn có hoa tươi, nhưng trưa hôm qua tôi chỉ ngửi thấy mùi thịt nướng độc hại của người đã chết. Tiếng máy cắt cỏ trên bãi cỏ dưới kia đã bị thay thế bằng tiếng nước nhỏ giọt trống rỗng, chậm rãi rỉ qua mái vòm đường hầm. Chuyến đi tiếp tục. Tôi đã du hành ngược về năm 1932, trong linh hồn và tâm trí, nếu không là trong thể xác.
Tôi bỏ qua bữa trưa, viết đến khoảng 4 giờ gì đó, và sau cùng khi buông bút xuống, tay tôi trở nên đau nhức. Tôi chậm chạp bước đến cuối hành lang tầng hai. Ở đấy có cửa sổ nhìn ra bãi để xe của nhân viên. Gã hộ lý Brad Dolan, kẻ làm tôi nhớ đến Percy - và là kẻ quá sức tò mò, muốn biết tôi đi đâu và làm gì trong những lần đi dạo - lái một chiếc xe Chevrolet cũ, trên cản dán hàng chữ: tôi đã gặp Chúa và tên ông ấy là Newt.
Xe gã không còn, ca trực của Brad đã kết thúc và gã tự đưa mình đến bất cứ mảnh vườn nào gã gọi là nhà. Tôi hình dung ra một căn nhà di động Airstream, có trang báo Hustler dán bằng băng keo Scotch lên tường và những lon bia Dixie vứt trong góc.
Tôi đi ra ngoài qua nhà bếp, nơi bữa tối đang bắt đầu.
- Ông có gì trong giỏ vậy, ông Edgecombe? - Norton hỏi tôi.
- Một cái chai không. - Tôi trả lời. - Tôi khám phá ra dòng Suối Thanh Xuân trong rừng dưới kia. Mỗi chiều khoảng giờ này, tôi xuống dưới đấy lấy một ít. Tôi uống vào lúc đi ngủ. Có thể nói với anh là thứ tốt đấy.
- Có thể giữ cho ông được trẻ trung. - George, một đầu bếp khác, nói. - Nhưng nó chẳng giúp đếch
gì được cho bề ngoài của ông.
Tất cả chúng tôi bật cười vì câu nói, rồi tôi bước ra ngoài. Tôi thấy mình nhìn quanh tìm Dolan, thậm chí cả khi xe gã đã đi khỏi, tự mắng mình là kẻ ngốc nghếch vì đã để gã quá ám ảnh tâm trí, rồi băng qua sân chơi bóng croquet. Bên kia là một mảng cỏ xanh nhỏ, xơ xác, trông đẹp hơn trong ảnh tờ bướm quảng cáo Georgia Pines hơn bao giờ hết, và bên kia nó là con đường mòn uốn lượn vào khu rừng phía đông nhà dưỡng lão. Có hai chái nhà cũ dọc theo con đường, những ngày này sát bức tường đá cao giữa ranh giới Georgia Pines và Xa lộ 47 Georgia, tôi bước vào và ở lại một lúc.
Đêm ấy tôi ăn một bữa tối ngon miện, xem TV một chút rồi đi ngủ sớm. Nhiều đêm tôi thức dậy sớm và rón rén xuống phòng TV, ở đấy tôi xem những bộ phim xưa trên kênh Phim Mỹ. Thế nhưng đêm qua thì không; đêm qua tôi ngủ say như chết, không hề bị một trong những giấc mơ vốn ám ảnh tôi, kể từ khi bắt đầu phiêu lưu vào nghiệp văn chương. Toàn bộ chuyện viết lách hẳn đã làm tôi mòn mỏi, tôi không còn trẻ như trước nữa, bạn biết đấy.
Khi tỉnh giấc và nhìn thấy vệt nắng, vốn thường lệ rải trên sàn nhà vào 6 giờ sáng, đã bò suốt đến chân giường, tôi vội vã chồm dậy, quá hoảng hốt không để ý đến cơn đau khớp bộc phát ở hông, đầu gối và mắt cá chân. Tôi mặc quần áo hết sức nhanh, rồi gấp gáp đi xuống hành lang, đến cửa sổ nhìn ra khu để xe nhân viên, hy vọng nơi Dolan để chiếc xe Chervrolet cũ của gã vẫn còn trống. Đôi lúc gã đi làm trễ đến nửa giờ…
Không có may mắn như thế. Chiếc xe ở đó, lấp lánh một cách cáu kỉnh dưới ánh nắng sáng. Bởi vì những ngày này Ông Brad Dolan có điều gì đó để đi làm đúng giờ, phải không? Phải. Lão Paulie Edgecombe đi đâu đó vào mỗi buổi sáng sớm, lão Paulie Edgecombe âm mưu gì đó, và Ông Brad Dolan có ý định tìm hiểu là chuyện gì. Ông làm gì dưới đó, Paulie? Nói tôi nghe.
Rất có thể gã đang rình mò tôi. Ở lại nơi tôi đang ở sẽ là điều khôn ngoan… có điều tôi không thể.
- Paul?
Tôi quay lại nhanh đến mức suýt ngã. Đấy là bà bạn Elaine Connelly của tôi. Mắt bà mở to và bà đưa tay ra, như thể đỡ lấy tôi. May mắn cho bà vì tôi lấy được thăng bằng, chứng đau khớp của Elaine rất trầm trọng và có lẽ tôi sẽ khiến bà gãy làm đôi nếu ngã vào vòng tay bà. Sự lãng mạn không chết khi bạn bước vào vùng đất xa lạ trải dài bên kia mức 80 tuổi, nhưng bạn nên quyên chuyện Cuốn Theo Chiều Gió
vớ vẩn đi.
- Xin lỗi. - Bà ấy nói. - Em không có ý làm anh giật mình.
- Không sao. - Tôi đáp yếu ớt mỉm cười với bà. - Tỉnh giấc như thế tốt hơn là bị dội nước lạnh vào mặt. Tôi nên thuê cô làm việc đó mỗi buổi sáng.
- Anh đang tìm xe của gã, phải không? Xe của Doaln.
Thật không phải nếu nói dối bà ấy, do đó tôi gật đầu.
- Tôi hy vọng biết chắc gã đang ở cánh nhà phía Tây. Tôi muốn chuồn ra ngoài một chút, nhưng tôi không muốn thấy gã thấy tôi.
Elaine mỉm cười, một nụ cười tiểu yêu tinh quái mà bà ấy hẳn đã có khi còn thanh xuân.
- Thằng con hoang tò mò, phải không?
- Phải.
- Gã cũng không có ở nhà phía Tây. Em đã xuống ăn sáng, anh bạn buồn ngủ ạ và có thể nói anh biết gã ở đâu, vì em đã nhìn trộm. Gã đang ở trong nhà bếp.
Tôi nhìn bà ấy, mất tinh thần. Tôi đã biết Dolan có tính tò mò, nhưng không biết tò mò đến mức nào.
- Anh có thể hoãn lại chuyền đi dạo buổi sáng không? - Elaine hỏi.
Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó.
- Tôi cho là có thể
, nhưng…
- Anh không nên.
- Không. Tôi không nên.
Bây giờ,
tôi nghĩ, bà ấy sẽ hỏi mình đi đâu, tôi phải làm gì dưới khi rừng kia mà quan trọng đến thế.
Nhưng bà không hỏi. Thay vào đó, bà lại tặng tôi nụ cười tiểu yêu lần nữa. Nụ cười có vẻ kỳ lạ và hoàn toàn tuyệt vời trên khuôn mặt quá hốc hác, bị cơn đau đeo đẳng.
- Anh biết ông Howland không?
- Biết chứ. - Tôi trả lời, mặc dù không gặp nhiều, ông ta sống ở cánh nhà phía Tây, nơi tại Georgia Pines gần như một quốc gia lân cận. - Tại sao?
- Anh biết ông ấy có gì đặc biệt không?
Tôi lắc đầu.
- Ông Howland. - Elaine nói, rộng miệng cười hơn bao giờ hết. Là một trong năm người nội trú duy nhất còn lại ở Georgia Pines được phép hút thuốc là. Bởi vì ông ấy đã mất ở đây trước khi nội quy thay đổi.
Một điều khoản hậu đãi, tôi nghĩ. Còn nơi nào thích hợp cho một con người hơn là nhà dưỡng lão?
Bà ấy thò tay vào túi chiếc áo xanh sọc trắng của mình và rút hé ra một hai món: một điếu thuốc và một hộp diêm.
- Ăn trộm xanh, ăn trộm đỏ. - Bà hát bằng một giọng du dương, ngộ nghĩnh. - Bé Ellie sẽ tè ướt giường.
- Elaine, chuyện gì?
- Hãy đưa cô gái già xuống cầu thang nào. - Bà nói, nhét thuốc lá và diêm trở lại túi, rồi nắm lấy cánh tay tôi trong đôi bàn tay xương xẩu của mình. Chúng tôi bắt đầu bước trở thành hành lang. Khi làm thế, tôi đã quyết định chịu thua và giao phó số phận vào tay bà. Bà tuy gà nua và dễ vỡ, nhưng không ngốc nghếch.
Trong khi bước đi với sự quan tâm thận trọng đến cái di tích vốn là chúng tôi hiện nay, Elaine nói:
- Hãy chờ ở chân cầu thang. Em sẽ đến cánh nhà phía Tây, đến phòng vệ sinh ở hành lang. Anh biết em muốn nói phòng nào chứ?
- Biết. - Tôi trả lời. - Cái phòng ngay bên ngoài phòng tắm hơi. Nhưng tại sao?
- Hơn 15 năm nay em không hút thuốc. - Bà nói. - Nhưng sáng nay em thèm một điếu. Em không biết phải rít bao nhiêu hơi để khởi động máy dò khói trong đấy, nhưng em có ý định tìm hiểu.
Tôi nhìn bà ấy với vẻ ngưỡng mộ bừng nở, thầm nghĩ bà gợi nhớ đến vợ tôi biết bao - có thể Jan cũng sẽ làm đúng như vậy. Elaine nhìn trả lại tôi, nở nụ cười tiểu yêu thanh nhã. Tôi khum bàn tay quanh phía sau chiếc cổ dài đáng yêu, kéo khuôn mặt bà lại gần mặt tôi, và hôn phớt lên môi bà.
- Tôi yêu cô, Eliie. - Tôi nói.
- Ôi, lời lẽ đao to búa lớn quá. - Bà đáp lại, nhưng tôi có thể nói là bà rất hài lòng.
- Chuck Howland thì sao? - Tôi hỏi. - Liệu ông ta sẽ gặp phiền hà không?
- Không, vì ông ta đang ở trong phòng TV, xem phim Good Morning America cùng với khoảng một chục người khác. Và em sẽ né tránh ngay khi máy dò khói báo động có cháy ở chái nhà phía Tây.
- Chớ té ngã và tự gây thương tích, cô gái ạ. Tôi sẽ không bao giờ tự tha thứ nếu…
- Ồ, đừng cuống lên thế. - Bà nói và lần này bà ấy hôn tôi.
Tình yêu của những tàn tích. Có lẽ điều này nghe khôi hài đối với một số người và quái gở đối với số còn lại, nhưng cho tôi nói một điều, bạn ạ: tình yêu kỳ cục còn hơn không.
Tôi nhìn bà bước đi, di chuyển chậm chạp và cứng đơ (vì bà chỉ sử dụng gậy chống vài những ngày ẩm ướt và chỉ khi cơn đau lên tột độ, đấy là một trong những điều tự cao của bà), và chờ đợi. Năm phút trôi qua, rồi mười và đúng lúc tôi quyết định rằng bà ấy hoặc đã mất can đảm, hoặc phát hiện nguồn pin của máy dò khói trong phòng vệ sinh đã cạn, tiếng chuông báo cháy ở cánh nhà phía Đông vang ầm lên.
Ngay lập tức tôi tiến về phía nhà bếp, nhưng chậm rãi - không có lý do gì để vội cho đến khi biết chắc Dolan không cản đường tôi. Một nhóm những người già, phần lớn còn mặc áo ngủ, ra khỏi phòng TV (ở đây nó được gọi là Trung Tâm Giải Trí; quả là
lố bịch) để xem chuyện gì xảy ra. Chuck Howland có mặt trong đám đông, tôi vui mừng được thấy ông ta.
- Edgecombe! - Kent Avery the thé, bám vào khung tập đi bằng một tay, tay kia giật mạnh đũng quần pyjama một cách ám ảnh. - Báo động thật hay lại báo động giả nữa? Anh nghĩ sao?
- Không cách nào biết được. - Tôi trả lời.
Đúng lúc đó ba người hộ lý chạy qua, tất cả đều hướng về cánh nhà phía Tây, hét to yêu cầu những người túm tụm quanh cửa phòng TV ra ngoài và chờ hết báo động. Người thứ ba trong hàng là Brad Dolan. Thậm chí gã không nhìn tôi khi chạy qua, một sự kiện khiến tôi vô cùng thích thú. Khi đi về hướng nhà bếp, tôi chợt nghĩ đội tuyển Elaine Connelly và Paul Edgecombe đủ sức chọi một tá Brad Dolan, có tăng cường thêm nửa chục gã Percy Wetmore.
Những người nếu ăn trong nhà bếp vẫn tiếp tục dọn dẹp bữa sáng, không chút quan tâm đến tiếng la ó báo động có cháy.
- Ông Edgecombe này, - George lên tiếng. - Tôi tin là Brad Dolan nãy giờ vẫn tìm ông. Nói tóm lại, ông đã bỏ lỡ hắn.
May cho mình,
tôi nghĩ. Tôi nói to là sẽ gặp ông Dolan sau. Rồi tôi hỏi còn sót chút bánh mì nướng nào quanh bàn ăn sáng không.
- Còn chứ. - Norton trả lời. - Nhưng đã nguội lạnh trên thị trường rồi. Sáng nay ông đến trễ.
- Tôi đến trễ. - Tôi đồng ý. - Nhưng tôi đói.
- Làm bánh mới và nóng chỉ mất một phút thôi. - George nói và đưa tay lấy bánh mì.
- Khỏi, nguội cũng được. - Tôi đáp và khi anh ta trao cho tôi hai khoanh (nhìn có vẻ bí ẩn - thực tế cả hai đều có vẻ bí ẩn), tôi hối hả ra khỏi cửa, có cảm giác trở lại là thằng bé trốn học đi câu cá, với một miếng mứt gói trong giấy sáp, nhét vào ngực áo.
Bên ngoài cửa nhà bếp, tôi nhìn vội xung quanh tìm Dolan, không thấy điều gì đáng ngại, rồi gấp gáp băng qua sân bóng croquet và bãi cỏ, vừa đi vừa nhấm nháp một khanh bánh. Tôi đi chậm lại một chút khi vào đến khu rừng và trong lúc bước dọc theo đường mòn, tôi thấy tâm trí mình quay lại ngày sau buổi hành hìh Eduard Delacroix khủng khiếp.
Tôi đã nói chuyện với Hal Moores sáng hôm ấy, và nghe kể rằng khối u não của Melinda đã làm cho bà ấy sa vào những cơn chửi thề nói tục… điều mà sau này vợ tôi gán cho (một cách khá do dự, nàng không biết chắc cùng một thứ) hội chứng Tourette. Vẻ run rẩy trong giọng nói của ông ấy, kết hợp với ký ức về John Coffey đã chữa lành cả chứng nhiễm trùng đường tiểu lẫn cái lưng con chuột của Delacroix bị gãy, sau cùng đã đẩy tôi vượt quá lằn ranh giữa sự suy nghĩ suông và thực sự thi hành
một điều.
Vì thế tôi gọi những người cùng làm việc với mình, những người suốt đời tôi đã tin cậy qua bao năm dài - Dean Stanton, Harry Terwilliger, Brutus Howell. Họ đến dùng bữa trưa tại nhà tôi sau ngày xử tử Delacroix, và ít nhất họ đã lắng nghe tôi phác hoạ kế hoạch. Dĩ nhiên, tất cả đều biết Coffey đã chữa lành cho con chuột; Brutal đã tận mắt nhìn thấy. Vì thế khi tôi gợi ý một phép lạ nữa có thể hình thành nếu chúng tôi đưa John Coffey đến gặp Melinda Moores, họ đã không công khai cười nhạo. Dean Stanton là người đặt ra câu hỏi gây bối rối nhất: chuyện gì sẽ xảy ra nếu John Coffey trốn thoát trong khi chúng tôi đưa hắn đi khảo sát thực địa?
Giả sử gã giết người nào khác? - Dean hỏi. - Tôi ghét bị mất việc làm, tôi ghét phải vào tù - tôi có vợ và con trông cậy tôi kiếm miếng ăn cho họ - nhưng tôi nghĩ tôi không ghét hai điều đó bằng chuyện có thêm một bé gái chết trong lương tâm tôi.
Một khoảnh khắc yên lặng, tất cả bọn họ nhìn tôi, chờ xem tôi phản ứng ra sao. Tôi biết tất cả sẽ thay đổi nếu tôi nói những điều đang chực chờ được nói ra, chúng tôi đã tiến đến vị trí dường như không thể lùi bước.
Trừ khi đã không thể lùi bước rồi, ít nhất là đối với tôi. Tôi mở miệng và nói: