Chương 3
-
Reacher báo thù
- Lee Child
- 4937 chữ
- 2020-05-09 04:18:53
Số từ: 4923
Dịch giả: Trần Quý Dương
C.ty Nhã Nam phát hành
NXB Thời Đại
Họ đưa tôi trở lại căn phòng toàn gỗ hồng sắc trong tình trạng hai tay vẫn bị còng. Finlay ngồi ở chiếc bàn lớn, phía trước những lá cờ và bên dưới chiếc đồng hồ cổ. Baker đặt một chiếc ghế ở đầu bàn. Tôi ngồi đối diện Finlay. Ông ta lấy ra chiếc đài ghi âm. Lôi dây nguồn ra. Đặt micro vào giữa chúng tôi. Gõ tay để kiểm tra. Tua băng lại. Sẵn sàng.
"Ông Reacher, hai mươi bốn giờ qua", đội trưởng thám tử nói. "Thuật lại một cách chi tiết",
Hai viên cảnh sát đang hăng hái với sự phấn khích bị dồn nén. Một vụ án khó tìm manh mối giờ đột nhiên trở nên rõ ràng. Niềm phấn khích chiến thắng đang bắt đầu bao trùm họ. Tôi đã nhận thấy có dấu hiệu như thế.
"Đêm qua tôi ở Tampa," tôi nói. "Lên xe buýt lúc nửa đêm. Các nhân chứng có thể xác nhận điều ấy. Lúc tám giờ sáng nay tôi xuống xe ở điểm giao giữa tỉnh lộ và quốc lộ. Nếu đồn trưởng Morrison nói rằng đã trông thấy tôi lúc nửa đêm, hẳn ông ta nhầm. Vào thời điểm đó tôi còn cách nơi này bốn trăm dặm. Tôi không thể bổ sung điều gì nữa. Xin cứ kiểm tra."
Finiay chằm chằm nhìn tôi. Rồi ông ta gật đầu ra hiệu cho Baker mở một tập hồ sơ bọc da mỏng.
"Chưa xác định được danh tính nạn nhân, Baker nói.
"Không giấy tờ tùy thân. Không ví. Không có các dấu hiệu nhận biết. Nam giới da trắng, tầm bốn mươi tuổi, rất cao, đầu cạo trọc. Thi thể được phát hiện lúc tám giờ sáng nay trên phần đất giáp với hàng rào phía ngoài, gần cổng chính. Một phần thi thể được phủ bằng bìa cứng. Chúng tôi có thể lấy dâu vân tay của nạn nhân. Kết quả tìm kiếm là không. Không khớp với dấu vân tay nào trong cơ sở dữ liệu."
"Người đó là ai, Reacher?" Finlay hỏi.
Baker chờ đợi phản ứng nào đó từ tôi. Ông ta không nhận được gì. Tôi chỉ ngồi yên lắng nghe tiếng tích tắc khe khẽ của chiếc đồng hồ cổ. Những cây kim đang bò dần tới vị trí 2 giờ 30. Tôi không lên tiếng. Baker lật tập hồ sơ chọn một trang khác. Ông ta liếc qua lần nữa rồi tiếp tục.
"Nạn nhân bị bắn hai phát vào đầu", viên cảnh sát nói. "Có lẽ là đạn từ một khẩu tự động cỡ nòng nhỏ có gắn thiết bị giảm thanh. Phát đầu tiên bắn ở tầm gần, vào thái dương trái, phát thứ hai dí sát, phía sau tai trái. Rõ ràng là đạn đầu mềm bởi đạn ra đã phá hỏng mặt nạn nhân. Mưa đã làm trôi hết phần thuốc súng dính trên da song kiểu da cháy chứng tỏ có thiết bị giảm thanh. Chắc chắn phát đạn đầu tiên khiến nạn nhân chết ngay. Không có đầu đạn nào nằm lại trong sọ. Không tìm thấy vỏ đạn nào."
"Khẩu súng ở đâu, ông Reacher?" Finlay lại hỏi.
Tôi nhìn ông ta và nhăn mặt. Chẳng nói gì.
"Nạn nhân chết trong khoảng thời gian từ 11 giờ 30 đêm qua tới một giờ sáng nay", Baker nói. "Lúc người gác đêm hết ca lúc 11 giờ 30 thì không thấy thi thể ở đó. Anh ta đã khẳng định điều ấy. Nó được phát hiện khi người gác ban ngày tới mở cổng. Lúc tám giờ. Anh ta đã trông thấy ông rời khỏi hiện trường và gọi điện báo cho chúng tôi."
"Ông ta là ai, ông Reacher?" Firday đặt câu hỏi lần nữa.
Tôi phớt lờ ông ta và nhìn Baker.
"Tại sao lại là trước một giờ?" tôi hỏi tay này.
"Cơn mưa lớn đêm qua bắt đầu lúc một giờ", viên cảnh sát đáp. "Phần vỉa hè bên dưới thi thể vẫn khô cong. Thế nên thi thể đã nằm trên mặt đất trước một giờ - khi trời bắt đầu mưa. Theo kết quả giám định pháp y thì nạn nhân bị bắn vào lúc nửa đêm",
Tôi gật đầu. Mỉm cười với hai cảnh sát. Thời điểm chết của nạn nhân sẽ giúp tôi thoát khỏi họ.
"Hãy nói cho chúng tôi điều gì xảy ra tiếp theo đó", Finlay nói, khẽ khàng.
Tôi nhún vai.
"Các ông nói cho tôi ấy," tôi bảo. "Tôi không ở đó. Lúc nửa đêm tôi đang ở Tampa."
Baker rướn người để rút ra một trang nữa từ tập hồ sơ.
"Điều xảy ra tiếp theo là ông trở nên kỳ quặc," ông ta nói. "Ông nổi điên lên."
Tôi lắc đầu với tay này.
"Tôi không ở đó lúc nửa đêm", tôi nhắc lại. "Khi ấy tôi đang lên xe buýt ở Tampa. Chuyện đó chẳng có gì kỳ quặc."
Hai viên cảnh sát không phản ứng gì. Họ trông thật khó chịu.
'Trước tiên ông bắn chết ông ấy," Baker nói. "Rồi ông bắn ông ấy phát nữa, rồi ông nổi điên và đá túi bụi vào cái xác. Có rất nhiều chấn thương nặng xuất hiện sau khi nạn nhân chết. Ông đã bắn ông ta rồi ông cố gắng đá nát người ông ta ra. Ông đã đá cái xác lăn khắp chỗ chết tiệt đó. Ông nổi cơn điên. Rồi ông bình tĩnh lại và cố giấu cái xác dưới đống bìa cứng."
Tôi im lặng một lúc lâu.
"Chấn thương sau khi chết à?" tôi hỏi.
Baker gật đầu.
"Như điên", ông ta nói. "Người đàn ông ấy trông như thể bị xe tải chèn qua ấy. Gần như mọi mảnh xương đều giập nát. Nhưng bác sĩ nói rằng điều đó xảy ra sau khi ông ấy chết. Ông là kẻ thật kỳ quặc, Reacher, điều đó thì chắc lắm rồi."
"Ông ta là ai?" Finlay hỏi lần thứ ba.
Tôi chỉ nhìn viên thám tử. Baker đã đúng. Chuyện đã trở nên kỳ quặc. Rất kỳ quặc. Điên cuồng dẫn tới án mạng đã đủ tệ hại. Nhưng cơn điên nổi lên sau khi xảy ra án mạng còn tệ hơn. Tôi đã tình cờ gặp tình trạng này vài lần. Không muốn tình cờ gặp thêm chút nào nữa. Nhưng theo cách họ mô tả cho tôi thì nghe không hợp lý gì cả.
"Ông đã gặp người đàn ông đó như thế nào?" Finlay cật vấn.
Tôi tiếp tục chỉ nhìn ông ta. Không trả lời.
"Pluribus nghĩa là gì?" đội trưởng thám tử lại hỏi.
"Tôi đã không ở đó," tôi nói. "Tôi chẳng biết gì cả."
Finlay im lặng.
"Số điện thoại của ông là gì?" ông ta hỏi. Một cách đột ngột.
Tôi nhìn viên thám tử cứ như ông ta bị điên.
"Finlay, ông đang nói cái quái gì thế?" tôi hỏi lại. "Tôi không có điện thoại. Ông không nghe à? Tôi chẳng định cư ở đâu cả."
"Ý tôi hỏi điện thoại di động," ông ta bảo.
"Điện thoại di động nào?" tôi nói. "Tôi không có điện thoại di động."
Cảm giác sợ hãi ập đến tôi. Họ cho rằng tôi là một tay sát thủ chuyên nghiệp. Một gã lang thang khát tiền lập dị cùng chiếc điện thoại di động chuyên giết người. Đá thi thể họ giập nát. Liên hệ với tổ chức ngầm của mình để biết mục tiêu tiếp theo. Luôn luôn di chuyển.
Finlay chúi người. Ông ta đẩy một mẩu giấy về phía tôi. Đó là một mẩu giấy xé ra từ giấy in. Không cũ. Tờ giấy đã sờn bóng. Kiểu bóng ở loại giấy nằm trong túi quần áo một tháng. Trên giấy in một chữ được gạch chân. Chữ
Pluribus. Bên dưới là một số điện thoại. Tôi nhìn tờ giấy. Không chạm vào nó. Không muốn bất kỳ sự nhầm lẫn nào liên quan tới vân tay.
"Đó là số điện thoại của ông hả?" Finlay hỏi.
'Tôi không có điện thoại," tôi nhắc lại lần nữa. "Đêm qua tôi không ở đây. Càng làm phiền tôi là ông càng phí thời gian đấy, ông Finlay."
"Đó là số điện thoại di động," viên cảnh sát nói. "Chúng tôi biết điều đó. Thuộc mạng của một nhà cung cấp ở Atlanta. Nhưng phải đến thứ Hai chúng tôi mới có thể xác minh số này. Thế nên chúng tôi hỏi ông. Ông nên hợp tác, Reacher."
Tôi nhìn mẩu giấy một lần nữa.
"Thứ này xuất hiện ở đâu?" tôi hỏi Firtlay.
Viên thám tử cân nhắc câu hỏi. Quyết định trả lời.
"Nó nằm trong giày của nạn nhân", ông ta nói. "Được gập lại và giấu kín."
Tôi ngồi im lặng một lúc lâu. Tôi thấy lo lắng. Cảm thấy mình giống một nhân vật bị rơi xuống hố trong truyện của bọn trẻ. Nhận thấy mình trong một thế giới lạ mà mọi thứ đều khác và kỳ lạ. Như Alice trong Xứ sở thần tiên. Cô bé có ngã xuống hố không nhỉ? Hay cô đã xuống xe buýt của hãng Greyhound ở một điểm không phù hợp?
Tôi đang ở trong một căn phòng sang trọng và đầy đủ. Tôi thấy văn phòng trong các ngân hàng Thụy Sĩ còn chả được như thế này. Tôi đang ở cùng hai cảnh sát. Thông minh và chuyên nghiệp. Có lẽ hai người có tổng cộng hơn ba mươi năm kinh nghiệm. Một cơ quan cảnh sát đủ độ chín và đầy năng lực. Được sắp xếp nhân sự phù hợp và có ngân sách dồi dào. Có một điểm yếu là tên khốn Morrison ở trên đỉnh song như tôi đã thấy trong một thời gian thì đây vẫn là một tổ chức tốt. Nhưng họ đang đâm đầu vào ngõ cụt. Có vẻ họ tin
rằng trái đất phẳng. Rằng bầu trời bang Georgia khổng lồ là một chiếc bát úp vừa khít bên trên. Tôi là kẻ duy nhất biết rằng trái đất tròn.
"Có hai điều", tôi cất tiếng. "Người đàn ông bị bắn vào đầu ở tầm gần bằng vũ khí tự động có thiết bị giảm thanh. Phát đầu tiên làm ông ấy chết. Phát thứ hai nhằm đảm bảo chắc chắn điều đó. vỏ đạn biến mất. Điều đó có ý nghĩa thế nào với các ông? Xét về mặt chuyên môn ấy?"
Finlay chẳng nói gì. Nghi phạm chính của viên thám tử này đang bàn về vụ án với ông ta như một đồng nghiệp. Với tư cách một điều tra viên, ông ta không nên cho phép điều đó. Ông ta nên ngắt lời tôi. Nhưng đội trưởng thám tử muốn nghe ý kiến của tôi. Tôi có thể thấy ông ta đang đấu tranh với bản thân. Cả người Finlay không động đậy nhưng đầu óc đang vật lộn như một con mèo bị nhốt trong bao.
"Tiếp đi," rốt cuộc viên cảnh sát lên tiếng. Đầy nghiêm nghị, như thể đây là một quyết định quan trọng.
"Đó là một vụ hành quyết, ông Finlay," tôi nhận xét. "Không phải vụ cướp hay cãi lộn. Đó là vụ giết người lạnh lùng, không thể hiện chút cảm xúc nào. Không để lại bằng chứng nào. Đó là một gã khôn ngoan, sau khi ra tay thì cầm đèn pin lần tìm hai vỏ đạn cỡ nhỏ",
"Tiếp đi," Finlay lại nói.
"Phát bắn tầm gần vào thái dương trái", tôi nói. "Có thể nạn nhân đang ở trong xe hơi. Khi ấy kẻ bắn đang nói chuyện với nạn nhân qua cửa sổ xe thì giơ súng lên. Bùm. Hắn ngả người vào phía trong bắn phát thứ hai. Rồi hắn nhặt hai vỏ đạn và rời khỏi hiện trường."
"Hắn rời hiện trường à?" Finlay nói. "Vậy những thứ còn lại đổ xuống thì sao? Ông đang cho là có kẻ thứ hai à?"
Tôi lắc đầu.
"Có ba tên", tôi nói. "Điều đó thì rõ, đúng không?"
"Tại sao là ba?" viên thám tử hỏi.
"Thực tế là phải có ít nhất hai tên, đúng không?" tôi nói. "Nạn nhân tới khu nhà kho đó bằng cách nào? Ông ta lái xe, đúng chứ? Dù xuất phát từ đâu thì tới đó cũng quá xa, không thể đi bộ. Vậy bây giờ xe của ông ấy đâu? Hung thủ cũng không cuốc bộ tới đó. Thế nên thực tế phải có một nhóm tối thiểu hai tên. Chúng cùng nhau chạy xe tới và sau đó ra đi trên hai xe riêng rẽ, một trong hai tên chạy xe của nạn nhân."
"Nhưng sao?" Finlay nói.
"Nhưng dấu vết thực tế cho thấy có ít nhất ba tên," tôi đáp. "Hãy nghĩ về điều đó từ khía cạnh tâm lý học. Đó là vấn đề mấu chốt đối với chuyện này. Một tên sử dụng súng tự động cỡ đạn nhỏ có thiết bị giảm thanh để bắn một phát gọn vào đầu nạn nhân và một phát để đảm bảo kết quả không phải loại người đột nhiên nổi cơn điên và đá nát thi thể nạn nhân, đúng không? Và loại người điên loạn như thế sẽ không đột nhiên bình tĩnh lại giấu xác nạn nhân dưới đống bìa cứng. Các ông đang chứng kiến ba sự việc hoàn toàn riêng rẽ diễn ra ở đó, Finlay. Thế nên có ba gã liên quan tới vụ việc."
Finlay nhún vai với tôi.
"Có thể là hai", viên cảnh sát nói. "Có thể sau đó kẻ bắn đã dọn dẹp hiện trường."
"Không thể", tôi nói. "Sẽ không có chuyện hắn chờ đợi. Hắn không thích kiểu điên loạn kia. Tình trạng đó sẽ khiến hắn bối rối. Và sẽ làm hắn lo ngại bởi nó làm tăng khả năng bại lộ cũng như nguy cơ đối với toàn bộ vụ việc. Với một kẻ như thế, nếu như sau đó có dọn dẹp hiện trường thì hắn đã làm gọn ghẽ đâu ra đấy. Không đời nào hắn để lại cái xác ở nơi người gác đầu tiên phát hiện ra. Thế nên các ông đang tìm ba gã."
Finlay suy nghĩ rất lung.
"Vậy thì sao?" ông ta hỏi.
"Thế thì tôi bị coi là kẻ nào?" tôi nói. "Kẻ bắn, tên điên hay thằng đần giấu cái xác?"
Finlay và Baker nhìn nhau. Không trả lời tôi.
"Dù tôi là kẻ nào đi nữa, thì các ông đang tưởng tượng ra cái gì đây?" tôi chất vấn. "Tôi đánh xe tới đó cùng hai đồng bọn, lúc nửa đêm chúng tôi giết người đàn ông đó, và rồi hai đồng bọn của tôi lái xe đi còn tôi chọn ở lại đó à? Tại sao tôi làm thế? Thật vớ vẩn, ông Finlay",
Đội trưởng thám tử không nói gì. Ông ta đang suy nghĩ.
"Tôi không có hai đồng bọn", tôi nói. "Hoặc có xe. Thế nên tốt nhất các ông nên lập luận là nạn nhân đã cuốc bộ tới đó, tôi đi bộ tới đó. Tôi gặp ông ấy, tôi bắn ông ấy một cách rất cẩn thận, như một sát thủ chuyên nghiệp, rồi lấy lại hai vỏ đạn, lấy ví của ông ấy, lấy sạch đồ trong các túi quần áo của nạn nhân nhưng lại quên lục giày ông ấy. Rồi tôi thay đổi hoàn toàn tâm tính và đá như một thằng điên cho cái xác nát ra. Rồi một lần nữa tôi thay đổi hoàn toàn tâm tính và giấu cái xác bằng một nỗ lực vô ích. Và rồi tôi chờ tám tiếng đồng hồ trong mưa và cuốc bộ vào thị trấn. Đó là cách tốt nhất các ông có thể lập luận. Và hoàn toàn nhảm nhí, ông Finlay. Bởi việc quái gì tôi lại đợi tám tiếng trong mưa cho tới khi trời sáng để cuốc bộ rời khỏi hiện trường án mạng?"
Finlay nhìn tôi một lúc lâu.
"Tôi không hiểu vì sao?" ông ta đáp.
Một người như Finlay không nói điều như thế trừ phi ông ta đang đấu tranh. Ông ta trông mất tự tin. Vụ án của viên thám tử này hoàn toàn vớ vẩn, ông ta biết điều ấy. Nhưng Finlay gặp phải vấn đề nghiêm trọng với bằng chứng mới của viên đồn trưởng. Ông ta không thể bước tới sếp của mình và nói: anh toàn nói vớ vẩn, Morrison. Đội trưởng thám tử không thể chủ động tìm kiếm kẻ khác một khi sếp ông ta đã đặt một nghi phạm lên đĩa. Finlay có thể xác minh kỹ hơn bằng chứng ngoại phạm của tôi. Ông ta có thể làm điều ấy. Không ai chỉ trích viên thám tử vì tính cẩn thận. Rồi đến thứ Hai ông ta có thể bắt đầu lại. Thế nên Finlay khổ sở bởi sẽ có bảy mươi hai giờ bị lãng phí. Và ông ta có thể thấy trước một rắc rối lớn. Ông ta phải nói với sếp của mình rằng trên thực tế không thể có chuyện tôi đã ở đó lúc nửa đêm hôm qua. Finlay sẽ phải khéo léo dụ để lão béo rút lại nhận định của mình. Đó là điều khó thực hiện khi ta là một tay cứng đầu mới làm việc được sáu tháng. Và khi kẻ ta phải giải trình thực sự là một tên khốn kiếp. Và lại là sếp ta. Khó khăn đang đổ lên đầu Finlay, ông ta khổ sở về chuyện ấy như chết đến nơi. Viên thám tử ngồi yên, thở gấp. Đầy khổ sở. Đã đến lúc giúp ông ta thoát ra.
"Số điện thoại," tôi nói. "Các ông đã xác định nó là số di động à?"
"Thông qua mã," Finlay đáp. "Thay vì dùng mã vùng, người ta dùng một con số ở đầu để kết nối với mạng di động." .
"Được rồi", tôi nói. "Nhưng các ông không thể xác định số điện thoại đó thuộc về ai bởi các ông không có danh bạ tra ngược dành cho số di động và công ty dịch vụ sẽ không công bố cho các ông biết, đúng không?"
"Họ cần có lệnh bắt", viên thám tử đáp.
"Nhưng các ông cần biết đó là số điện thoại của ai phải không?" tôi hỏi.
"Ông biết cách thực hiện việc đó mà không cần dùng tới lệnh bắt hả?" Finlay hỏi.
"Có thể," tôi nói. "Tại sao ông không thử gọi số đó xem ai nghe máy chứ?"
Họ đã không nghĩ đến chuyện đó. Lại im lặng. Họ bối rối. Họ không muốn nhìn nhau. Hoặc nhìn tôi. Im lặng.
Baker lảng tránh sự vụ. Để bóng trong chân Finlay. Ông ta thu chỗ hồ sơ lại và làm hiệu ra ngoài để xử lý chúng. Finlay gật đầu vẫy tay bảo Baker ra. Baker đứng dậy đi ra. Thực tế là còn đóng cửa rất khẽ. Finlay mở miệng. Rồi lại khép vào. Ông ta cần giữ thể diện một chút. Muốn lắm.
"Đổ là số di động", đội trưởng thám tử nói. "Nếu tôi gọi số ấy, tôi không thể biết đó là số của ai hay đang ở đâu."
"Nghe này, ông Finlay," tôi nói. "Tôi chẳng quan tâm đó là số của ai. Tất cả những gì tôi quan tâm là nó không phải số của tôi. Hiểu ý tôi chứ? Nó không phải số điện thoại của tôi. Thế nên hãy gọi số đó và John Doe ở Atlanta hay Jane Doe ở Charleston bắt máy. Rồi ông sẽ biết đó không phải số điện thoại của tôi",
Finlay chăm chăm nhìn tôi. Gõ ngón tay xuống bàn. Im lặng.
"Ông biết cách làm việc này thế nào," tôi nói. "Gọi vào số đó, bịa câu chuyện vớ vẩn nào đó về một lỗi kỹ thuật hay hóa đơn chưa thanh toán, vấn đề gì đó liên quan tới máy tính, bảo người đó xác nhận tên và địa chỉ. Hãy làm đi, Finlay, hẳn ông là một thám tử ra trò đấy",
Viên cảnh sát rướn người tới chỗ đã để mẩu giấy ghi số điện thoại. Dùng các ngón tay dài màu nâu kéo về. Xoay lại để đọc, rồi nhấc điện thoại lên. Bấm số. Bấm phím mở loa ngoài. Nhạc chờ vang lên. Không phải âm đơn sắc dài như điện thoại bàn mà là âm thanh điện tử cao, gấp. Nhạc ngừng lại. Cuộc gọi được kết nối.
"Paul Hubble đây," một giọng nói vang lên. "Tôi có thể giúp gì được đây?"
Giọng miền Nam. Phong cách tự tin. Quen với việc sử dụng điện thoại.
"Ông Hubble phải không?" Finlay hỏi. Ông ta nhìn xuống bàn và ghi lại cái tên. "Chúc ông có buổi chiều vui vẻ. Đây là công ty điện thoại, bộ phận di động. Tôi là giám đốc kỹ thuật. Chúng tôi nhận được thông báo về lỗi xuất hiện ở số điện thoại của ông",
"Lỗi à?" giọng kia nói. "Tôi thấy có vẻ ổn. Tôi không thông báo lỗi mà."
"Gọi đi thì ổn," Finlay nói."Việc gọi đến cho ông có thể gặp trục trặc. Ngay lúc này chúng tôi đang kết nối thiết bị đo cường độ tín hiệu, và thực ra nó đang báo là hơi thấp, thưa ông.
'Tôi có thể nghe rõ ông nói", giọng kia bảo.
"A lô?" Finlay nói. 'Tôi nghe không rõ lắm, ông Hubble. A lô? Nếu tôi biết được vị trí chính xác điện thoại của ông vào lúc này thì sẽ tốt cho tôi, thưa ông, ông biết đấy, vì có liên quan tới các trạm phát sóng của chúng tôi",
"Tôi đang ở ngay nhà thôi", đầu dây bên kia trả lời.
"Vâng," Finlay nói. Ông ta cầm bút lên lần nữa. "Ông có thể khẳng định địa chỉ chính xác cho tôi được không?"
"Các ông không có địa chỉ của tôi à?" giọng kia hỏi. Kiểu đùa giữa cánh đàn ông với nhau. "Hình như tháng nào các ông cũng cố gửi được cho tôi một hóa đơn đấy."
Finlay liếc tôi. Tôi mỉm cười với ông ta. Viên thám tử nhăn mặt.
"Ngay lúc này tôi đang ở phòng kỹ thuật, thưa ông", ông ta nói. Cũng đùa. Chỉ giữa hai người bình thường đánh vật với công nghệ. "Thông tin chi tiết về khách hàng nằm ở một phòng khác. Tôi có thể truy nhập dữ liệu đó nhưng sẽ mất một phút, ông biết thế nào mà. Mà thưa ông, dù gì thì ông cũng phải tiếp tục nói trong khi thiết bị đo này đang kết nối để cho tôi biết chính xác kết quả đo, ông biết chứ? Ông có thể đọc địa chỉ của mình, trừ phi ông có một bài thơ yêu thích hay bất kỳ thứ gì đó khác."
Chiếc loa bé xíu truyền lại tiếng cười của vị khách hàng tên Hubble.
"Được rồi, bắt đầu đây, kiểm tra, kiểm tra", giọng anh ta cất lên. "Đây là Paul Hubble, ở ngay tại nhà, là số 25 Beckman Drive, tôi nói lại lần nữa, 0-2-5 Beckman Drive, ngay ở thị trấn nhỏ cổ kính Margrave này, đó là M-A-R-G-R-A-V-E nằm ở bang Georgia, Mỹ. Cường độ tín hiệu của tôi thế nào?"
Finlay không trả lời. Ông ta trông rất lo lắng.
"A lô?" giọng kia hỏi. "Ông vẫn ở đó chứ?"
"Vâng, thưa ông Hubble," Finlay trả lời. "Tôi vẫn ở đây. Không phát hiện ra trục trặc nào, thưa ông. Tôi đoán đó chỉ là thông báo sai. Cảm ơn sự giúp đỡ của ông",
"OK", người tên Hubble nói. "Không có gì."
Kết nối chấm dứt và chuông quay số lại lan ra khắp phòng. Finlay đặt máy xuống. Ngả người ra sau nhìn lên trần. Tự nói với mình.
"Khốn nạn", ông ta nói. "Ngay trong thị trấn. Tay Paul Hubble này là kẻ quái quỷ nào nhỉ?"
"Ông không biết người đó à?" tôi hỏi.
Đội trưởng thám tử nhìn tôi. Hơi ân hận. Kiểu như ông ta đã quên là tôi đang có mặt ở đây.
"Tôi mới ở đây được sáu tháng," ông ta nói. "Sao tôi biết tất cả mọi người được."
Ông ta rướn người bấm nút đàm thoại nội bộ trên chiếc bàn gỗ hồng sắc. Gọi Baker trở lại phòng.
"Anh đã bao giờ nghe nói tới tay nào tên là Paul Hubble chưa?" Finlay hỏi ông ta. "Paul Hubble, sống trong thị trấn này, số 25 Beckman Drive ấy?"
"Paul Hubble à?" Baker nói. "Chắc chắn có. Anh ta sống ở đây, như ông nói, luôn ở đây. Mẫu người của gia đình. Stevenson biết anh ta, dạng anh em rể hay gì đó. Tôi nghĩ họ cũng thân thiết đấy. Có đi chơi bowling với nhau. Hubble làm ngành ngân hàng. Dạng làm về tài chính, ông biết đấy, một dạng giám đốc điều hành có cỡ làm việc ở Atlanta. Cho một ngân hàng lớn ở đó. Thi thoảng tôi thấy anh ta quanh đây",
Finlay nhìn Baker.
"Anh ta là người bắt máy khi gọi theo số này," ông ta nói.
"Hubble à?" Baker hỏi. "Ngay tại Margrave này à? Quả là chuyện lạ đời thật."
Finlay xoay trở lại phía tôi.
"Tôi cho là ông sắp nói rằng ông chưa bao giờ nghe nói tới tay này phải không?"
"Chưa bao giờ nghe nói tới anh ta," tôi đáp.
Đội trưởng thám tử quắc mắt với tôi rất nhanh. Rồi quay lại phía Baker.
"Anh nên đi thỉnh tay Hubble này tới đây
, ông ta nói. "25 Beckman Drive. Chỉ có Chúa mới biết anh ta liên quan thế nào, nhưng chúng ta nên nói chuyện với anh ta. Hãy nhẹ nhàng với Hubble, anh biết đấy, có lẽ anh ta là một người đáng được tôn trọng."
Finlay quắc mắt với tôi lần nữa và rời khỏi phòng. Đóng sầm cánh cửa nặng nề. Baker vươn người tắt chiếc đài ghi âm. Giải tôi khỏi phòng. Trở về buồng giam. Tôi bước vào. Ông ta theo sau và tháo còng tay. Móc trở lại thắt lưng. Bước trở ra rồi đóng cửa. Vặn khóa. Những chiếc chốt điện xoay về chỗ cũ. Baker bước đi.
"Này ông Baker," tôi gọi.
Ông ta xoay người bước lại. Nhìn một cách lãnh đạm. Không thân thiện.
"Tôi muốn chút gì đó để ăn," tôi bảo. "Và cả cà phê."
"Ông sẽ ăn tại cơ sở của bang," ông ta nói. "Xe vận chuyển sẽ tới lúc sáu giờ."
Viên cảnh sát bước đi. Ông ta phải đi đưa Hubble về. Ông ta sẽ rón rén tới bên Hubble với vẻ có lỗi. Đề nghị anh ta tới đồn cảnh sát, nơi anh ta sẽ được Firday tiếp đón nhã nhặn. Trong khi tôi đứng trong buồng giam, Finlay sẽ lịch sự hỏi Hubble tại sao người ta tìm thấy số điện thoại của anh ta trong giày một người đàn ông đã chết.
Chiếc áo khoác của tôi vẫn cuộn trên sàn buồng giam. Tôi giũ ra mặc vào. Tôi lại thấy lạnh. Thọc hai tay vào túi. Tựa người vào chấn song và cố gắng đọc hết tờ báo lần nữa, chỉ để giết thời gian. Nhưng tôi chẳng tiếp nhận được gì. Tôi đang mải nghĩ tới kẻ đã đứng quan sát đồng bọn của mình bắn vào đầu một người. Kẻ đã túm lấy cái xác đang co giật và đá nó lăn khắp mặt đất. Kẻ đã sử dụng đủ sức mạnh của cơn điên giận để làm nát mọi chiếc xương trên cơ thể người đã chết. Tôi đứng suy nghĩ về những chuyện tôi cho là mình chẳng còn liên quan gì. Những chuyện tôi không muốn nghĩ tới thêm chút nào nữa. Thế nên tôi ném tờ báo xuống thảm và cố gắng nghĩ về chuyện khác.
Tôi phát hiện ra rằng nếu dựa vào góc xa ở mặt trước buồng giam thì sẽ nhìn thấy toàn bộ khu vực thoáng. Tôi có thể phóng mắt qua quầy tiếp tân và nhìn ra ngoài qua các cửa kính dày. Bên ngoài, mặt trời buổi chiều gay gắt nóng. Nơi này lại trông như một chốn khô hạn bụi bặm. Cơn mưa nặng hạt đã rời khỏi đây. Trong phòng mát mẻ sáng ánh đèn huỳnh quang. Viên thượng sĩ làm văn phòng ngồi thẳng trên ghế. Ông ta đang gõ bàn phím. Có lẽ đang lập hồ sơ. Tôi có thể trông thấy phía sau quầy của ông này. Phía dưới là các khoảng không gian được thiết kế để từ mặt trước không nhìn thấy được. Các khoang gọn gàng chứa giấy tờ và các cặp hồ sơ gáy cứng. Có những chỗ để bình xịt hơi cay. Một khẩu súng trường. Các nút báo động. Phía sau viên thượng sĩ, người phụ nữ mặc sắc phục đã lấy vân tay tôi đang bận việc. Làm việc trên bàn phím. Căn phòng lớn tưởng như yên tĩnh vẫn rì rầm với nhịp độ của hoạt động điều tra.