Chương VII: Bóng ma giữ mồm giữ miệng
-
KẺ GIẾT NGƯỜI ĐƯỢC GIẢI GONCOURT
- Pierre Gamarra
- 4622 chữ
- 2020-05-09 04:32:44
Số từ: 4618
Nguồn: diendanlequydon.com
Khi một người trên thế giới này có cái gì đó muốn nói
thì vấn đề khó khăn không phải là bắt buộc anh ta nói ra
mà là không để cho anh ta diễn giải ý nghĩ của mình
quá thường xuyên.
Bernard Shaw
Mưa ngừng rơi. Sương mù bao phủ khắp vùng Tarn. Nó xông vào thành phố nhỏ, bao trùm mọi đường phố, tất cả các ngôi nhà.
Joseph gọi điện thoại về Paris nói chuyện với d’Arjean. Vẫn chưa có gì mới. Có nhiều chuyện tếu, nhiều giả thuyết mà không có gì chính xác cả. Tất cả giới văn học Paris đều bàng hoàng. Thậm chí cả những tạp chí cứng rắn nhất cũng lo gửi phóng viên của mình xuống Mouasac, người ta lo ngại nói rằng danh dự của toàn bộ nền văn học Pháp đang bị đụng đến. D’Arjean nhắc lại cho Joseph lời nói của Gaston Simonie: "Chúng ta đã trao giải thưởng cho một tên tội phạm. Đó là điều tượng trưng".
Từ sau bữa ăn đó không thấy Recceque xuất hiện. Gino bảo rằng đôi khi ông ta chỉ ăn có một lần trong ngày. Và đó không phải vì muốn tiết kiệm mà khỏi phí thời gian. Khoảng năm giờ ông ta ăn bánh mì với giò và khóa chặt ở trong phòng, vùi đầu vào những cuốn sách lớn về khảo cổ học. Ông ta đang viết một chuyên đề về tu viện. Gino đã nhìn thấy trong phòng ông giáo những cuốn vở dày cộp viết đầy chữ bé xíu. "Chưa một ai viết về chuyện đó cả", - Recceque khẳng định như vậy.
Joseph lên phòng mình.
Từ phía tầng dưới, từ phòng lớn vọng đến tai anh nhiều giọng nói lao xao.
Những tay chơi bài, đánh đôminô là những khách thường xuyên buổi tối. Joseph đã dập dình với họ khá lâu với hy vọng biết thêm điều gì đó nhưng chẳng được ích lợi gì. Người ta chỉ nhắc lại những điều đã viết trên báo. Thực ra mà nói, họ không biết người buôn sách cũ và chẳng biết gì về ông ta cho đến cái chết bi thảm ấy. Những ai đã đến cái quầy sách ngổn ngang đồ lặt vặt ở phố Cabrette? Rất ít người. Chỉ có những cậu học sinh không có tiền mơ ước tìm mua rẻ một tập còn thiếu của "Ba chàng ngư lâm pháo thủ" hay là tìm kiếm một cuốn truyện trinh thám nào đó ở chỗ người buôn sách cũ. Hay là những khách du lịch hiếm hoi bị lôi cuốn xuống Mouasac bởi vẻ quyến rũ thê lương của tu viện cổ kính và mấy ngôi nhà lâu đời ở cạnh đó. Và còn ông giáo Recceque... Đúng vậy thỉnh thoảng ông ta có đến gặp ông lão Muet. Hình như ông ta đã lục lọi trong máy cuốn sách cũ nát với hy vọng tìm thấy một cái gì đó hiếm hoi trong đám giấy vụn.
Recceque đã nói chuyện nhiều lần với ông lão buôn sách cũ. Họ tranh luận với nhau về mấy cột tru của tu viện đã được xây vào thế kỷ nào. Theo ý kiến của Gustave Muet thì chúng được xây nên vào thế kỷ 12, không thể sớm hơn được. Recceque thì tin tưởng rằng mấy cột trụ ấy lâu đời hơn và công trình của giáo chủ Anskilin đã được bảo quản tốt cho đến ngày nay.
Đó là một vấn đề quan trọng và nghiêm túc.
Hiện giờ ông giáo đang nghĩ gì khi cúi người trên tạp bản thảo của mình và những sách khảo cổ học? Đã bớt đi thêm một kẻ vu khống ư? Từ đây người buôn sách cũ đã mất khả năng bảo vệ giả thuyết về thế kỷ 12 của mình.
Joseph nhún vai. Một tội ác chỉ vì mấy cái cột trụ nào đó.
Tất nhiên mọi chuyện đều có thể xảy ra không loại trừ cả chuyện đó. Một kẻ đam mê khoa học rất có thể giết người. Còn có những chuyện đáng ngạc nhiên hơn thế đã xảy ra.
"Ờ, thế còn tất cả những cái còn lại thì sao? Còn cuốn tiểu thuyết này? Còn giải thưởng Goncourt? Rồi ‘Sự im lặng cửa Harpocrate’ đầy hất hạnh nữa?"
Joseph căng tai ra lắng nghe.
Tiểng ồn của nhiều giọng nói ở dưới nhà đã khẽ dần đi.
Từ phía sau tường vọng lại những tiếng hầu như không nghe thấy được: tiếng ghế kêu cọt kẹt, tiếng xào xạc âm u kiểu như người ta cầm một cuốn sách rồi đặt lên một chồng khác.
Joseph rút chiếc bút máy và cuốn sổ tay ra ngồi ghi chép theo phương pháp ưa thích của mình:
"Bary sinh ở Mouasac. (Một sự trùng lặp?)
Tên giết người quan tâm đến ta.
Tên giết người quan tâm đến ‘Paris-Nouvelles’
Tên giết người quan tâm đến thơ ca.
Hắn ta có quan tâm đến kiến trúc hay không?
Ông lão Muet có giàu không?"
Đặt bút xuống Joseph đọc lại điều đã viết. Đúng lúc đó anh nghe thấy ngoài hành lang vang lên bước chân vội vã. Người ta gõ cửa phòng anh. Joseph mở cửa ra. Trước mặt anh là Gino.
- Có một viên cảnh binh đến đây. Anh ta xin lỗi vì đã làm phiền ông nhưng nói rằng anh ta cần gặp ông ngay bởi anh ta cần báo cho ông một việc quan trọng.
- Được rồi, tôi sẽ xuống bây giờ - Joseph trả lời và quay vào phòng lấy ảo khoác - Cũng tiện là tôi cùng chuẩn bị đi bây giờ.
Viên cảnh binh đến theo lệnh của dự thẩm. Ông ta đang đợi anh ở bót cảnh sát. Ông ta cần báo cho Joseph một chuyện gì đó rất quan trọng.
"Quỷ tha ma bắt, phải chăng là có tin tức gì mới" - Joseph nghĩ thầm và rảo bước theo sau viên cảnh binh.
Viên dự thẩm Ramondou đang đứng nhíu mày bên bếp lò hai tay khoanh trước ngực. Nhìn bộ mặt tối sầm của ông ta tay phóng viên đoán ngay ra rằng có thể có tin gì mới nhưng chắc là chẳng làm sáng sủa gì hơn vấn đề.
- Xin chào Robenne. Mời ông ngồi. Thời tiết chán quá đi mất.
- Chào ông Ramondou. Công việc thế nào rồi?
Viên dự thẩm nhún vai và không trả lời gì.
- Ông đã lần ra dấu vết phải không? - Tay phóng viên tiếp tục vặn hỏi.
- Khô-ông, - Viên dự thẩm kêu lên - Chẳng có dấu vẽt gì hết, chỉ có một mẩu giấy mà ông sẽ phải lưu ý đến...
- Mẩu giấy nào vậy?
Viên dự thẩm khua khoắng trước mặt Joseph một tờ giấy hai vàng vàng khá dày.
- Này, ông hãy đọc đi.
Tay phóng viên thận trọng cầm mảnh giấy.
Và anh rùng mình.
Trên mảnh giấy có mấy chữ in viết vụng về: "DÀNH CHO KẺ NÀO DÍ MŨI VÀO". Còn ở dưới vẽ cái đầu lâu với hai ống xương bắt chéo bằng mấy nét nguệch ngoạc.
- Đây là một trò đùa - Joseph nói. - Ông tìm thấy cái này ở đâu vậy?
Viên dự thẩm cười mát và vuốt râu. Dường như vẻ bối rối của tay phóng viên đã mang lại cho ông ta một sự hài lòng chua chát.
- Nếu như mà tôi nhặt được mảnh giấy này ngoài phố thì tôi đã nói như ông rằng đây là một trò đùa. Thế nhưng tôi, hay đúng hơn không phải tôi mà là chuyên viên pháp y đã tìm thấy nó trong túi kẻ bị giết.
Joseph cúi đầu xuống.
- Thế nào? Bây giờ thì ông sẽ nói gì, thưa ông thám tử không chuyên. Cái đó có vẻ như một lời đe dọa ấy. Cách thể hiện thì bỗ bã nhưng rất chính xác: Nào, hãy ngừng ngay cuộc điều tra của các ông đi, nếu không thì...
- Thôi được rồi. Thưa ông Ramondon, thế cái mẩu... thư tình này được tìm thấy lúc mấy giờ?
- Vừa mới đây thôi. Chuyên viên pháp y định bổ sung mấy chi tiết vào biên bản của mình bởi vì tôi yêu cầu ông ta phải mô tả cụ thể xem mấy phát đạn đã được bắn như thế nào. Vì có điều chưa rõ nên ông ta đến xem xét lại tử thi. Và ở đó, hoàn toàn ngẫu nhiên ông ta nhận thấy một mảnh giấy trắng thò ra ở túi áo gi-lê của người chết. Đó chính là mẩu thư tình như ông gọi nó.
- Nhưng người ta đã khám xét tất cả các túi từ trước rồi chứ?
- Tất nhiên rồi. Đó là việc đầu tiên mà cảnh sát phải làm.
Viên dự thẩm lại cười mát.
- Nghĩa là ông muốn nói, - Joseph chậm rãi hỏi - rằng mẩu giấy này đã được nhét vào túi người chết mới đây thôi phải không?
- Chắc là thế. Dù rằng những viên cảnh binh đứng gác ở đó thề với tôi là không có ai vào nhà xác cả, dĩ nhiên là không kể những người có trách nhiệm phải có mặt ở đó.
- Hắn ta đã đến đây. - Joseph nghiến răng nói.
- Ông nói gì vậy? - Viên dự thẩm hỏi với vẻ tươi tỉnh.
- Không có gì đâu, tôi chỉ nói rằng chuyện này rất kích thích tôi.
- Và cả tôi nữa.
Ông béo nhỏ con lại bắt đầu đi đi lại lại trong phỏng làm việc. Lúc thì khoanh tay trước ngực, lúc thì duỗi ra, ông ta thở dài và giơ quả đấm ra.
- Tôi đã ra lệnh xem xét tất cả những sổ đăng ký ở các khách sạn, tôi đã hỏi hàng xóm - không có kết quả gì hết. Không một tang chứng nào cả. Tất cả như bị một màn đêm bao phủ, tôi nói thật với ông đó. Tất nhiên tôi không yêu cầu phải nói thật như vậy trong các bài phóng sự của mình nhưng đó là sự thật. Thế ông đã tìm ra một dấu vết nào đó rồi chứ?
- Không, tôi có cảm tưởng rằng tôi cũng không tiến hơn ông chút nào.
- Nói tóm lại tôi chẳng hiểu gì hết trong chuyện này. Người Paris dính vào đây thì họ cứ việc đi mà giải quyết vấn đề.
Viên dự thẩm dừng lại và đặt tay lên vai Joseph.
- Ông biết không, phải thật cẩn thận! Tất cả mọi người đều biết ông là một người cực kỳ thông thạo trong những vụ án kiểu này. Tòa báo của ông rất khen ngợi ông... Ý kiến của tôi cũng vậy... Chỉ có bây giờ ông phải cẩn thận giữ mình. Không bao giờ người ta có thể biết được cái gì đang chờ mình. Tôi sẽ rất đau lòng nếu...
Joseph mỉm cười.
- Ông cho rằng ông nhà văn kia định làm mất sự hăng hái của tôi trong việc điều tra vụ án này ư?
- Tôi xin nhỉlc lại với ông rằng không bao giờ người ta có thê biết được...
- Không, - Joseph lắc đầu - tôi cho rằng mọi thứ đều hoàn toàn ngược lại: kẻ kia rất cần đến tôi.
... Joseph vượt qua quảng trường Recollet. Không thấy rõ nhà cửa gì cả. Chúng đã hòa lẫn trong sương mù. Đường phố vắng tanh. Ánh sáng của những ngọn đèn đường yếu ớt vượt qua màn đêm dày đặc bao trùm thành phố đang ngủ yên.
Đi ngang qua khách sạn "Chùm nho chín mọng" Joseph dừng lại và đưa mắt nhìn ngôi nhà cũ kỹ. Các cửa sổ tối om.
Chắc hẳn chủ quán đã đi nằm rồi.
Có lẽ ông giáo đã để những nghiên cứu khảo cổ của mình sang bên: không thấy ánh sáng lọt qua khe cửa sổ phòng ông ta.
Joseph chậm rãi đi về phía tu viện Saint-Pierre. Khu vực này mới yên tĩnh làm sao! Phần chính môn với các bức tượng đá của nó mờ mờ phía xa. Chàng phóng viên nhớ lại giọng nói trầm trầm của người giáo viên lịch sử: "Phần chính môn - đó là một viên ngọc. Vâng, vâng. Đó là một cái gì đó khó mà tưởng tượng được, một phép mầu thật sự. Ở mặt tiền có một bức tranh khải huyền. Các bức tường hai bên được trang điểm bằng những pho tượng. Nhưng khốn thay chúng được bảo quản rất tồi...".
Joseph đã ngắm nhìn những bức tượng này. Đúng là một công trình tuyệt vời. Tiếc rằng chúng đã bị thời gian hủy hoại mà cũng có thể sự cẩu thả của con người đã có lỗi ở đây.
Anh bật diêm và đến sát gần mấy bức tượng.
Gió thổi đung đưa ngọn lửa nhỏ rồi thổi tắt luôn. Ở đây gió thổi từ tất cả mọi hướng.
Joseph bật que diêm thứ hai. Nhưng lần này anh lại tự thổi tắt đi và nhảy lùi lại nấp vào trong bóng tối. Có ai đó đang đi rất gần. Joseph chờ đợi.
Không phải, chắc là anh đã tưởng nhầm.
"Thế đấy, phải kìm hãm bớt óc tưởng tượng của mình đi thôi - Anh thầm nói - Đừng có bịa chuyện ra... Tối nay ta đâu có hẹn gặp Doubois. Và nói chung ta đâu biết ông ấy có ở Mouasac hay không".
Và đúng lúc đó anh nghe thẩy tiếng chân người.
Có ai đó đang đi. Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Vả người đó đi thẳng về phía ngã tư.
Người khách đêm đi từ phía đường xe lửa tới.
Hay là ông ta đã nhìn thấy ánh lửa que diêm khiến ông ta lo ngại và vì thế đã dừng lại.
Hồi sau đó ông ta lại đi tiếp. Phố Cabrette lùi lại ở bên phải, và bây giờ ông ta sẽ đi ngang qua phần chính môn.
Joseph náu mình trong bóng tối. Anh ngồi im khôg động đậy. Anh không rời mắt khỏi khoảng không gian được chiếu sáng, ở đó có cây đèn đường và người khách bí ẩn kia dứt khoát phải đi ngang qua đó.
Tiếng chân trở nên vội vã hơn.
Bỗng nhiên người khách vùng chạy.
Chắc hẳn ông ta định nhanh chóng vượt qua khoảng sáng kia.
Và đúng thật là ông ta đã làm được chuyện đó rất nhanh.
Nhưng đúng cái lúc mà ánh đèn sáng chiếu vào người ông ta thì một cảm giác xao động kinh người bỗng xuất hiện trong Joseph.
Người kia khoác một chiếc áo chùng màu xanh.
Trong khi chạy, chiếc áo chùng bay phất phới khiến Joseph vô tình nhớ đến nhà thơ Gaston Simonie, nhà thơ già với cái áo chùng màu xanh cực kỳ nổi tiếng trong giới văn học Paris.
Có lẽ nào ông ta lại đến đây, đến cái đài kỷ niệm cổ kính để mơ mộng vào cái đêm mù sương này giữa những bóng đen vây quanh tu viện Saint-Pierre?
Trước khi người khách rơi vào luồng ánh sáng Joseph nghe thấy tiếng kim loại kêu leng keng.
Người khoác áo chùng xanh đi ngang qua sát người chàng phóng viên và vào sâu dãy phố dẫn đến quảng trường Recollet.
Joseph lưỡng lự: Đi theo sau ông ta ư? Hay là không nên?
Nhưng anh bị kích động bởi tiếng leng keng kia. Anh lao về phía cây đèn đường. Hình như là... Hình như là một đồng tiền bị rơi...
Tay phóng viên đảo mắt tìm kiếm trên mặt đường.
Có cái gì đó lấp lánh giữa hai viên đá. Anh cúi xuống và giơ tay nhặt.
Hóa ra đó là một đồng tiền vàng óng ánh và khá nặng.
Nhưng kẻ gieo tiền vàng ấy đã biến đi đâu?
Và ngay lúc đó mọi sự kiện tiến triển cực kỳ mau lẹ.
Từ phía cuối quảng trường vọng lại tiếng chân chạy rầm rập của nhiều người. Có tiếng ai đó kêu lên :
- Đứng lại!
Joseph chạy nhanh dọc theo vỉa hè về khách sạn. Ở đó anh suýt va phải một thân hình cao lớn xuất hiện từ trong bóng tối ở gần cửa ra vào.
Và ngay lúc đó một ánh đèn pin làm anh lóa mắt.
- Ồ, hóa ra là ông. - Một giọng nói quen thuộc vang lên.
Người chủ của chiếc đèn pin ngó vào hành lang khách sạn gọi ai đó nhưng cụ thể là ai thì Joseph không nghe rõ.
- Mọi việc ổn cả, - Người ta trả lời trong hành lang - Tôi đang giữ hắn ta đây. Hắn ta đang ở ngoài sân.
Tiếng chốt cửa ầm ĩ mở ra ở tầng hai và khuôn mặt nhợt nhạt của Recceque thò ra ngoài cửa sổ. Cuối cùng người ta đã bật đèn hành lang lên.
Gino đang đứng ở ngay bẫc thang đầu tiên. Ông ta còn chưa bỏ ngón tay ra khỏi công tắc. Joseph nhìn thấy kẻ khoác áo chùng xanh ở phía trong hành lang. Một thanh tra cảnh sát đang giữ tay hắn.
- Không biết đây có phải là con mồi có giá trị hay không? - Viên chánh cẩm đứng cạnh Joseph khẽ nói.
Joseph chăm chú quan sát kẻ mặc ảo chùng xanh. Đó chính là ông lão mà anh đã nhìn thoáng qua ở sân khách sạn từ bữa trưa. Lúc đó ông ta đang cưa củi. "Một kẻ bất hạnh, - Gino nói về ông ta - ông ta bị câm. Hình như từ lúc lọt lòng".
Ông lão có bộ mặt lạ lùng trông như một cái mặt nạ với ánh mắt bất động. Đôi môi ông ta run rẩy. Một nhúm tóc bạc thò ra dưới cái mũ nổi. Thậm chí với cái tuổi 60 - 65 này của mình trông ông ta vẫn còn khéo léo và nhanh nhẹn.
Cái áo chùng mà ông ta khoác trên người còn mới tinh và hoàn toàn chẳng hợp với cái quần rách rưới vấy bùn và đôi giày thủng lỗ chỗ của ông ta.
- Nào, đi đi. - Viên thanh tra đẩy tay ông ta nói.
Ông lão quay về phía viên cảnh sát vẫn với vẻ mặt đần độn như vậy.
- Ông ta không nghe thấy ông nói đâu - Gino nói. Rồi ông ta thở dài buồn rầu hỏi - Ông ta còn gây ra chuyện gì nữa vậy?
Joseph đến gần ông lão câm điếc và nhấc vạt áo chùng lên để lộ cánh tay trái của lão ta ra.
Ông lão lùi lại và gầm gừ cái gì đó. Dưới chiếc áo chùng của ông ta có một chiếc áo đen bẩn và một chiếc áo len thủng lỗ chỗ!
- Ông ta giấu cái gì thế? - Viên chánh cẩm đến gần ông ta hỏi.
- Nào đưa đây! - Viên thanh tra sỗ sàng yêu cầu và định giằng tay ông lão.
Nhưng ông ta chống cự lại.
- Đưa đây! - Viên cảnh sát nhắc lại.
Và anh ta giật từ tay kẻ ăn mặc rách rưới ra một cái gì đó như một cái ống quấn trong mảnh vải bẩn thỉu.
Viên chánh cẩm khẽ huýt lên sửng sốt. Gino trợn ngược mắt lên.
Khi viên thanh tra mở cái gói ra một đồng tiền vàng rơi xuống sàn. Gino chạy bổ tới nhặt lên. Joseph thò tay vào túi áo gi-lê của mình.
- Còn đồng này là ông ta đánh rơi ở ngoài phố. - Anh nói.
- Một buổi tối không đến nỗi uổng phí. - Viên chánh cẩm hài lòng nhận xét.
Ông ta cầm một đồng tiền lên xem xét kỹ lưỡng.
- Liên minh La Tinh! Hừm!... Hắn ta sẽ không chối được, hắn ta sẽ nói xem hắn ta đã tìm thấy tiền ở đâu.
Gino bất lực giơ tay ra và lắc đầu.
- Không đâu, thưa ông chánh cẩm, ông ta sẽ không nói cho ông đâu, không bao giờ, không bao giờ. Ông ta bị câm điếc và dở người.
Viên chánh cẩm nhíu máy.
- Dù sao thì chúng tôi vẫn đưa ông ta về bót.
- Thưa ông chánh cẩm, ông theo dõi đối tượng này lâu chưa? - Joseph khẽ hỏi.
- Không phải đâu - Viên chánh cẩm vẻ có lỗi trả lời - Đó là ông dự thẩm trao nhiệm vụ cho tôi đi theo xem ông trở về nhà có an toàn không. Như ông thấy đấy, chúng tôi đã không uổng công. Chúng tôi đã tóm được Frizou... Vâng, ở đây người ta gọi ông lão như vậy. Thậm chí tôi quên mất cả tên thực của ông ta. Thế mà tôi cứ cho rằng ông ta vốn là một kẻ hiền lành, nhưng...
- Sẽ khó mà moi được gì ở ông ta đấy - Chàng phóng viên nhận xét.
- Cần phải thử xem.
Lắng nghe câu chuyện, Gino đến gần họ với nụ cười trên môi.
- Thưa ông chánh cẩm, tôi có thể thử hỏi những điều ông cần biết xem. Tôi biết rõ ông lão và với tôi thì ông ta sẽ không lẩn tránh đâu... Ông ta thường đến cưa củi ở chỗ tôi và thỉnh thoảng tôi cho ông ta đĩa súp. Nói chung là ông ta hiểu tôi... tuy là không phải mọi lúc.
- Nào, - Joseph nói - ông hãy hỏi xem ông ta đã tìm thấy những đồng tiền vàng này ở đâu?
"Ông lão Frizou này cũng chằng ngốc lắm đâu, - Chàng phóng viên nghĩ - một khi ông lão định giấu chúng ta kho báu của mình!"
Gino quay về phía ông lão và chỉ ngón tay vào mấy đồng tiền vàng rồi nói rành rọt từng chữ :
- Frizou này, hãy nói xem ông đã lấy chúng ở đâu ra?
Kẻ câm điếc lúng búng trong cuống họng, nhún nhảy trên đôi giày bẩn thỉu của mình một cách
ngớ ngẩn.
Gino lấy một đồng tiền vàng ở tay viên thanh tra và tung hứng nó, ông ta chăm chú nhìn kẻ câm điếc.
- Đẹp nhỉ, đúng không, đẹp nhỉ, ông thích lắm phải không? Hãy nói đi, Frizou! Hãy tỏ ra biết điều đi, tôi sẽ cho ông một đĩa súp to.
Ông lão hồi hộp, đôi môi run bần bật. Ông ta cố vùng ra.
- Buông ông ta ra! - Viên chánh cẩm ra lệnh cho viên thanh tra.
Cảm thấy được tự do ông lão cởi chiếc áo chùng và chìa tay về phía trước. Không ai hiểu ông ta muốn gì.
Tay người Ý giải thích :
- Ông ta muốn các ông lùi lại.
Tất cả lùi ra xa.
Frizou trải chiếc ảo chùng ra sàn và đứng thang người lên. Ông ta gắng sức - điều đó thể hiện rất rõ - tập trung mọi ý nghĩ, lại nói lúng búng trong họng và chìa tay với mấy đồng tiền vàng.
- Đừng có cản trở ông ta! - Viên chánh cẩm nói.
Kẻ câm điếc cầm mấy đồng tiền vàng, ngồi xổm xuống và đặt chúng lên trên nền vải xanh. Sau đó ông ta đứng dậy và lùi lại giống như người họa sĩ hài lòng với tác phẩm của mình và muốn ngắm nghía nó từ xa. Thật là một cảnh tượng lạ lùng: Gino và viên thanh tra đứng sâu trong hành lang, Joseph và viên chánh cẩm thì ở lối ra vào, còn chiếc áo chùng với mấy đồng tiền vàng đang lấp lánh trên đó thì nằm giữa chỗ họ. Dưới ánh sáng điện trông chiếc áo càng sặc sở. Ông lão ăn mặc rách rưới đứng đó, người hơi nghiêng về phía trước và đôi mắt ông ta hết nhìn đồng tiền này sang đồng tiền khác. Dường như ông ta đang hấp thu vào mình cái ánh lấp lánh ấm áp của thứ kim loại quí.
- Cái đó nghĩa là gì thế? - Viên chánh cẩm hỏi khẽ - Tôi chẳng hiểu gì cả. Ông hãy bảo lão ta giải thích xem!
Gino bắt đầu hoa chân múa tay.
- Frizou, ông muốn nói gì? Ông muốn nói gì?
Ông lão lại lúng búng và xòe tay chỉ cái triển lãm kỳ dị kia.
Sau đó bất ngờ ông lão đi ra cửa định về nhà. Viên chánh cẩm giữ ông ta lại.
- Ép buộc cũng vô ích - Viên thanh tra nói - Chúng ta sẽ chẳng moi được điều gì ở ông lão đâu. Chúng ta sẽ làm gì với ông ta, thưa ông chánh cẩm?
- Vẫn phải đưa về bót.
Viên chánh cẩm bước ra phố. Joseph đi theo sau ông ta. Gino vẫn đứng ở đầu cầu thang. Ông ta hết sức ngạc nhiên vì không hiểu được một điều nào ở kẻ câm điếc kia. Người đàn bà với khuôn mặt đã phôi phai đứng ở bậc cầu thang trên cùng nhìn cảnh tượng xảy ra một cách buồn bã. Bà ta xuất hiện khẽ khàng và không hề hé miệng một lời nào trong suốt thời gian đó.
° ° °
Viên chánh cẩm và Joseph đứng chờ viên thanh tra dẫn Frizou ra. Đèn trong hành lang tắt phụt. Viên chánh cẩm toan đi về phía trung tâm thành phố nhưng Joseph ngăn ông ta lại.
- Xin ông chờ chút xíu, chúng ta hãy thử đưa Frizou đến phố Cabrette xem sao. Có thể ông lão sẽ nhớ ra điều gì đó.
- Đúng đấy.
Họ đi ngang qua tu viện và đến đầu ngã tư. Ở đây ông lão bắt đầu lúng búng trong miệng. Ông ta muốn đi về phía đường xe lửa chạy ngang qua sau nhà thờ.
- Ông ta muốn đi về nhà - Viên thanh tra giải thích - Ông ta sống ở đằng kia kìa, trong một cái nhà kho bằng gỗ ở trên đồi.
Viên chánh cẩm cầm tay Frizou và lôi ông ta về phía bên trái nhưng ông lão chống cự lại. Trời hơi lạnh và người ta khoác chiếc áo chùng lên vai ông ta.
Ở góc phố Cabrette, ông lão lại lúng búng và đứng lại. Muốn lôi kéo bao nhiêu thì lôi, ông ta vẫn ì ra không nhúc nhích. Rõ ràng là ông ta sợ vào cái phố tối om như là có thể gặp ai đó...
- Không cần ép buộc ông ta làm gì. - Joseph nói khi nhìn ông lão lăn lộn trong đêm tối. Vạt áo ông ta bay tứ tung và điều đó làm ông ta trông giống như một bóng ma, giống một sinh vật khó hiểu bí ẩn nào đó tự nhiên xuất hiện giữa đêm tối và lại cố hòa tan vào đó, một sinh vật mà không một ai và chẳng bao giờ có thể tìm hiểu được gì ở nó.
Và cũng giống hệt như một pho tượng bất động, què cụt để trang điểm cho cửa tu viện cách đó dăm bảy mét.
Đúng thật, phải chăng những pho tượng có thể nói một cái gì đó?