Chương 4
-
Reacher báo thù
- Lee Child
- 5559 chữ
- 2020-05-09 04:19:00
Số từ: 5548
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Người ta tiêu vài ngàn đô la cho các hệ thống âm thanh nổi. Đôi khi vài chục ngàn đô. Ngay ở nước Mỹ đây còn có một ngành chuyên sâu chế tạo thiết bị âm thanh nổi đáp ứng những tiêu chuẩn mà ta không thể tin nổi. Dàn âm ly đèn chân không có giá trị hơn một căn nhà. Những chiếc loa cao hơn tôi. Cáp to hơn cả vòi nước tưới vườn. Một số tay trong quân đội sở hữu những thứ đó. Tôi đã nghe những hệ thống ấy ở các căn cứ trên khắp thế giới. Tuyệt vời. Nhưng người ta đang lãng phí tiền của mình. Bởi hệ thống âm thanh nổi tốt nhất thế giới lại miễn phí. Trong đầu ta. Nó phát ra âm thanh tốt như mức ta muốn. Và lớn như mức ta muốn.
Tôi tựa vào góc của mình, đầu dạo một khúc của Bobby Bland (Robert Calvin Bland – nhạc sĩ nổi tiếng dòng nhạc blues và soul ở Mỹ)
. Một bản cũ tôi thích. Nó vang lên thực sự lớn. "Further on up the road" (trên con đường phía trước – lời bài hát này nói về luật nhân quả)
Bobby Bland hát bài này bằng giọng son trưởng. Nốt này tạo ra sắc thái lạ, tươi tắn, vui vẻ. Loại bỏ chất cay nghiệt trong ca từ. Khiến nó trở thành một lời than vãn, một lời dự báo, một lời an ủi. Khiến nó thực hiện việc dòng nhạc blues phải làm. Giọng son trưởng thư thái gần như trải nó ra thành giai điệu ngọt ngào. Không lên gân.
Nhưng rồi tôi trông thấy lão đồn trưởng béo ị bước qua. Morrison đi qua buồng giam về phía căn phòng lớn ở phía cuối. Vừa đúng lúc bắt đầu đoạn thứ ba. Tôi nghiến răng hạ tông bài hát xuống nốt mi giáng. Một nốt tối tăm và đầy đe dọa. Nốt nhạc blues thực sự. Tôi xóa đi Bobby Bland dễ chịu và thân thiện. Tôi cần giọng mạnh hơn. Thứ gì đó ghê gớm hơn. Là nhạc nhưng với chất giọng thực sự the thé của thuốc lá và rượu mạnh. Có lẽ là Wild Child Butler (George
Wild Child
Butler (1936 - 2005): một ca sĩ, nhạc công dòng blues ở Mỹ)..
Một người mà ta không muốn gây chuyện. Tôi vặn cao âm lượng trong đầu ở đoạn nói về chuyện trên con đường phía trước
ta gặt hái những gì đã gieo.
Morrison đã nói dối về buổi đêm qua. Tôi đã không có mặt ở đây lúc nửa đêm. Trong một quãng thời gian nhất định tôi có thể chấp nhận khả năng đó là sự nhầm lẫn. Có thể lão đã trông thấy ai đó giống tôi. Nhưng điều đó đang khiến lão cho rằng mình đúng nhưng chưa đủ bằng chứng. Ngay lúc này đây tôi muốn thúc cùi chỏ vào giữa mặt lão. Cho cái mũi to của lão giập và bắn tóe khắp nơi. Tôi nhắm mắt lại. Wild Child Butler và tôi đã hứa với nhau rằng điều đó sẽ xảy ra. Trên con đường phía trước.
Tôi mở mắt và tắt nhạc trong đầu. Đứng trước mặt tôi, bên ngoài song sắt là viên sĩ quan nữ đã lấy dấu vân tay của tôi. Cô đi lấy cà phê ở chỗ máy hâm cà phê về.
"Tôi mang cho anh một tách cà phê được chứ?" Cô hỏi tôi.
"Chắc chắn rồi," tôi đáp. "Thật tuyệt. Không kem, không đường nhé."
Nữ cảnh sát đặt tách của mình xuống chiếc bàn gần nhất rồi quay lại máy ủ cà phê. Rót từ bình cho tôi một tách rồi bước lại. Đây là một phụ nữ đẹp. Tầm ba mươi, da sẫm, không cao. Nhưng gọi cô là người tầm thước thì không công bằng. Ở cô toát lên sức sống mạnh mẽ. Nó thể hiện qua tác phong khẩn trương song rất ân cần trong căn phòng tôi bị thẩm vấn lần đầu tiên. Một tác phong chuyên nghiệp. Giờ đây có vẻ cô thoát khỏi công việc. Có lẽ thế. Có lẽ mang cà phê cho một nghi can là việc trái với các quy định của lão béo. Điều đó khiến tôi thấy thích cô.
Nữ cảnh sát đưa tách cà phê qua song sắt. Ở tầm gần cô trông đẹp. Thơm nữa. Mùi thơm mà tôi không nhớ đã từng gặp chưa. Tôi nhớ rằng mình đã nghĩ về cô như nữ y tá nha khoa. Nếu các nữ y tá nha khoa đều đẹp thế này thì tôi đã đến phòng khám nha khoa thường xuyên hơn. Tôi nhận lấy tách. Tôi vui vì việc này. Tôi đang khát, lại thích uống cà phê. Nếu để tôi uống thả phanh thì tôi có thể uống cà phê như tay nghiện rượu nốc vodka. Tôi nhấp một ngụm. Cà phê ngon. Tôi nâng tách lên như nâng cốc chúc mừng.
"Cảm ơn cô," tôi nói.
"Không có gì," cô nói và mỉm cười, đôi mắt cũng cười. Tôi mỉm cười đáp lại. Đôi mắt nữ cảnh sát như một lời chào đón bằng ánh nắng sáng ấm trong buổi chiều ảm đạm.
"Vậy là cô nghĩ tôi không làm việc đó à?" tôi hỏi cô.
Nữ cảnh sát cầm tách của mình lên.
"Anh nghĩ tôi không mang cà phê cho tội phạm sao?" cô hỏi lại.
"Có khi cô thậm chí chẳng nói chuyện với tội phạm ấy chứ", tôi đáp.
"Tôi biết anh không có tội lỗi gì mấy," cô nói.
"Sao cô biết?" tôi hỏi. "Bởi hai mắt tôi không sát nhau à?"
"Không, đồ ngốc," nữ cảnh sát bật cười. "Bởi vì chúng tôi vẫn chưa nhận được thông tin từ Washington."
Tiếng cười của cô thật tuyệt. Tôi muốn nhìn thẻ tên của nữ cảnh sát trên túi áo. Nhưng chẳng muốn khiến cô nghĩ rằng tôi đang ngắm bộ ngực cô. Tôi nhớ nó đã tì lên cạnh bàn lúc cô chụp ảnh tôi. Tôi đã nhìn. Bộ ngực đẹp. Tên cô là Roscoe. Nữ cảnh sát liếc quanh khá nhanh và tiến sát tới song sắt. Tôi nhấp cà phê.
"Tôi đã gửi các dấu vân tay của anh tới Washington qua mạng máy tính," Roscoe nói. "Lúc đó là 12 giờ 36. Ở đó có cơ sở dữ liệu lớn, anh biết chứ, của FBI ấy? Trong máy tính của họ có vài triệu dấu vân tay. Các dấu vân tay gửi tới đó được kiểm tra. Có thứ tự theo mức ưu tiên. Anh được so sánh với danh sách mười kẻ bị truy nã hàng đầu, rồi tới một trăm, rồi một ngàn, anh hiểu không? Nếu anh nằm ở gần tốp đầu, khớp và chưa bị tóm, chúng tôi sẽ nhận được phản hồi gần như ngay lập tức. Việc ấy diễn ra một cách tự động. Người ta không muốn bỏ lọt bất kỳ tên tội phạm cỡ bự nào nên hệ thống trả lời ngay. Nhưng thông tin về anh nằm ở đó gần ba tiếng rồi mà chúng tôi vẫn chưa nghe được tin tức gì. Thế nên tôi có thể nói rằng anh không năm trong hồ sơ vụ gì rất tệ hại."
Viên thượng sĩ làm văn phòng đang nhìn sang. Tỏ thái độ không nhất trí. Nữ cảnh sát sắp phải đi. Tôi uống nốt chỗ cà phê, trả lại tách cho cô qua song sắt.
'Tôi chẳng nằm trong hồ sơ vụ nào hết", tôi nói,
"Phải", Roscoe nói. "Anh không khớp với lý lịch của những kẻ xấu."
"Không hả?" tôi hỏi.
"Tôi có thể xác định ngay." Nữ cảnh sát cười. "Anh có đôi mắt đẹp", Roscoe nháy mắt rồi bước đi. Bỏ hai chiếc tách vào thùng rác và bước về chỗ làm việc của cô. Rồi ngồi xuống. Tất cả những gì tôi có thể trông thấy là phần gáy của nữ cảnh sát. Tôi chuyển về góc của mình và tựa vào những song sắt cứng. Tôi đã là một kẻ lang thang cô đơn sáu tháng nay. Tôi học được một điều. Như Blanche trong bộ phim ngày trước, một người lang thang sống nhờ vào lòng tốt của người lạ. Không vì điều gì cụ thể hay hữu hình. Mà vì đạo đức. Tôi chăm chăm nhìn vào phần gáy của Roscoe và mỉm cười. Tôi thích cô.
Baker đi phải đến hai mươi phút rồi. Đủ thời gian từ nhà Hubble trở lại đây, dù nhà anh ta có ở đâu chăng nữa. Tôi cho là ta có thể cuốc bộ tới đó và trở lại sau hai mươi phút. Đây là thị trấn nhỏ, phải không? Một dấu chấm trên bản đồ. Tôi nghĩ có thể đi bộ tới bất kỳ chỗ nào và trở lại trong hai mươi phút. Khá gần. Cho dù đường ranh giới của thị trấn rất kỳ quặc. Tùy thuộc ở việc Hubble sống trong thị trấn hay ở nơi khác trong phạm vi ranh giới ngoài của thị trấn. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, ta vẫn được coi là còn ở trong thị trấn ngay cả khi ta đã cách nó mười bốn dặm. Nếu mười bốn dặm ấy kéo dài về mọi hướng thì Margrave phải lớn bằng thành phố New York.
Baker đã nói rằng Hubble là mẫu người của gia đình. Một người làm ngành ngân hàng làm việc ở Atlanta. Thế nghĩa là nhà anh ta ở đâu đó gần thành phố. Gần trường học và bạn bè để thuận lợi cho lũ trẻ. Gần các cửa hiệu và câu lạc bộ nông thôn để tiện cho vợ. Để anh ta có thể dễ dàng lái xe theo tỉnh lộ tới quốc lộ. Thuận tiện cho việc tới văn phòng ở thành phố lớn bằng quốc lộ. Cái địa chỉ nghe như địa chỉ ở phố. Số 25 Beckman Drive. Không gần Phố Chính lắm. Có lẽ Beckman Drive chạy từ trung tâm thị trấn ra khu vực làng xóm. Hubble là tay làm trong ngành tài chính. Có lẽ giàu có. Có khi sở hữu căn nhà lớn màu trắng trên một lô đất rộng. Những cây lớn xòe bóng mát. Có thể cả bể bơi. Cứ coi là bốn acre đi (Đơn vị đo diện tích, 1 acre - 4.046 m2)
.. Một lô vuông vắn có diện tích bốn acre sẽ có mỗi chiều khoảng một trăm bốn mươi mét. Các nhà nằm ở cả hai bên con phố nên số 25 sẽ nằm cách thị trấn chừng mười hai lô. Có lẽ chừng một dặm.
Bên ngoài cửa kính, mặt trời đang dần hạ thấp cho chiều tối. Ánh sáng dần đỏ hơn. Các bóng nắng đổ dài hơn. Tôi trông thấy chiếc xe tuần tra của Baker nhấp nhô chạy vào lối nối đồn với đường chính. Không chớp đèn. Nó chầm chậm chạy quanh hình bán nguyệt và từ từ dừng lại. Xóc lên một lần. Độ dài của nó choán toàn bộ tầm nhìn qua lớp kính dày. Baker ra khỏi xe ở phía cửa bên kia và khuất khỏi tầm quan sát khi ông ta vòng qua bên này. Viên cảnh sát lại xuất hiện khi đến bên cửa cạnh ghế phụ. Baker mở cửa như một tài xế chuyên nghiệp. Trông ông ta như xoắn cả người vì ngôn ngữ cơ thể không thống nhất. Một phần bày tỏ sự tôn trọng vì đây là một tay làm trong ngành ngân hàng ở Atlanta. Một phần thân thiện bởi đây là bạn chơi bowling của đồng nghiệp ông ta. Một phần nghiêm túc bởi đây là người có số điện thoại được giấu trong giày một xác chết.
Paul Hubble ra khỏi xe. Baker đóng cửa. Hubble chờ đợi. Baker bước vòng qua anh ta và kéo cánh cửa kính lớn của đồn. Nó mở ra dù lớp doăng cao su níu lại. Hubble bước vào trong.
Người này da trắng, cao. Anh ta trông như một trang tạp chí. Một trang quảng cáo. Kiểu quảng cáo sử dụng một bức ảnh sặc hơi tiền. Hubble ngoài ba mươi một chút. Trông mảnh dẻ chứ không khỏe mạnh. Mái tóc màu cát, rối bù, cắt ngắn vừa đủ lộ ra đôi lông mày thể hiện sự thông minh. Thế cũng đủ nói với thiên hạ rằng: đúng, tôi từng là một tay công tử, nhưng này, giờ tôi là một người đàn ông đấy. Hubble đeo cặp kính tròn gọng vàng. Anh ta cằm vuông. Làn da rám nắng đẹp. Hàm răng rất trắng. Nhiều chiếc phô rõ lúc anh ta mỉm cười với viên thượng sĩ làm văn phòng.
Hubble mặc áo phông cổ bẻ đã phai màu có in biểu tượng nho nhỏ quần vải conon chéo. Loại quần áo trông cũ khi ta mua với giá năm trăm đô la. Hubble khoác một chiếc áo len dày màu trắng trên vai. Hai tay đan hờ vào nhau phía trước. Tôi không thể trông thấy chân người này vì bị chiếc bàn chắn mắt. Nhưng chắc chắn Hubble đi giày kiểu thuyền màu nâu sáng. Tôi dám cá là Hubble đi giày không tất. Đây là một gã đàn ông chìm đắm trong giấc mơ của một công tử giỏi giang như con lợn dầm mình trong đóng phân vậy.
Hubble đang trong trạng thái bị khích động. Anh ta đặt hai lòng hàn tay lên quầy tiếp tân rồi quay lại, tay buồng xuống. Tôi trông thấy hai cánh tay màu nâu vàng và ánh lấp lánh của chiếc đồng hồ đeo tay nặng nề bằng vàng. Tôi có thể thấy rằng nếu tự nhiên, Hubble sẽ hành động như một gã giàu có thân thiện. Thăm đồn cảnh sát như lão tổng thống đang vận động tranh cử tới thăm một nhà máy. Nhưng người này đang lo lắng. Căng thẳng. Tôi không biết Baker đã nói gì với anh ta. Ông ta đã tiết lộ những gì. Có lẽ chẳng gì hết. Một viên thượng sĩ giỏi như Baker sẽ dành lại những thông tin gây ngạc nhiên cho Finlay. Thế nên Hubble không biết tại sao anh ta có mặt ở đây. Nhưng anh ta đã biết điều gì đó. Tôi cũng có thể coi là cảnh sát trong mười ba năm, tôi có thể đánh hơi thấy một người đang lo lắng khi còn cách xa cả dặm. Hubble đang lo lắng.
Tôi vẫn tựa vào các song sắt, bất động. Baker ra hiệu cho Hubble cùng ông ta bước vòng qua phía bên kia phòng họp, về phía căn phòng toàn đồ gỗ hồng sắc ở phía sau. Lúc Hubble vòng qua đầu quầy tiếp tân, tôi trông thấy chân anh ta. Đôi giày kiểu thuyền màu nâu sáng. Không tất. Hai người bước vào phòng, ra khỏi tầm quan sát của tôi. Cánh cửa khép lại. Viên thượng sĩ làm văn phòng rời vị trí đi ra ngoài để đánh chiếc xe của Baker vào bãi đậu.
Ông ta trở lại cùng Finlay. Finlay bước thẳng tới căn phòng đầy gỗ hồng sắc, nơi Hubble đang đợi ông ta. Lúc đi ngang qua phòng họp, ông ta lờ tôi đi. Mở cửa căn phòng kia và bước vào. Tôi ở góc của mình chờ Baker đi ra. Baker không thể ở trong đó. Không thể ở đó trong khi anh bạn chơi bowling của đồng nghiệp ông ta tiến vào quỹ đạo của cuộc điều tra án mạng. Làm thế sẽ không phù hợp chuẩn mực. Không phù hợp chút nào. Finlay tạo cho tôi ấn tượng về một người đề cao các chuẩn mực. Bất kỳ tay nào mặc bộ com lê vải tuýt cùng gi lê giả da và được đào tạo ở Harvard cũng đều đề cao chuẩn mực. Một lúc sau cửa mở và Baker bước ra. Ông ta bước vào khoảng không gian thoáng rộng rãi rồi tiến về phía bàn mình.
"Này, ông Baker", tôi gọi. Viên cảnh sát đổi hướng bước về phía buồng giam. Đứng trước hàng song sắt. Nơi Roscoe đã đứng.
"Tôi cần đi vệ sinh," tôi nói. "Chẳng hay tôi có phải đợi cho tới khi đến khu giam giữ lớn mới được làm việc đó không?"
Baker nhếch miệng cười. Miễn cưỡng nhưng vẫn là cười. Viên cảnh sát này có một chiếc răng vàng. Tạo cho ông ta vẻ ngang tàng. Như thế trông ông ta có phần phàm tục hơn. Baker hét gì đó với viên cảnh sát làm hành chính. Có lẽ là ám hiệu cho một thủ tục. Ông ta lấy chùm chìa khóa của mình và mở chiếc khóa điện. Các chốt cửa bật ra. Trong chốc lát tôi băn khoăn chúng sẽ hoạt động thế nào khi mất điện. Liệu người ta có thể khóa những cánh cửa này khi không có điện không? Tôi hy vọng là có. Có lẽ ở đây xảy ra nhiều giông sét. Nhiều đường dây điện bị đứt.
Baker đẩy cánh cửa nặng nề vào phía trong. Chúng tôi bước tới cuối phòng họp. Góc đối diện với căn phòng toàn đồ gỗ hồng sắc. Có gian sảnh. Qua sảnh là hai phòng vệ sinh. Baker nhoài người qua tôi mở cửa phòng dành cho nam giới.
Họ biết rằng tôi không phải kẻ họ cần tóm. Họ không quan tâm. Chẳng quan tâm chút nào. Khi ở ngoài sảnh tôi đã có thể hạ gục Baker và tước khẩu súng lục của ông ta. Không gặp chút khó khăn nào. Tôi đã có thể giật vũ khí ở thắt lưng viên cảnh sát này trước khi ông ta đổ xuống sàn. Tôi đã có thể lao ra khỏi đồn, nhảy vào xe tuần tra. Xe đậu cả ở phía trước. Chắc chắn vẫn cắm chìa khóa. Tôi đã có thể phóng khỏi đồn về phía Atlanta trước khi họ kịp sắp xếp đội hình truy bắt hiệu quả. Rồi tôi đã có thể biến mất. Chẳng gặp chút khó khăn nào. Nhưng tôi vẫn bước vào nhà vệ sinh.
"Đừng khóa cửa", Baker bảo.
Tôi không khóa. Họ đang đánh giá tôi quá thấp. Tôi đã bảo họ rằng tôi từng là quân cảnh. Có thể họ tin, có thể không. Có thể dù thế nào thì chuyện đó cũng chẳng có ý nghĩa mấy đối với họ. Nhưng đúng ra thì họ nên lưu tâm tới chuyện đó. Một quân cảnh xử lý những kẻ vi phạm quân luật. Những kẻ đó là quân nhân tại ngũ. Được huấn luyện kỹ về sử dụng vũ khí, phá hoại, chiến đấu tay không, lính đặc nhiệm Ranger, lính Mũ nồi xanh, lính thủy đánh bộ. Không chỉ là sát thủ. Mà là sát thủ được huấn luyện.
Được huấn luyện tinh nhuệ, bằng khoản ngân sách khổng lồ. Thế nên quân cảnh còn được huấn luyện tốt hơn. Tốt hơn về sử dụng vũ khí. Tốt hơn khi tay không. Hẳn là Baker chẳng biết tí gì về chuyện ấy. Chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Nếu không thì ông ta đã yêu cầu hai khẩu súng trường chĩa vào tôi chỉ để giải ra nhà vệ sinh. Nếu như ông ta nghĩ tôi là hung thủ.
Tôi kéo khóa quần và quay lại sảnh. Baker đang đợi. Chúng tôi trở về khu giam giữ. Tôi bước vào buồng giam. Tựa vào góc của tôi. Baker kéo cánh cửa nặng nề đóng lại- Dùng chìa khóa khóa điện. Các chốt cửa bập vào. Viên cảnh sát bước đi, vào phòng họp.
Hai mươi phút tiếp theo chìm trong im lặng. Baker làm việc tại bàn. Roscoe cũng thế. Viên thượng sĩ làm văn phòng ngồi trên ghế mình. Finlay thì ở trong căn phòng lớn cùng Hubble. Phía trên cửa trước có một chiếc đồng hồ kiểu hiện đại. Không được thanh thoát như chiếc đồng hồ cổ trong phòng nhưng cũng tích tắc chạy chậm như thế. Im lặng. 4 giờ 30. Tôi lại tựa vào chấn song chờ đợi. Im lặng. 5 giờ kém 15.
Thời gian khởi động trở lại trước năm giờ. Tôi nghe thấy tiếng ồn ào phát ra từ căn phòng gỗ hồng sắc ở phía sau. Tiếng kêu, hét, các thứ đập mạnh. Ai đó đang thực sự rối loạn. Chuông đàm thoại nội bộ kêu ở bàn Baker và tiếng người khò khè. Tôi nghe thấy giọng Finlay. Căng lắm. Yêu cầu Baker vào trong đó. Baker đứng dậy đi tới. Gõ cửa bước vào.
Cánh cửa kính dày được kéo ra và lão béo bước vào. Đồn trưởng Morrison. Lão hướng thẳng về phía căn phòng gỗ hồng sắc. Morrison bước vào thì Baker đi ra. Baker vội vã đến bàn tiếp tân. Thì thầm một câu dài đầy phấn khích vào tai viên thượng sĩ làm văn phòng. Roscoe đến bên hai người đó. Có một cuộc trao đổi ngắn gọn. Thông tin gì đó quan trọng. Tôi không thể nghe được đó là gì. Cách quá xa.
Máy đàm thoại nội bộ trên bàn Baker lại khò khè. Ông ta trở lại căn phòng kia. Cánh cửa lớn phía trước lại mở lần nữa. Mặt trời ban chiều đang tỏa ánh nắng thấp. Stevenson bước vào trụ sở đồn. Từ lúc bị bắt tới giờ, đây là lần đầu tiên tôi trông thấy anh ta. Như thể sự phấn khích đang hút người ta vào đây.
Stevenson nói chuyện với viên thượng sĩ làm văn phòng. Anh ta trở nên khích động. Viên thượng sĩ nắm cánh tay Stevenson. Stevenson gạt ra và chạy về phía căn phòng gỗ hồng sắc. Anh ta lắt léo lách qua những chiếc bàn như một cầu thủ bóng đá. Khi Stevenson vừa đến cửa thì cửa mở. Một đám người bước ra. Đồn trưởng Morrison. Finlay. Baker, đang nắm khuỷu tay Hubble. Cái nắm nhẹ nhưng hiệu quả, như đã áp dụng với tôi. Stevenson trân trối nhìn Hubble và túm lấy cánh tay Finlay. Kéo ông ta trở vào phòng. Morrison xoay tấm thân đồ sộ đang đổ mồ hôi theo họ. Cánh cửa đóng sầm. Baker giải Hubble về phía tôi.
Hubble trông như một người khác hẳn. Anh ta xám nhợt, mồ hôi túa ra. Làn da rám nắng đã biến mất. Anh ta trông nhỏ bé hơn. Hubble trông như bị ai đó rút hết không khí và để cho xẹp dí. Cơ thể anh ta co rúm lại như người bị hành hạ bởi cơn đau. Đôi mắt sau gọng kính vàng đờ đẫn, nhìn chăm chăm đầy vẻ hoảng loạn sợ hãi. Trong lúc Baker mở khóa buồng giam bên cạnh buồng tôi, Hubble đứng run rẩy. Anh ta không hề cử động. Anh ta đang run lên. Baker nắm lấy cánh tay Hubble đẩy vào trong. Ông ta kéo cửa khóa lại. Các chốt cửa chạy điện bập vào. Baker bước trở về căn phòng nhiều đồ gỗ hồng sắc.
Hubble ở nguyên chỗ Baker đã đẩy vào. Đờ đẫn nhìn vào khoảng không. Rồi anh ta chầm chậm đi lùi tới khi kịch tường buồng giam. Anh ta tựa lưng vào đó và trượt người xuống sàn. Gục đầu xuống gối. Tay buồng thõng. Tôi có thể nghe tiếng ngón tay cái run rẩy gõ trên nền thảm bằng nylon cứng. Roscoe ngồi ở bàn chằm chằm nhìn anh ta. Viên thượng sĩ ở quầy tiếp tân ngó sang. Họ đang nhìn một con người suy sụp.
Tôi nghe có lời qua tiếng lại trong căn phòng gỗ hồng sắc ở phía sau. Tiếng tranh cãi gay gắt. Tiếng bàn tay vỗ xuống bàn. Cửa mở và Stevenson bước ra cùng đồn trưởng Morrison. Stevenson trông như điên. Anh ta sải bước dọc theo lề của khoảng không gian rộng, cổ viên cảnh sát này cứng đờ vì giận dữ. Hai mắt anh ta như đóng đinh vào cửa trước. Stevenson đang phớt lờ lão béo đồn trưởng. Anh ta bước thẳng qua quầy tiếp tân, qua cánh cửa nặng nề ra bầu trời chiều đầy nắng. Morrison bước sau.
Baker ra khỏi phòng bước về phía buồng giam của tôi. Chẳng nói gì. Chỉ mở cửa làm hiệu cho tôi ra ngoài. Tôi kéo chiếc áo choàng sát vào thân và bỏ lại tờ báo có những bức ảnh lớn về lão tổng thống ở Pensacola. Bước ra rồi theo Baker trở lại căn phòng đầy đồ gỗ hồng sắc.
Finlay đang ngồi bên bàn. Chiếc đài ghi âm vẫn còn đó. Đám dây nguồn lòng thòng. Không khí vẫn tĩnh và lạnh. Finlay trông có vẻ căng thăng. Ca vát của viên thám tử được kéo xuống. Ông ta thở hắt ra một hơi chất chứa ân hận. Tôi ngồi xuống ghế và Finlay vẫy tay làm hiệu cho Baker ra khỏi phòng. Cánh cửa nhẹ nhàng khép lại sau lưng viên cảnh sát.
"Ở đây chúng tôi có một vụ, ông Reacher," Finlay nói. "Một vụ thực sự."
Ông ta rơi vào trạng thái im lặng đầy lo lắng. Nửa giờ nửa xe chở tù sẽ tới. Tôi muốn họ sớm có kết luận. Finlay ngước lên lấy lại tập trung. Bắt đầu nói, nhanh, với cú pháp lịch lãm của Harvard trong trạng thái chịu sức ép.
"Chúng tôi đưa anh chàng Hubble này tới đây, hiểu không?" đội trưởng thám tử nói. "Có thể ông đã trông thấy anh ta. Người làm ngành ngân hàng ở Atlanta, hiểu không? Bộ đồ hãng Calvin Klein giá cả ngàn đô. Đồng hồ Rolex vàng. Anh chàng rất căng thẳng. Ban đầu tôi nghĩ anh ta chỉ khó chịu. Ngay khi tôi bắt đầu nói là anh ta nhận ra giọng tôi. Từ cuộc gọi vào máy di động của anh ta. Tố cáo tôi có hành vi lừa dối. Nói rằng tôi không nên đóng vai người của công ty điện thoại. Tất nhiên là anh ta đúng."
Lại một lần nữa rơi vào im lặng. Finlay đang vật lộn với vấn đề đạo đức nghề nghiệp của mình.
'Thôi, ông Finlay, tiếp tục đi," tôi nói. Tôi có không đầy nửa tiếng.
''Được rồi, thế là anh ta căng thẳng và khó chịu," Finlay nói. Tôi hỏi anh ta biết ông hay không. Jack Reacher, cựu quân nhân. Anh ta bảo không. Chưa bao giờ nghe nhắc tới ông. Tôi tin Hubble. Anh ta bắt đầu thư thái. Như thể toàn bộ chuyện này liên quan tới một tay tên Jack Reacher.
Hubble chưa bao giờ nghe nhắc tới tay nào tên Jack Reacher, do vậy anh ta có mặt ở đây chẳng để làm gì. Anh ta thoải mái, hiểu không?''
"Tiếp đi," tôi bảo.
"Rồi tôi hỏi xem anh ta biết một người cao lớn đầu trọc không", Finlay nói. "Và hỏi anh ta về Pluribus. Ôi Chúa ơi! Cứ như thọc dao vào Hubble vậy. Anh ta cứng đờ người. Như bị sốc. Cứng đờ cả người. Không trả lời. Thế nên tôi bảo anh ta rằng người đàn ông cao lớn ấy đã chết. Bị bắn chết. Trời, như thể thêm một nhát dao nữa ấy. Thực tế là anh ta ngã bổ khỏi ghế."
'Tiếp đi," tôi nói. Còn hai mươi lăm phút nữa là xe tù tới.
"Hubble run hết cả người", Finlay nói. "Rồi tôi bảo anh ta rằng chúng tôi thấy số điện thoại giấu trong giày, số điện thoại của anh ta in trên một mẩu giấy, bên trên là từ 'Pluribus'. Đó là một nhát dao nữa",
Viên cảnh sát lại ngừng. Ông ta hết vỗ túi quần lại đến áo.
" Anh ta không nói gì," ông ta tiếp tục. "Không một từ nào. Hubble cứng đơ vì sốc. Mặt mũi xám ngoét cả. Lúc ấy tôi nghĩ anh ta lên cơn đau tim. Miệng anh ta ngáp như cá. Nhưng anh ta không nói gì. Thế nên tôi bảo Hubble rằng chúng tôi thấy cái xác bị đá nát. Tôi hỏi anh ta xem còn ai khác liên quan. Tôi bảo anh ta rằng chúng tôi thấy cái xác bị giấu dưới đống bìa cứng. Hubble không hé răng lấy một lời. Chỉ liên tục ngó quanh. Sau một lúc tôi nhận ra rằng anh ta đang suy nghĩ như điên, cố gắng quyết định phải nói với tôi những gì. Hubble chỉ giữ im lặng và suy nghĩ như điên, phải tới bốn chục phút. Cả quãng thời gian đó cuốn băng vẫn chạy. Ghi lại bốn mươi phút im lặng.
Finlay lại dừng. Lần này để tạo hiệu ứng. Ông ta nhìn tôi.
"Rồi anh ta thú nhận", đội trưởng thám tử nói. "Tôi đã làm việc ấy, anh ta bảo. Tôi đã bắn ông ấy, anh ta bảo. Tay này thú tội, hiểu không? Trên băng ghi lại như thế."
"Tiếp đi," tôi bảo.
"Tôi hỏi anh ta, anh cần luật sư không?" Finlay nói. "Anh ta bảo không, liên tục nhắc lại rằng anh ta đã giết người kia. Thế nên tôi truyền đạt cho Hubble lời cảnh báo Miranda, to và rõ, băng có ghi. Rồi ông biết không, tôi chợt nghĩ anh ta bị điên hay sao đó. Thế nên tôi hỏi anh ta đã giết người nào. Anh ta đáp rằng người đàn ông cao trọc đầu. Tôi hỏi anh ta giết như thế nào. Hubble trả lời là bắn vào đầu. Tôi hỏi khi nào. Anh ta nói rằng đêm qua, khoảng nửa đêm. Tôi hỏi anh ta kẻ nào đã đá cái xác lăn lông lốc. Nạn nhân là ai. Pluribus nghĩa là gì. Hubble không trả lời. Lại lần nữa cứng đờ người vì sợ hãi. Từ chối nói bất kỳ lời nào. Tôi bảo anh ta rằng tôi không chắc anh ta đã làm tất cả những chuyện đó. Anh ta nhảy dựng lên túm lấy tôi. Hubble hét lên, tôi thú nhận, tôi thú nhận tôi đã bắn ông ấy, tôi đã bắn ông ấy
. Tôi đẩy anh ta ra, anh ta im lặng."
Finlay ngồi thẳng lại. Hai bàn tay đan vào nhau sau đầu. Nhìn tôi băn khoăn. Hubble là kẻ bắn sao? Tôi không tin điều đó. Bởi sự khích động của anh ta. Những kẻ trong lúc đánh nhau hay trong cơn kích động dùng súng lục bắn bừa vào ngực đối thủ thì sau đó đều bị khích động. Còn kẻ nã hai phát vào đầu người ta bằng súng gắn thiết bị giảm thanh, rồi thu vỏ đạn lại là kiểu người khác. Sau khi hành động chúng không hề khích động. Chúng chỉ bỏ đi và quên chuyện ấy. Hubble không phải kẻ nổ súng. Kiểu anh ta đi nhún nhảy qua quầy tiếp tân đã chứng minh điều ấy. Nhưng tôi chỉ nhún vai và mỉm cười.
"Rồi," tôi nói. "Giờ thì ông có thể thả tôi, đúng không?"
Finlay nhìn tôi và lắc đầu.
"Sai", ông ta đáp. "Tôi không tin anh ta. Vụ này liên quan tới ba gã. Chính ông đã thuyết phục tôi tin điều đó. Vậy kẻ mà Hubble tự nhận là tên nào? Tôi không nghĩ anh ta là gã điên. Tôi không thấy anh ta có đủ sức mạnh làm việc ấy. Tôi không cho anh ta là kẻ sai vặt. Và dứt khoát anh ta không phải kẻ bắn, vì Chúa. Kẻ như thế không thể nổ súng được."
Tôi gật đầu. Như đồng sự của Finlay, cố gắng giải quyết một vấn đề.
"Bây giờ phải tống anh ta vào buồng giam", ông ta nói. "Không có lựa chọn nào. Anh ta đã thú tội, vài tình tiết có vẻ có sức thuyết phục. Nhưng xét kỹ thì sẽ thấy không thuyết phục."
Tôi gật đầu lần nữa. Linh cảm rằng sẽ còn có chuyện.
Finlay nhìn tôi. Cái nhìn lãnh đạm.
"Thậm chí lúc nửa đêm qua anh ta còn chẳng có mặt ở đó", đội trưởng thám tử nói. "Anh ta có mặt ở tiệc kỷ niệm ngày cưới của một đôi vợ chồng già. Sự kiện gia đình. Không xa nơi Hubble sống. Đến đó lúc tám giờ tối qua. Anh ta đi bộ tới cùng vợ. Hai giờ sáng nay mới rời khỏi đó. Hơn hai chục người trông thấy anh ta tới, chưa kể hai chục người nhìn thấy anh ta rời khỏi đó. Anh ta được anh rể của chị dâu anh ta đánh xe đưa về. Anh ta phải đi nhờ bởi lúc đó trời đã mưa như trút rồi."
"Tiếp đi, ông Finlay", tôi nói. "Hãy nói cho tôi nghe."
"Về anh rể của chị dâu anh ta à?" ông ta hỏi. "Người đánh xe đưa anh ta về nhà trong mưa, lúc hai giờ sáng hả? Là sĩ quan Stevenson."