• 130

Chương VIII: Phòng Số 13


Dịch giả: Tịnh Thủy
Nhà xuất bản Trẻ
Paris đang mưa. Cả thành phố trông có vẻ mệt mỏi và chán chường, tháp Eiffel như đang chống đỡ các đám mây khổng lồ. Bàn ghế kê ngoài quán cà phê không có người ngồi, khách du lịch thì chẳng đoái hoài gì tới những quầy hàng nhỏ bán tranh ảnh và bưu thiếp, ai cũng hối hả quay trở về khách sạn. Đã năm giờ chiều, bóng tối đang buông xuống mà chẳng ai hay. Các cửa hiệu và văn phòng vắng ngắt, thành phố cũng chẳng cần ai quan tâm. Nó chỉ muốn một mình lặng lẽ.
Chiếc trực thăng đã đáp xuống khu vực riêng của sân bay Charles de Gaulle, ở đây có một chiếc xe hơi đang đậu sẵn, chờ để đưa họ đi. Trong suốt chuyến bay, Alex chẳng mở miệng nói câu nào, giờ thì cậu đang ngồi ở băng ghế sau, ngắm nhìn những tòa nhà cao tầng đang lướt qua. Xe họ đi dọc theo sông Seine, nó chạy bon bon trên một con đường rộng, hai làn đường, một đường nằm bên trên, một đường nằm bên dưới, thấp hơn cả mặt nước. Theo lộ trình, họ đi ngang qua Nhà thờ Đức Bà Paris. Rồi chiếc xe ngoặt sang hướng khác, nó đi lòng vòng qua những con phố vắng vẻ có những quán ăn và cửa hiệu nhỏ nằm lấn ra vỉa hè.
- Đây là khu Marais - Bà Stellenbosch chỉ ra ngoài ô cửa, nói với Alex.
Alex giả vờ như không quan tâm. Thật ra cậu bé đã từng ở Marais cùng với bác Ian Rider và biết được rằng đây là một trong những khu thời thượng và đắt đỏ nhất Paris.
Chiếc xe hơi quẹo vào một quảng trường rộng lớn rồi dừng lại. Alex nhìn ra ngoài cửa sổ. Bốn phía xung quanh cậu là những căn nhà cao, cổ kính, đây chính là những căn nhà làm cho Paris nổi tiếng. Tuy nhiên, quảng trường như bị bôi nhọ bởi một khách sạn hiện đại. Đó là một tòa nhà vuông vức, màu trắng, có những ô cửa sổ được lắp kính đen để tránh những cặp mắt dòm ngó từ bên ngoài. Khách sạn cao bốn tầng, trên cùng là mái bằng, ở cửa chính là hàng chữ vàng HOTEL DU MONDE (Khách sạn Hoàn Cầu). Nếu như có một con tàu vũ trụ nào đó đáp xuống quảng trường, chen vào giữa những tòa nhà cổ kính, bắt phải nhường chỗ cho nó, thì hẳn nó sẽ trông chẳng khác chi cái khách sạn này.
- Chúng ta sẽ ở đây. Khách sạn này là của trường đào tạo đặc biệt - Bà Stellenbosch thông báo với cậu bé như vậy.
Người tài xế lấy hành lý ra khỏi cốp xe. Alex bước theo bà trợ lý giám hiệu đến cửa ra vào, cánh cửa tự động mở ra để đón họ. Gian tiền sảnh lạnh lẽo, được lát kính và đá cẩm thạch trắng toát, không tạo được chút ấn tượng nào, trong góc có đặt một chậu cây, hình như chậu cây là ý tưởng sau này. Ở đây có một bàn tiếp tân, một nam nhân viên tiếp tân mặc bộ complê đen, đeo mắt kính, chẳng thấy hớn hở tươi cười gì; một máy vi tính và một dãy ngăn kéo. Alex bắt đầu đếm. Mười lăm ngăn kéo cả thảy. Có thể đoán là khách sạn này có mười lăm phòng.
Chẳng để ý đến Alex, nhân viên tiếp tân khẽ gật đầu chào bà trợ lý giám hiệu, anh ta nói bằng tiếng Pháp:
- Bonsoir (Xin chào) bà Stellenbosch. Tôi mong, là bà đã có một cuộc hành trình tốt đẹp từ Anh tới.
Alex không biểu lộ một cảm xúc nào, cậu bé làm ra vẻ như không hiểu được một từ nào cả. Alex Friend không nói được tiếng Pháp. Còn cậu - Alex Rider - thì chẳng ngại học thêm một thứ tiếng nào. Bác Ian Rider đã bắt đứa cháu trai nói tiếng Pháp ngay từ lúc cậu bé bập bẹ nói tiếng Anh. Ấy là chưa kể đến tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha, cậu cũng nói rất sõi.
Nhân viên tiếp tân lấy xuống hai chiếc chìa khóa. Anh ta không hỏi hai người đối diện có muốn vào ở ngay không. Anh ta cũng chẳng yêu cầu thẻ tín dụng. Trường học sở hữu một khách sạn, thế nên họ sẽ không phải thanh toán bất cứ một khoản chi phí nào khi rời khỏi đây. Anh ta đưa cho Alex một cái chìa khóa và nói bằng tiếng Anh với cậu bé:
- Tôi hy vọng cậu không phải là người mê tín.
- Không hề - Alex trả lởi.
- Phòng số mười ba. Lầu một. Tôi đoan chắc rằng cậu sẽ hài lòng về nó - Nhân viên tiếp tân mỉm cười.
Bà Stellenbosch cũng nhận lấy một chiếc chìa khóa. Bà ta nói, giọng người phụ nữ bỗng nhiên trở nên cộc cằn và giống giọng đàn ông một cách kỳ lạ. Hơi thở của bà ta đầy mùi thuốc lá:
- Khách sạn có nhà hàng riêng đấy. Có lẽ tối nay chúng ta sẽ ăn ở đây thôi. Tất cả chúng ta đều không muốn đi ra ngoài khi trời đang mưa, đúng không. Dù sao đi nữa, thức ăn ở đây cũng ngon tuyệt. Cậu thích thức ăn Pháp chứ, Alex ?
- Không thích lắm - Alex trả lời.
- Ồ, tôi cam đoan là chúng ta sẽ tìm thấy món mà cậu thích. Sao cậu không tắm rửa, thay quần áo sau chuyến hành trình nhỉ ? - Bà Stellenbosch nhìn vào đồng hồ - Chúng ta sẽ ăn vào lúc bảy giờ - hãy còn một tiếng rưỡi đồng hồ nữa. Cậu và tôi sẽ có cơ hội nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, tôi đề nghị là cậu nên ăn mặc gọn gàng hơn khi dùng bữa tối nhé ? Người Pháp không có quy định gì cả, nhưng - cậu bé thân mến, cậu thứ lỗi cho tôi được nói điều này: cậu ăn mặc hơi thiếu ý thức đấy. Vào khoảng bảy giờ thiếu năm, tôi sẽ gọi cậu. Hy vọng cậu sẽ thấy thoải mái với căn phòng của mình.
Phòng số 13 nằm ở cuối hành lang dài và chật hẹp. Cánh cửa mở ra một nơi trông ra quảng trường và rộng đến mức không ngờ. Trong phòng có một chiếc giường đôi với tấm chăn bông hai màu đen trắng, một tivi và một chiếc tủ nhỏ đựng rượu, một cái bàn, và hai bức tranh có bọc khung vẽ thành phố Paris treo trên tường. Người phục vụ đã đem hành lý của Alex lên, ngay khi anh ta vừa đi khỏi, Alex đá bật giày ra khỏi chân rồi ngồi phịch xuống giường. Cậu bé thắc mắc tại sao bà Stellenbosch và cậu phải tới đây. Cậu hiểu chiếc máy bay cần phải được tiếp nhiên liệu, nhưng như thế đâu có nghĩa là phải nghỉ lại qua đêm. Tại sao lại không thể bay thẳng tới trường học được chứ ?
Cậu phải làm gì để có thể giết thời gian những hơn một tiếng đồng hồ đây. Trước tiên, cậu đi vào phòng tắm - được lát nhiều kính và đá cẩm thạch trắng - để tắm táp cho thật sạch sẽ. Sau đó, cậu quấn khăn trở lại phòng và bật tivi. Alex Friend xem rất nhiều chương trình truyền hình. Có khoảng ba mươi kênh để chọn. Alex bỏ qua những kênh của Pháp và dừng lại ở kênh MTV (kênh âm nhạc). Cậu nghi ngờ mình đang bị theo dõi. Cạnh chiếc bàn có một tấm gương to, quá dễ dàng để giấu một máy camêra đằng sau nó. À, thế thì sao không cho họ thấy một điều gì nhỉ ? Cậu bé mở tủ rượu, rót ra một ly rượu gin. Sau đó, cậu vào phòng tắm, cho nước vào đầy chai rồi đặt trở lại vào tủ lạnh. Uống rượu lén ! Nếu đang trông thấy cảnh này, hẳn bà Stellenbosch sẽ biết rằng bà ta phải bận bịu vì Alex lắm đây.
Bốn mươi phút còn lại, cậu bé xem tivi và giả vờ thưởng thức rượu gin. Rồi cậu vào phòng tắm, bỏ cái ly vào lavabô. Đã đến giờ phải mặc quần áo. Liệu có nên làm theo những gì bà trợ lý giám hiệu nói không, tức là mặc quần áo chỉnh tề hơn ấy ? Cuối cùng, cậu bé cũng thu xếp được. Cậu mặc một chiếc áo sơ-mi mới, nhưng vẫn mặc chiếc quần jean cũ. Một lúc sau, chuông điện thoại reo. Đó là điện thoại gọi Alex xuống ăn tối.
Bà Stellenbosch đang đợi cậu trong nhà hàng, là một tầng hầm to và thiếu không khí. Ánh sáng dìu dịu và những tấm kính khiến nơi này có vẻ rộng thênh thang, nếu được chọn lựa nơi ăn tối thì cực chẳng đã, cậu mới phải chọn nơi này. Nhà hàng cũng giống như bất cứ nhà hàng nào khác trên thế giới. Có hai vị khách khác cũng tới ăn tối - đều là dân kinh doanh, nhìn dáng vẻ của họ có thể thấy ngay điều đó - tuy nhiên, cả hai đều ngồi riêng rẽ. Bà Stellenbosch đã thay đổi quần áo, bà ta mặc bộ áo dài dạ hội, ở cổ áo có lót lông, đeo một chuỗi hạt cổ được kết bằng những hạt ngọc đen và bạc. Càng mặc quần áo đẹp bao nhiêu thì trông bà ta càng không đẹp bấy nhiêu
, Alex thầm nhận xét. Bà trợ lý giám hiệu đang hút thuốc.
- A, Alex ! - Bà ta thở ra khói - Cậu đã nghỉ ngơi ? Hay là xem tivi đấy ?
Alex không nói gì. Cậu bé buông người ngồi phịch xuống ghế và mở thực đơn ra nhưng rồi phải đóng lại ngay, vì cậu thấy tất cả đều ghi bằng tiếng Pháp.
- Cậu phải để tôi gọi rồi. Súp khai vị nhé ? Sau đó là thịt rán. Tôi chưa từng thấy một cậu bé nào mà không thích thịt rán cả.
- Anh họ Oliver của tôi là người ăn chay đấy.
Alex trả lời. Cậu đã đọc thấy điều này trong hồ sơ. Bà trợ lý giám hiệu gật đầu như thể bà ta cũng có biết điều đó. Bà ta nói:
- Thế thì cậu ta không biết là mình đang bỏ lỡ cái gì đâu nhỉ.
Một người hầu bàn có gương mặt tái nhợt bước đến, bà Stellenbosch gọi món ăn bằng tiếng Pháp. Người phụ nữ hỏi:
- Cậu uống gì nào ?
- Cho tôi nước ngọt.
- Đó là thứ thức uống đáng ghét, tôi luôn nghĩ như vậy. Tôi chưa từng nếm hương vị của nó. Nhưng dĩ nhiên, cậu sẽ có thứ cậu muốn.
Người hầu bàn mang nước ngọt đến cho Alex và một ly rượu sâmbanh cho bà Stellenbosch. Alex nhìn chằm chằm vào bọt bong bóng đang nổi lên trong hai cái ly, trong ly của cậu màu đen, trong ly của người ngồi đối diện màu vàng nhạt.
- Sarité - Bà ta nói.
- Gì cơ ?
- Là tiếng Pháp, có nghĩa là chúc sức khỏe.
- À. Chúc sức khỏe...
Một sự im lặng kéo dài. Đôi mắt người phụ nữ nhìn lom lom vào cậu bé như thể muốn nhìn thấu cả tim gan của cậu.
- Ra là cậu đã học ở Eton - Bà ta thăm dò.
- Đúng vậy - Alex lập tức cảnh giác.
- Thế cậu ở ký túc xá nào ?
- Ký túc xá Hoa Bia - Đó là tên ký túc xá của trường Eton - Alex đã đọc hồ sơ rất kỹ.
- Tôi từng đến Eton. Tôi nhớ ở đó có bức tượng. Tôi nghĩ đó là tượng của một vị vua. Vô khỏi cổng chính là đụng nó liền...
Bà Stelienbosch đang kiểm tra cậu. Alex chắc chắn điều đó. Bà ta nghi ngờ cậu chăng ? Hay đơn thuần chỉ là phòng xa, điều bà ta vẫn luôn luôn làm ?
- Bà đang nói về vua Henry thứ Sáu đấy - Cậu bé trả lời - Tượng của ông ta được đặt ở trong sân trường, ông ta là người đã sáng lập ra trường Eton.
- Nhưng cậu không thích bức tượng đứng ở đó cơ mà.
- Vâng, không thích.
- Tại sao không thích ?
- Tôi không thích mặc đồng phục, tôi cũng không ưa mấy lão thẩm phán.
Alex cẩn thận không dùng từ thầy giáo, ở Eton, học trò gọi thầy giáo là thẩm phán. Cậu cười thầm trong bụng. Nếu bà ta muốn nói theo ngôn ngữ Eton thì cậu sẽ nói cho bà ta nghe. Alex nói tiếp:
- Tôi không phục nội quy. Chúng cổ lỗ sĩ lắm rồi. Tôi không thích có tên trong sổ Đi học trễ. Tôi hay bị tiêu tùng và làm bài sai... hay bị ghi tên trong sổ thiên tào. Kinh thư phát ngấy...
- E rằng tôi chẳng hiểu bất cứ một từ nào cậu nói.
- Kinh thư tức là bài học - Alex giải thích - Tiêu tùng nghĩa là khi học hành không tốt.
- Tôi hiểu rồi ! - Bà ta rít một hơi thuốc dài - Đó là lý do cậu đốt thư viện à ?
- Không phải - Alex trả lời - Chỉ vì tôi không thích sách.
Món ăn đầu tiên được đưa tới. Món súp của Alex màu vàng, có cái gì lợn cợn trong đó. Cậu bé dùng muỗng hẩy hẩy nó một cách nghi ngờ.
- Cái gì thế này ? - Cậu hỏi gặng.
- Soupe de moules.
Cậu bé nhìn bà ta, trên nét mặt không có biểu hiện gì.
- Súp trai đấy. Tôi hy vọng cậu sẽ thích nó.
- Tôi thích khoai tây hơn - Alex trả lời.
Món thịt rán rồi cũng được bưng tới, đây là món đặc trưng của Pháp: chỉ nấu sơ qua. Alex cắt lấy một hai lát thịt hãy còn đỏ máu đút vào đầy mồm, sau đó, cậu quẳng dao và nĩa của mình xuống, bắt đầu dùng tay bốc để ăn sạch những miếng thịt rán kiểu Pháp. Bà Stellenbosch kể với cậu về dãy núi Anpơ của Pháp, về môn thể thao trượt tuyết và về những chuyến tham quan đến các thành phố châu Âu của bà ta. Thật là phát ngấy. Cậu bé đang cảm thấy chán. Cậu đã bắt đầu thấm mệt nên cầm ly lên, uống vài hớp nước ngọt, hy vọng nước lạnh có thể khiến cậu tỉnh táo hơn. Hình như bữa ăn đã kéo dài suốt cả buổi tối.
Cuối cùng là đến món tráng miệng - kem phủ sôcôla trắng được đưa đến và được ăn sạch. Alex từ chối không uống cà phê.
- Trông cậu mệt rồi kìa - Bà Stellenbosch nhận xét. Bà ta châm một điếu thuốc khác. Khói thuốc lượn lờ quanh bà ta và làm cho cậu bé cảm thấy chóng mặt - Cậu về giường nhé ?
- Vâng.
- Từ giờ đến trưa mai, chúng ta vẫn chưa khởi hành đâu. Cậu có thời gian để ghé thăm điện Louvre, nếu cậu thích.
Alex lắc đầu:
- Thực ra, tranh ảnh làm tôi chán lắm.
- Thế à ? Tôi thật quê quá !
Alex đứng dậy. Không hiểu sao tay cậu gạt phải cái ly của mình, làm phần nước ngọt còn lại đổ ra tấm khăn trải bàn trắng tinh. Có chuyện gì xảy ra với cậu vậy ? Tự nhiên Alex cảm thấy mệt lử cả người.
- Có cần tôi cùng lên với cậu không, Alex ?
Người phụ nữ hỏi. Trông bà ta như đang lo lắng cho cậu bé, nhưng trong đôi mắt đầy sát khí đó có ánh lên niềm vui.
- Không cần. Tôi sẽ không sao đâu - Alex nói rồi bước đi - Chúc ngủ ngon.
Bước lên cầu thang trong trạng thái này đúng là một sự thử thách. Alex muốn đi thang máy, nhưng lại không muốn nhốt mình vào trong cái khoang nhỏ xíu ngột ngạt đó. Hẳn cậu bé đang bị nghẹt thở. Chân cậu bé bước lên cầu thang, vai cậu va phải tường. Rồi cũng đến hành lang dẫn về phòng, Alex bước đi một cách loạng choạng, cuối cùng, cậu cũng tra được chìa khóa vào ổ. Khi đặt chân vào phòng, cậu cảm thấy tất cả mọi thứ như quay mòng mòng. Có chuyện gì vậy ? Cậu đã uống nhiều rượu gin hơn dự định sao, hay là... ?
Alex há hốc miệng cố nuốt lấy không khí. Cậu đã bị đánh thuốc mê
. Có cái gì đó trong nước ngọt. Nó vẫn còn đọng lại trên lưỡi cậu, hơi đăng đắng. Từ chỗ cậu đứng tới cái giường chỉ có ba bước chân, thế mà giờ đây, nó như dài cả dặm. Đôi chân không chịu nghe lời cậu nữa. Chỉ mỗi việc nhấc một chân lên thôi, cậu cũng đã phải dùng hết sức lực. Cậu lao tới, đưa hai tay ra. Dù sao, cậu cũng đã đẩy mình đi đủ xa. Ngực và vai cậu đổ phịch lên giường, lún xuống nệm. Căn phòng cứ quay mòng mòng xung quanh cậu, càng lúc càng nhanh. Cậu bé cố gắng đứng dậy, cố gắng nói thử - nhưng không được. Mắt cậu díp lại. Cậu bằng lòng để bóng tối đưa mình đi.
Ba mươi phút sau, trong phòng vang lên một tiếng động nhỏ, căn phòng bắt đầu thay đổi.
Nếu Alex có thể mở mắt, cậu sẽ nhìn thấy cái bàn, tủ đựng rượu, và những bức tranh có bọc khung vẽ thành phố Paris đang bay lên dọc theo bức tường. Đó là chỉ đối với cậu thôi. Thật ra, các bức tường không hề chuyển động. Chính là sàn nhà đang lún xuống trên một hệ thống thủy lực, mang theo cả cái giường có Alex nằm trên đó - xuống dưới. Toàn bộ căn phòng không là gì khác ngoài một cái thang máy khổng lồ từ từ đưa cậu bé tới một căn hầm nằm bên dưới lòng đất.
Giờ đây, các bức tường chính là những tấm kim loại. Giấy dán tường, những bóng đèn cùng các bức tranh đã ở trên cao. Cậu bé đang rớt dọc theo hầm thông gió, hệ thống bốn tay đòn đưa cậu xuống tới tận đáy hầm. Những luồng ánh sáng chói lòa đột nhiên rọi thẳng vào người cậu. Có một tiếng động nhẹ vang lên. Alex đã đến nơi.
Chiếc giường dừng lại ngay chính giữa một phòng khám trắng toát nằm trong lòng đất. Xung quanh cậu bé đầy rẫy những thiết bị khoa học. Ở đây có rất nhiều máy móc: máy chụp ảnh kỹ thuật số, máy quay phim, máy chụp bằng tia hồng ngoại, và máy chụp X quang. Ngoài ra, còn nhiều dụng cụ khác, đủ mọi hình dạng, đủ mọi kích cỡ, đa số các dụng cụ, máy móc này, nếu là người không có chuyên môn khoa học thì không thể nhận biết được. Mỗi máy đều được nối với các máy vi tính gắn trên tường nhờ hàng tá những dây nối hình xoắn ốc những máy vi tính đang ở chế độ làm việc, chúng đang kêu o o và hiển thị hình ảnh. Căn phòng có lắp đặt hệ thống điều hòa nhiệt độ. Nếu tỉnh dậy, Alex sẽ run lập cập vì lạnh cóng. Hơi thở của cậu bé biến thành những đám mây trắng mờ nhạt, bay lơ lửng quanh miệng.
Một người đàn ông mập mạp đang đứng chờ. Người này khoảng bốn mươi tuổi, có mái tóc vàng bóng mượt chải ngược ra sau cùng gương mặt lộ rõ tuổi trung niên, đôi má húp híp, cái cổ đọng mỡ. Ông ta đeo kính, để ria mép. Hai người trợ lý đang đứng cạnh ông ta, cả hai đều mặc áo khoác trắng. Gương mặt họ không hề có cảm xúc.
Ba người bắt tay ngay vào việc. Họ chạm đến Alex như chạm vào một cái bao tải đựng rau củ - hoặc là một cái xác chết — vậy, cả ba nâng cậu bé lên, cởi quần áo của cậu ra. Rồi họ bắt đầu chụp hình cậu bằng máy chụp ảnh thông thường. Trước tiên, họ chụp các ngón chân của cậu, rồi cứ thế chụp lên, họ chụp ít nhất là một trăm tấm ảnh, đèn flash lóe liên tục, máy tự động lên phim. Họ không bỏ qua bất kỳ một chỗ nào trên người cậu bé. Tóc cậu được cắt bằng kéo và được bỏ vào một cái phong bì làm bằng nhựa. Một chất liệu dẻo được đưa vào sử dụng để làm nhái mắt của cậu bé.
Họ đúc khuôn răng của Alex, lấy một ít bột mềm đưa vào miệng cậu, rồi ấn vào cằm, buộc cậu phải cắn lại. Họ ghi chép cẩn thận về vết bớt trên vai trái cậu, vết sẹo trên cánh tay, thậm chí cả những đầu ngón tay của cậu nữa. Alex cắn móng tay, điều đó cũng được ghi vào sổ. Sau cùng, họ đặt cậu bé lên một cái cân to, bằng phẳng, để cân trọng lượng của cậu rồi tiến hành đo - chiều cao, vòng ngực, thắt lưng, bắp chân, chiều dài cánh tay, vân vân - mỗi số đo, họ đều ghi chép cẩn thận vào sổ.
Bà Stellenbosch theo dõi chuyện này suốt từ đầu đến cuối qua một cái cửa sổ. Bà ta đứng im, không động đậy. Biểu hiện của sự sống duy nhất có trên gương mặt của bà ta chính là điếu thuốc được ngậm giữa hai bờ môi. Điếu thuốc rực đỏ, khói của nó bay lượn lờ.
Ba người đàn ông đã hoàn thành xong công việc. Người có mái tóc vàng nói vào chiếc micrô:
- Chúng tôi làm xong rồi.
- Cho tôi biết ý kiến của ông đi, ông Baxter - Giọng người phụ nữ vang lên trên hệ thống loa đặt đằng sau bức tướng.
- Được thôi.
Người đàn ông có tên là Baxter ấy là người Anh. Ông ta nói giọng bề trên, rõ ràng là ông ta đang rất hài lòng với chính mình:
- Cấu trúc xương thằng bé rất tốt. Sức khỏe tốt, Gương mặt dễ thu hút sự chú ý. Cô có chú ý đến lỗ xỏ trên tai nó không ? Nó chỉ mới xỏ gần đây thôi. Thực sự chẳng còn gì để nói cả.
- Khi nào thì ông sẽ tiến hành ?
- Bất cứ khi nào cô bảo, cô bạn thân mến ạ. Chỉ cần báo cho tôi biết là được.
Bà Stellenbosch quay sang hai người đàn ông kia, buông thõng hai tiếng:
- Envoyez lui !
Hai người trợ lý mặc lại quần áo cho Alex. Họ mặc vào lâu hơn là họ cởi ra. Khi làm việc, họ cẩn thận ghi lại tên những món vật dụng. Áo sơ-mi ngắn tay hiệu Quiksilver. Vớ ngắn hiệu Gap. Lúc mặc quần áo cho cậu bé, họ biết về cậu nhiều như một bác sĩ biết rõ về một đứa trẻ sơ sinh. Tất cả đều được ghi chép kỹ lưỡng.
Ông Baxter bước về phía bàn làm việc và nhấn nút. Ngay lập tức, thảm, giường, và các vật dụng của khách sạn bắt đầu được nâng lên cao. Chúng mất dạng qua nóc hầm và tiếp tục đi tiếp quãng đường còn lại. Alex vẫn ngủ, cậu được đưa qua hầm thông gió, cuối cùng, về lại cái nơi mà cậu đã biết, phòng số 13.
Tất cả đều như không có gì xảy ra. Toàn bộ chuyện vừa rồi đã bốc hơi, hệt như một giấc mộng.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Đỉnh Tuyết.