Chương 2
-
Ruồi Trâu
- Ethel Lilian Voynich
- 9721 chữ
- 2020-05-09 02:35:04
Số từ: 9732
Dịch giả: Hà Ngọc
NXB Văn Học
Ý của người em cùng cha khác mẹ muốn cùng với Môngtaneli
dạo chơi Thuỵ Sĩ
chẳng làm cho Giêmxơ Bớctơn hài lòng chút nào. Nhưng ông cấm đoán sao được khi cuộc du chơi ấy là một cuộc du chơi vô hại mà bạn đường là một vị giáo sư thần học, vả lại còn để nghiên cứu về vạn vật học nữa. Áctơ sẽ không hiểu được những nguyên nhân sâu xa vì sao ông từ chối và có thể cho ông là độc đoán, cực đoan, cho ông là thành kiến về tôn giáo hoặc chủng tộc mà họ hàng nhà Bớctơn thì lại rất tự hào về đức tính rộng lượng tân tiến của mình. Mọi người trong họ đều là người gốc đạo Tin lành và những nhà Bảo thủ trung kiên từ hơn một thế kỉ nay, kể từ khi công ty thương thuyền
Bớctơn và con, Luân Đôn – Livoócnô
ra đời.
Nhưng họ hàng nhà Bớctơn chủ trương rằng người quý phái nước Anh phải có thái độ vô tư cả với những người theo đạo Thiên chúa, một giáo mẫu xinh đẹp của những đứa con nhỏ của mình, thì những đứa con lớn như Giêmxơ và Tômatxơ cũng chỉ đành nuốt giận mà tuân theo ý trời, vì thực ra họ không chịu nổi việc mẹ kế của họ chỉ xấp xỉ tuổi họ.
Sau khi người cha mất, và nhất là sau khi người con cả lấy vợ thì không khí nặng nề trong gia đình lại càng rắc rối thêm. Nhưng khi Gơlêđixơ còn sống thì cả hai người anh cũng cố hết sức bênh vực bà, chống lại miệng lưỡi độc ác của Giuli. Họ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của họ đối với Áctơ. Họ không thích cậu bé và cũng không giấu điều đó. Tất cả tình cảm của họ đối với em trai chỉ là đưa nhiều tiền cho em tiêu vặt và để cho em phóng khoáng tự do.
Trả lời bức thư của Áctơ là một ngân phiếu để chi tiền đi đường và dăm câu nói nhạt nhẽo, cho phép Áctơ muốn đi nghỉ hè đâu thì đi. Áctơ trích một nửa số tiền thừa để mua các sách vạn vật học và một số cặp bìa để đựng các vật mẫu, rồi chẳng bao lâu cùng các vị linh mục lên đường bắt đầu cuộc du lịch đầu tiên trên dãy núi Anpơ.
Từ lâu Áctơ chưa bao giờ thấy cha nhẹ nhõm như những ngày ấy. Sau câu chuyện làm cho Môngtaneli xúc động lần đầu tiên trong khu vườn hôm nọ, đến nay sự thăng bằng đã dần dần trở lại và bây giờ Môngtaneli đã bình tĩnh trước chuyện đó. Môngtaneli cho rằng Áctơ còn non dại lắm. Quyết định của Áctơ chắc chưa phải là đã dứt khoát. Cũng chưa đến nỗi muộn. Với những lời khuyên bảo nhẹ nhàng và những lí lẽ đúng mức còn có thể làm cho Áctơ quay lại, rời bỏ con đường mà Áctơ vừa mới bước chân vào.
Họ định ở Giơnevơ vài hôm. Nhưng khi Áctơ vừa trông thấy những đường phố chói nắng và những đám người du lịch đứng đầy trên các nẻo đường bụi bặm ven hồ, thì anh nhăn nhó ngay. Môngtaneli theo dõi thái độ của Áctơ với một nụ cười bình tĩnh.
- Sao? Con không thích nơi này ư, carino?
- Chính con cũng không biết nói thế nào nữa. Con vẫn chờ đợi được nhìn một khung cảnh khác hẳn như thế này, kể ra thì cảnh hồ rất đẹp và đồi núi cũng xinh tươi đấy... – Họ đứng trên đảo Rútxô (1), và Áctơ đưa tay chỉ lên những nét dài và khắc khổ của rặng núi Anpơ Xavoa...
– Nhưng thành phố thì câu nệ và vuông vắn quá, như đượm một vẻ gì… của đạo Tin lành. Nó có vẻ tự mãn. Không, con không ưa thành phố này, nó giông giống như Giuli vậy.
Môngtaneli bật cười:
- Thật không may, con đáng thương của cha! Nhưng không hề gì, ta đi du lịch chỉ để tìm thú vui mà thôi, cũng chả cần ở đây lâu. Thôi, hôm nay ta hãy dạo thuyền buồm chơi trên hồ, và sáng mai ta sẽ lên núi.
- Nhưng thưa cha, chắc cha còn muốn ở đây chơi?
- Con yêu quý, cha đã từng qua đây hàng chục lần rồi. Cha chỉ cốt sao cho con được vui trong cuộc đi chơi này với cha. Thế con muốn đi chơi đâu?
- Nếu cha đi đâu cũng được thì con và cha sẽ đi ngược dòng sông , đi tới tận nguồn!
- Đi ngược dòng sông Rôn ấy ư?
- Không, ngược sông Ácvơ. Sông ấy chảy xiết lắm.
- Thế ta đi Samôni vậy.
Suốt buổi chiều họ lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Những người thanh niên vẫn thích dòng sông Ácvơ xám đục hơn là cảnh hồ mĩ lệ. Áctơ lớn lên bên bờ Địa Trung Hải nên đã quen nhìn những làn sóng biếc xanh. Những dòng sông nước chảy xiết bao giờ cũng lôi cuốn tâm hồn Áctơ và vì thế, dòng nước cuồn cuộn của sông Ácvơ từ vùng băng giá chảy về làm anh say mê hết sức.
Áctơ nói:
- Thế này mới thật là sông chứ. Chảy như thế này mới thật say mê!
Sáng sớm hôm sau, họ lên đường đi Samôni. Con đường chạy qua một thung lũng phì nhiêu. Nhìn cảnh vật chung quanh, Áctơ cảm thấy lòng mình phơi phới. Nhưng gần tới Cờluydơ thì họ phải ngoặt vào một quãng đường núi quanh co. Những ngọn núi lớn hình răng cưa vây chặt lấy họ. Áctơ trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm. Từ Xanh Máctanh họ chầm chậm leo đèo. Họ nghỉ đêm trong những mái nhà gỗ ven đường hoặc ở những xóm làng nhỏ bé rồi lại tiếp tục lên đườn, không bó mình theo một hành trình nhất định. Cảnh thiên nhiên của vùng núi Anpơ để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí Áctơ, và khi gặp con thác đầu tiên anh đã cảm thấy rộn ràng vui sướng. Nhưng càng tới gần những ngọn núi tuyết bao nhiêu thì Áctơ càng trở nên say sưa mơ mộng bấy nhiêu. Tâm trạng này của Áctơ, Môngtaneli mới thấy lần này là lần đầu tiên. Hình như giữa chàng thanh niên và những ngọn núi này có một sợi dây liên lạc thần bí nào. Áctơ có thể yên lặng hàng giờ giữa tiếng âm vang của nhưng cây thông âm u, bí ẩn, đưa mắt theo dõi những thân cây cao thẳng mà nhìn vào thế giới chan hoà ánh nắng đang nhuộm vàng những ngọn núi sáng long lanh và những vách đá trơ trụi. Môngtaneli theo dõi Áctơ một cách buồn rầu, thèm muốn.
Một hôm Áctơ đã nằm hơn một tiếng đồng hồ trên mặt đất đầy rêu, mở to mắt chăm chú nhìn mãi những ngọn núi cao óng ánh và khoảng trời xanh thăm thẳm. Môngtaneli bèn rời trang sách, nhìn Áctơ mà hỏi:
- Cha muốn biết con trông thấy cái gì ở đó, carino?
Họ định nghỉ đêm trong một xóm làng tĩnh mịch cách thác nước Điôdơ không xa, nên đến chiều họ không đi theo đường lớn mà leo lên mỏm núi mọc đầy thông để ngắm cảnh hoang hôn buông dần trên nhưng ngọn núi lô nhô và trên đỉnh Mông Bờlăng. Áctơ ngẩng đầu say sưa nhìn khung cảnh huyền ảo trước mặt và trả lời Môngtaneli:
- Con trông thấy gì ư, thưa cha? Con tưởng như nhìn thấy qua một bức màn pha lê sẫm một sinh linh vĩ đại mặc quần áo trắng trên khoảng không gian xanh thẳm vô cùng tận ấy. Bao thế kỉ nay, sinh linh ấy đã chờ đợi ơn thiêng liêng của Chúa soi sáng cho.
Môngtaneli thở dài.
- Xưa kia cha cũng đã từng thấy những cảnh tượng như con nói.
- Thế hiện nay?
- Nay thì không. Không bao giờ cha còn thấy những cảnh tượng như thế nữa. Cha biết rằng những cảnh tượng ấy chưa biến mất, nhưng đối với những cảnh tượng ấy mắt cha đã nhắm lại không còn nhìn thấy nữa rồi. Bây giờ cha nhìn thấy những cảnh tượng khác hẳn.
- Vậy cha nhìn thấy gì?
- Nhìn thấy gì ư, carino? Trên cao cha nhìn thấy khoảng trời xanh và đỉnh núi tuyết trắng xoá, nhưng ở dưới kia cha nhìn thấy một cảnh khác hẳn thế – Môngtaneli chỉ tay xuống dưới chân đèo.
Áctơ quỳ gối cúi người trên bờ vực nhìn xuống những cây thông to lớn thu mình dưới ánh hoàng hôn, đứng thẳng tắp trên các bờ sông như những người lính gác. Một lát sau, mặt trời đỏ như cục than hồng đã khuất mình sau mỏm đá lô nhô và mọi vật như ngừng đọng lại và mờ mịt cả. Một cái gì đen tối, dữ tợn trùm lên khắp thung lũng. Những mỏm đá lô nhô ở phía tây mọc thẳng lên trời như những chiếc vuốt nhọn của một hung thần sắp sửa nhảy xuống vồ mồi mà đem xuống cửa miếng há hốc của vực thẳm nơi rừng rú đương rên rỉ trong gió. Những ngọn thông cao lớn vươn lên như những lưỡi dao nhọn, thầm thì trong tiếng reo vi vút:
Hãy rơi xuống đây!
Suối nước réo ầm ầm trong đêm tối, tuyệt vọng xô mình vào những vách đá đứng sừng sững như vách nhà tù.
- Cha! Áctơ nhỏm dậy rùng mình lui khỏi bờ vực thẳm – Thật giống địa ngục!
- Không, con ạ! – Môngtaneli nhẹ nhàng nói – Nó giống như linh hồn con người.
- Linh hồn của những kẻ đang chơi vơi trong tăm tối và dưới bóng đen của tử thần ư?
- Linh hồn của những kẻ mà hàng ngày con vẫn gặp trên đường phố!
Áctơ co rúm mình, nhìn vào bóng đêm phía dưới. Sương mù mờ trắng trôi giữa rừng thông, dừng lại chầm chậm trên dòng suối đang giãy chết tuyệt vọng, thật giống như một bóng ma ủ rũ, không đủ sức thốt ra một lời an ủi.
Bỗng Áctơ nói:
- Trông kìa! Những kẻ chơi vơi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng mặt trời rồi!
Đằng đông ánh hoàng hôn đốt cháy những đỉnh núi tuyết. Nhưng rồi, ngay sau khi những tia nắng mờ đó tắt đi, thì Môngtaneli quay lại đặt tay lên vai Áctơ:
- Thôi về đi, carino. Trời đã tối, khéo lạc đường.
- Mỏm đá kia thật giống như một người đã chết. – Áctơ nói như vậy, mắt rời khỏi đỉnh núi tuyết còn lóng lánh ở đằng xa trong ánh hoàng hôn.
Họ từ từ xuống núi, len lỏi giữa những hàng cây đen tối và tiến về phía nhà trọ.
Khi bước vào phòng ăn, nơi Áctơ đang ngồi đợi, Môngtaneli thấy rằng cậu bé đã lãng quên những cảnh đen tối ảm đạm vừa qua và dường như đã biến thành một con người khác hẳn.
- Cha, mời cha lại đây! Cha xem con chó ngộ nghĩnh chưa này! Nó nhảy nhót được bằng hai chân sau đấy!
Cậu bé say mê con chó và những bước nhảy tung tăng của nó, chẳng khác gì một giờ trước đây cậu đã say mê cảnh hoàng hôn trên núi Anpơ.
Bà chủ nhà, một người đàn bà má đỏ mặc bộ cánh trắng, hai tay đẫy đà chống ngang hông, mỉm cười nhìn Áctơ đùa với con chó.
Bà nói với con gái bằng tiếng địa phương:
- Trông cậu ấy nô nghịch như thế thì chắc chắn cậu ấy chẳng phải lo nghĩ nhiều. Cậu ấy xinh trai quá.
Áctơ đỏ mặt như một cô học trò, còn bà chủ thấy anh hiểu câu nói của mình thì liền bỏ đi, buồn cười vì nỗi thẹn thò của anh.
Trong bữa cơm anh chỉ bàn về chương trình đi chơi sắp tới, bàn chuyện leo núi, chuyện tìm cây cỏ. Những hình ảnh huyền ảo vừa qua dường như chẳng có gì ảnh hưởng đến tâm tình cũng như khẩu vị của anh cả.
Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy Môngtaneli đã không thấy Áctơ đâu nữa. Trước lúc rạng đông, Áctơ đã lên trên đồng cỏ cao để
giúp Gátsparu chăn dê
rồi.
Nhưng sắp tới giờ ăn sáng thì Áctơ chạy xổ vào buồng đầu không mũ, vai công kênh một cô bé chừng ba tuổi và tay ôm một bó hoa dại lớn.
Môngtaneli nhìn Áctơ mỉm cười. Thật hoàn toàn khác hẳn với Áctơ nghiêm nghị trầm lặng tại Pidơ và Livoócnô trước đây.
- Đi đâu về thế, quái con? Chưa ăn gì cả mà đã chạy khắp núi rồi.
- A, thưa cha, trên ấy hay lắm! Mặt trời mọc trên đỉnh núi, tráng lệ biết bao! Sương xuống nhiều quá. Này, cha trông!
Áctơ nhấc chân giơ chiếc giày ướt át và lấm bùn lên.
- Lúc đi chúng con chỉ mang theo một ít bánh và phomát, nhưng đến đồng cỏ chúng con được uống sữa dê... Khiếp lắm cơ! Nhưng con lại đã đói rồi. Với lại con cũng muốn cho cô bé này ăn một tí gì nữa cơ. Này, có muốn uống mật không, Anét?
Áctơ ngồi xuống, đặt cô bé vào lòng rồi xếp gọn hoa lại cho nó.
Môngtaneli vội ngăn:
- Thôi, thôi! Thế rồi lại cảm đấy. Đi thay quần áo đi... Anét, lại đây cháu... Con thấy con bé này ở đâu Áctơ?
- Ở tận cuối làng ạ. Nó là con gái của ông thợ giày mà chúng ta gặp hôm qua đấy. Cha trông nó có đôi mắt xinh kháu khỉnh chưa! Trong túi nó lại có một con rùa tên là Carôlina.
Sau khi Áctơ thay bít tất ướt và xuống ăn lót dạ, thì thấy cô bé ngồi trong lòng vị linh mục. Nó liến thoắng kể chuyện con rùa. Nó đặt con rùa nằm ngửa trong lòng bàn tay mũm mĩm để
monsieur
(2) thấy cẳng rùa ngọ nguậy.
Nó nói với giọng người lớn:
- Monsieur trông này! Carôlina nó đi giày đây này!
Môngtaneli ngồi chơi với Anét, vuốt mái tóc của nó, xem con rùa ngộ nghĩnh và kể cho nó nghe những chuyện cổ tích thật hay.
Bà chủ nhà vào dọn bàn thấy Anét đang móc túi của vị mặc quần áo cố đạo nghiêm trang thì rất đỗi ngạc nhiên.
Bà nói:
- Thật là trời xui con trẻ nhận ra người tốt bụng. Anét tính hay sợ người lạ, thế mà bây giờ thấy cha, nó lại chẳng sợ sệt gì cả kia. Kể cũng thật lạ lùng! Anét, cháu quỳ xuống xin cha ban phép lành cho. Cha sẽ ban phúc cho cháu đấy cháu ạ...
Một giờ sau, khi hai người đi trên đồng cỏ chói nắng, Áctơ nói:
- Thưa cha, con thật không ngờ cha lại khéo vui đùa với con trẻ thế. Con bé cứ nhìn cha chằm chặp. Thưa cha, con...
- Sao?
- Con định nói rằng... rất tiếc tại sao Giáo hội lại cấm không cho các cha kết hôn. Con thật không hiểu vì sao. Giáo dục trẻ con – đó là một việc rất quan trọng lắm chứ! Ngay từ lúc lọt lòng, nếu trẻ em được sống giữa những ảnh hưởng tốt thì hay biết bao. Con tưởng rằng, người nào sự nghiệp càng cao quý bao nhiêu, cuộc sống càng trong sạch bao nhiêu thì người đó càng xứng đáng làm nhiệm vụ người cha bấy nhiêu. Thưa cha, con tin rằng nếu cha không bị ràng buộc bởi lời thề, mà cha lập gia đình thì con cái của cha chắc sẽ rất...
- Im đi con!
Câu nói ấy thốt ra bằng một giọng thì thầm vội vã nên càng làm sâu sắc thêm sự im lặng.
Thấy nét mặt Môngtaneli sa sầm, Áctơ rất buồn và nói tiếp:
- Thưa cha, con nói như thế có gì sai đâu? Cũng có thể con lầm nhưng con nghĩ như thế nào thì nói như thế ấy...
Môngtaneli dịu dàng đáp:
- Có lẽ con chưa thật hiểu rõ những lời con nói. Vài năm nữa con sẽ biết nhiều. Bây giờ ta hãy nói chuyện khác thì hơn.
Đó là vết rạn nứt đầu tiên trong không khí thoải mái và hoà hợp hoàn toàn giữa hai người từ lúc nghỉ hè đến nay.
Từ Samôni, Môngtaneli và Áctơ vượt qua đỉnh Tếttơnoa. Đến Máctinhi thì họ tạm dừng chân vì thời tiết rất oi ả.
Sau bữa cơm trưa, họ bước lên sân thượng khuất nắng của khách sạn. Một cảnh núi rừng mĩ lệ mở ra trước mắt. Áctơ đem hộp mẫu cây cỏ ra và say sưa nói chuyện với Môngtaneli về thực vật học. Họ nói với nhau bằng tiếng Ý.
Hai họa sĩ người Anh cũng đang ngồi ở sân thượng. Một người khác thì phác họa phong cảnh, còn người kia thì tán dóc. Người này không ngờ rằng hai người kia hiểu được tiếng Anh.
Hắn nói:
- Thôi, Uyli, xếp cái trò vẽ phong cảnh lăng nhăng ấy đi! Vẽ anh chàng người Ý đẹp trai đang ngồi mải mê với mấy cái lá mèo lười kia kìa! Mày hãy trông đôi lông mày của nó! Thay chiếc kính lúp trong tay nó bằng một cây thánh giá, thay chiếc quần soóc và chiếc áo ngắn bằng một bộ áo La Mã thì mày sẽ vẽ nên một tín đồ Thiên chúa giáo hết sức điển hình của những thế kỉ đầu tiên.
- Thiên chúa thiên chiếc gì! Khi ăn cơm tao ngồi cạnh nó. Nó thích gà rán như thích đám cỏ kia vậy. Còn nói gì nữa, thằng bé kháu lắm, nước da màu ôliu thật tuyệt. Nhưng ông bố nó còn đáng vẽ hơn nhiều.
- Bố nó ấy à, ai thế?
- Bố nó ngồi ngay trước mặt mày ấy, mày không chú ý à? Khuôn mặt ông ta thật là đẹp.
- Chà cái thằng mêtôđít (3) này, mày đần thật! Mày không nhận ra cả cố đạo Thiên chúa giáo à!
- Cố đạo ư! Ừ nhỉ! Chết chưa! Tao quên mất, họ thề không phá giới và không gì gì nữa cơ mà... Thôi, thế thì ta cũng có thể thương hại ông ta một tí, cho thằng bé là cháu gọi bằng bác vậy.
Đôi mắt tươi cười đung đưa nhìn Môngtaneli, Áctơ nói thầm:
- Sao họ ngu thế! Dù sao họ cũng còn tốt là nhận thấy con giống cha lắm. Con cũng muốn làm cháu thực của cha... Cha, sao thế! Sao mặt cha tái đi?
Môngtaneli đứng dậy, lấy tay sờ trán. Giọng khàn khàn và yếu ớt, ông nói:
- Cha hơi chóng mặt. Chắc sáng nay cha dãi nắng nhiều quá. Cha đi ngả lưng một tí đây, Carino ạ. Vì nóng quá đấy thôi.
Sau hai tuần du ngoạn bên bờ hồ Luyxécnơ, Áctơ và Môngtaneli vượt đèo Xanh Gôta trở về Ý. Tiết trời lúc nào cũng thuận lợi nên cuộc chơi nào cũng đều thú vị cả. Nhưng niềm vui trong lòng họ những ngày đầu tiên bây giờ đã biến mất.
Môngtaneli luôn luôn băn khoăn nghĩ cách nói với Áctơ câu chuyện nghiêm trang mà Môngtaneli tưởng rằng kì nghỉ hè này dễ nói hơn cả. Trên đồi Ácvơ, Môngtaneli cố ý tránh nhắc tới câu chuyện mà họ đã bàn với nhau trong vườn, dưới cây mộc lan. Môngtaneli nghĩ rằng nếu đem câu chuyện nặng nề ấy làm đen tối những nguồn vui đầu tiên mà thiên nhiên vùng Anpơ đã đem lại cho một tâm hồn nghệ sĩ như Áctơ thì thật tàn nhẫn quá. Nhưng từ ngày ở Máctinhi đến nay, cứ mỗi buổi sáng Môngtaneli tự nhủ thầm:
Hôm nay phải nói với nó mới được
, nhưng cứ đến tối thì lại
Thôi, để mai
. Nghỉ hè sắp hết mà Môngtaneli vẫn tự nhủ thầm
Mai, mai
. Điều kìm hãm Môngtaneli chính là một cảm nghĩ mờ mờ tê lạnh, thấy rằng quan hệ giữa hai người không còn như cũ nữa, mà dường như có một tấm màn vô hình ngăn cách họ. Mãi đến buổi chiều cuối cùng của vụ hè Môngtaneli mới đột nhiên hiểu rằng nếu muốn nói thì chỉ có nói ngày hôm nay.
Họ ở lại Luganô để nghỉ đêm sáng hôm sau sẽ lên đường về Pidơ. Môngtaneli định ít nhất cũng tìm xem đứa con yêu của mình đã sa vào vũng lầy tai hoạ của tình hình chính trị nước Ý tới mực nào.
Sau khi mặt trời đã khuất, Môngtaneli nói:
- Tạnh mưa rồi, carino ạ. Bây giờ là lúc đi ngắm cảnh hồ. Đi đi, cha muốn nói chuyện với con.
Họ men theo bờ hồ, tới một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, rồi ngồi lên bức tường đá thấp, cạnh tường là một bụi hồng dại chi chít đầy quả đỏ tía. Trên cành cao còn run rẩy một vài đoá hồng nhỏ muộn màng màu trắng sữa đã phai tàn và đầm đìa giọt mưa, như đang rưng rưng khóc. Lướt trên mặt hồ phẳng lặng và xanh rờn là một con thuyền nhỏ với cánh buồm trắng nhẹ nhàng rung rinh trong làn sương ấm. Con thuyền mảnh khảnh trông thật giống cánh hoa màu bạc buông trên mặt nước. Cao cao trên ngọn Môngtơ Sanvato, cửa sổ một chiếc nhà cô quạnh của dân mở rộng, trông giống như một con mắt vàng. Những đoá hồng cúi đầu mơ ngủ dưới bầu trời đầy mây của tiết tháng chín; nước hồ rì rào xô từng đợt lên những viên cuội ven bờ.
Môngtaneli bắt đầu nói:
- Đã lâu nay, chỉ tới giờ phút này cha mới có thể bình tĩnh nói chuyện được với con. Rồi đây con sẽ trở về với công việc nhà trường, với chúng bạn, còn cha thì cũng sẽ rất bận trong suốt mùa đông tới. Cha muốn biết rõ, rồi đây cha và con sẽ ăn ở ra sao. Và nếu con...
Môngtaneli ngừng một chút rồi chậm rãi nói:
- Và nếu con cảm thấy rằng vẫn có thể tin cha được như xưa thì cha muốn con không nên nói với cha như trong vườn trường dòng dạo nọ, mà nên nói thật cho cha hay rằng con sẽ đi xa tới mức độ nào.
Áctơ nhìn mặt nước lăn tăn, bình tĩnh lắng nghe và im lặng.
Môngtaneli tiếp:
- Nếu con có thể trả lời được thì con cho cha rõ là con đã ràng buộc mình bằng một lời thề hoặc... bằng một cái gì khác.
- Cha thân yêu, con chẳng có gì nói với cha cả, con chẳng ràng buộc gì mình cả, nhưng con vẫn bị ràng buộc.
- Cha không hiểu...
- Những lời thề có ý nghĩa gì? Ràng buộc con người không phải là lời thề. Chỉ cần mình tự cảm thấy thiết tha với một điều nào đó, thế là đủ rồi. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì ràng buộc được mình cả.
- Thế nghĩa là điều đó... điều đó không thể thay đổi được ư? Áctơ, con đã nghĩ kĩ về những lời con nói chưa?
- Thưa cha, cha hỏi con có tin cha không. Vậy thì cha cũng có thể tin con không? Bởi vì nếu có gì thì con đã nói cho cha nghe. Nhưng những chuyện ấy nói cũng chẳng ích gì. Con vẫn không quên và sẽ không bao giờ quên những lời cha nói với con chiều hôm ấy. Nhưng con phải đi theo con đường của con đi, tới phía ánh sáng đang bừng lên trước mặt con.
Môngtaneli ngắt một đoá hoa nhỏ khỏi bụi hồng, bứt từng cánh hoa và ném xuống nước.
- Con đã nói đúng, carino. Thôi đủ rồi, ta đừng nói chuyện ấy nữa. Mà nói nhiều cũng chẳng ích gì... Thôi, ta về đi.
_______________
Chú thích:
(1) Đảo Rútxô: hòn đảo có dựng tượng của nhà tư tưởng và nhà văn Giăng Giắc Rútxô (1712 – 1778), người Pháp, sinh ở Giơnevơ.
(2) Monsieur: tiếng Pháp nghĩa là ông. Tác giả muốn nhấn rõ con bé Anét là người vùng Anpơ (vùng nói tiếng Pháp).
(3) Méthodiste: tín đồ hội giám lí – một môn phái của đạo Cơ đốc, xuất hiện hồi thế kỉ 18 ở Anh.
_____________________________________________________________________________________________
..............................................................................
Ông James Burton chẳng thích thú gì ý tưởng của cậu em cùng cha khác mẹ muốn cùng với Montanelli
sang Thụy Sĩ du ngoạn
. Song nếu ra mặt cấm đoán một cuộc du khảo vô hại về thực vật học, cùng đi với một vị giáo sư thần học cao niên, nhất là trong lúc Arthur còn chưa hiểu tí gì về lý do ngăn cấm, thì chắc cậu ta sẽ có thể cho ông là độc đoán một cách phi lý. Cậu sẽ lập tức quy ngay là ông có thành kiến về tôn giáo hoặc chủng tộc, mà họ hàng nhà Burton xưa nay vốn lại rất tự hào về thái độ khoan dung tân tiến của mình. Mọi người trong dòng họ đều là những tín đồ gốc đạo Tin lành[1] và là những nhà Bảo thủ trung kiên kể từ khi công ty thương thuyền Burton & Sons, of London and Leghorn
[2] bắt đầu kinh doanh đã từ hơn một thế kỷ cho tới nay. Nhưng họ chủ trương rằng người quý phái nước Anh vẫn phải có thái độ xử đẹp ngay cả đối với những người thuộc phe Giáo hoàng. Vì thế, khi vị gia trưởng cám cảnh góa vợ mà lấy một người theo đạo Công giáo, cô gia sư xinh đẹp của những đứa con nhỏ của mình, thì hai người con lớn là James và Thomas[3] cũng chỉ đành nuốt hận mà tuân theo ý Trời[4], dù cho trong lòng họ cay đắng xiết bao về sự hiện diện của người mẹ kế xấp xỉ tuổi họ. Sau khi người cha mất, và nhất là sau khi người anh cả lấy vợ, tình trạng vốn đã khó khăn trong gia đình lại càng rắc rối thêm. Nhưng khi Gladys[5] còn sống thì cả hai người anh đều cùng thật lòng cố gắng bênh vực bà, chống lại miệng lưỡi tàn tệ của Julia và cố làm tròn bổn phận theo cách hiểu của họ đối với Arthur. Họ thậm chí cũng chẳng làm ra vẻ ưa thích cậu bé, và tấm lòng rộng lượng của họ đối với em chủ yếu chỉ là chu cấp hào phóng cho em những món tiền tiêu vặt và để em muốn đi đâu và làm gì tùy ý.
[1] Từ thế kỷ XVI, trong Kitô giáo (tức Cơ đốc giáo) đã có sự ly khai (Schism) hình thành rõ rệt những phe
phản đối
,
thệ phản
… (Protestants, sau này gọi chung là đạo Tin lành) và xuất hiện một cuộc
Cải cách
(Reform), trong đó năm giáo phái tách khỏi Giáo hội Công giáo (Roman Catholic Church, Catholicism). Một trong những giáo phái đó là Hội thánh Anh giáo (Anglican Church, Anglicanism) thành lập ở Anh từ đời vua Henry VIII (1509-1547) như một quốc giáo Tin lành. Quốc giáo này không thừa nhận Giáo hoàng, do đó bấy giờ những tín đồ Anh giáo thường gọi những người Công giáo là
thuộc Giáo hoàng
hoặc
đi theo Giáo hoàng
(popish),
thuộc phe Giáo hoàng
(papist) với ý miệt thị.
[2] Tức công ty thương thuyền
Bớctơn và các con, tại Luân Đôn và Livoócnô
.
[3] Thomas (tiếng Anh): Tên người anh thứ hai cùng cha khác mẹ của Arthur, em của James.
[4] Nguyên văn là
the will of Providence
, tức
ý của Thiên Chúa Quan phòng
, cũng là
sự an bài của Chúa Trời
, sự quan tâm che chở thiêng liêng của Chúa Trời.
[5] Gladys (tiếng Anh): Tức Gladys Burton, mẹ của Arthur.
Vì vậy, trả lời cho bức thư của Arthur là một tờ ngân phiếu để chi tiền đi đường cùng vài câu lạnh nhạt, cho phép anh muốn sử dụng những ngày nghỉ ra sao tùy ý. Anh bèn trích một nửa số tiền thừa để mua các sách thực vật học và một số cặp bìa để đựng các vật mẫu, rồi cùng Padre lên đường, bắt đầu chuyến ngao du đầu tiên của mình trên dãy Alps.
Từ lâu Arthur chưa bao giờ thấy Montanelli thư thái đến thế. Sau câu chuyện khiến ông bị sốc lần đầu tiên trong khu vườn hôm nọ, nay ông đã dần dần lấy lại được thăng bằng và giờ đây đã nhìn sự việc được trấn tĩnh hơn. Arthur còn non dại lắm, quyết định của nó vị tất đã là dứt khoát. Chắc chắn vẫn còn có đủ thời gian để dùng lý lẽ và những lời thuyết phục nhẹ nhàng kéo nó quay lại, rời bỏ con đường nguy hiểm mà nó chỉ mới bước chân vào.
Họ đã định ở lại Geneva[6] vài hôm. Nhưng, thoạt trông thấy những phố phường trắng toát và chói nắng cùng với những cung đường lát đá, nườm nượp du khách và tắm bụi ở ven hồ, thì Arthur đã thoáng cau mày. Montanelli nhìn anh với vẻ thích thú thầm lặng.
[6] Geneva (tiếng Anh, tiếng Pháp là Genève): Thành phố lớn và đẹp của Thụy Sĩ, trên bờ hồ Genève (cũng gọi là hồ Léman), giáp nước Pháp.
- Con không thích nơi này ư, carino?
- Con cũng chưa biết sao nữa. Con những tưởng được nhìn một cảnh trí khác hẳn thế này. Kể ra hồ nước cũng đẹp và con cũng thích hình dáng của những đồi núi bên kia đấy. - Họ đứng trên đảo Rousseau[7], và Arthur đưa tay chỉ những nét dài và khắc khổ của rặng núi bên phía Savoy[8] - Nhưng thành phố thì lại cứng đơ và ngăn nắp quá, có một vẻ gì… rất Tin lành, cái vẻ tự mãn ấy mà. Không, con chả thích cái thành phố này, nó lại gợi con nghĩ đến Julia.
[7] Đảo Rousseau (tiếng Pháp đọc là Rút-xô): Hòn đảo nhỏ nơi sông Rhône từ hồ Genève (Thụy Sĩ) chảy sang Pháp. Đảo mang tên nhà tư tưởng và nhà văn Jean Jacques Rousseau (1712-1778) người Pháp, sinh ở Genève. Ông đã từng từng đến đảo này để trốn tránh sự truy nã của chính phủ Thụy Sĩ.
[8] Savoy (tiếng Anh, tiếng Pháp Savoie, đọc là Xa-voa): Vùng ở Đông - nam nước Pháp, bên bờ Nam hồ Léman, nơi bắt đầu dãy núi Alps, do đó phần núi này ở đây được gọi là Anpơ Xavoa (tiếng Anh là Savoy Alps).
Montanelli bật cười.
- Tội nghiệp con, thật là không may! Nhưng không sao, ta đến đây chỉ là để vui chơi thôi mà, có cần gì phải ở lại đây đâu. Vậy, hôm nay ta dạo thuyền buồm chơi trên hồ, và ta sẽ tiến thẳng lên núi ngay sáng mai, được không?
- Nhưng, Padre, cha đã định bụng ở lại đây kia mà?
- Con trai yêu quý, những nơi này cha đã từng qua thăm hàng chục lần rồi. Cha đi nghỉ là chỉ cốt thấy con được vui lòng mà thôi. Vậy, con thích đi đâu nào?
- Nếu quả là đối với cha đi đâu cũng thế thôi, thì con thích cứ đi theo dòng sông, ngược lên tới tận nguồn!
- Ngược sông Rhône[9] ấy ư?
[9] Rhône (tiếng Pháp): Sông lớn bắt nguồn từ dãy núi Alps bên phía Thụy Sĩ, chảy qua hồ Genève vào đất Pháp rồi xuống phía nam đổ vào Địa Trung Hải.
- Không, ngược sông Arve[10] ạ. Sông ấy chảy xiết lắm.
[10] Arve (tiếng Pháp): Sông nhỏ nhưng chảy như thác, bắt nguồn từ vùng Anpơ Xavoa (Pháp), chảy qua Chamonix đổ vào phần sông Rhône bên phía Thụy Sĩ, trước khi sông này chảy vào hồ Genève.
- Thế ta sẽ đi Chamonix[11] vậy.
[11] Chamonix (tiếng Pháp đọc là Sa-mô-ni): Thành phố nhỏ phía đông nước Pháp, trên sông Acvơ, là trung tâm leo núi và thể thao mùa đông dưới chân núi Mont Blanc, do đó còn được gọi là Chamonix - Mont Blanc.
Suốt buổi chiều họ lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Nhưng cảnh hồ mỹ lệ vẫn không gây mấy ấn tượng cho Arthur bằng dòng sông Arve xám và đục bùn. Tuy lớn lên bên bờ Địa Trung Hải, đã quen nhìn những làn sóng lăn tăn xanh biếc, nhưng bao giờ anh cũng vẫn say mê với dòng nước chảy xiết, và vì thế, dòng nước cuồn cuộn của con sông từ vùng băng giá đổ về đã khiến anh hết sức sướng vui. Anh bảo:
Nghiêm chỉnh đến thế cơ chứ.
[img]https://i.imgur.com/lGrBddA.jpg[/img]
Sáng sớm hôm sau, họ lên đường đi Chamonix. Khi xe băng qua một vùng thung lũng phì nhiêu, Arthur cảm thấy lòng mình phơi phới, nhưng gần tới Cluses[12] phải ngoặt vào một quãng đường quanh co, khi những ngọn núi đồ sộ và lởm chởm hiện ra vây chặt lấy họ, thì Arthur lại nghiêm nghị và trầm lặng hẳn. Từ St.Martin[13] họ chầm chậm leo dốc, nghỉ đêm trong những ngôi nhà gỗ ven đường hoặc ở những xóm núi nhỏ bé, rồi lại tiếp tục phiêu du tùy theo cảm hứng. Arthur đặc biệt nhạy cảm với tác động của cảnh vật, nên khi đi qua thác nước đầu tiên anh đã rơi vào một trạng thái cực kỳ hoan hỉ khiến ai thấy cũng phải vui lây. Nhưng càng đến gần những đỉnh núi tuyết thì Arthur càng mất đi vẻ hân hoan mà chuyển sang một vẻ ngây ngất mơ màng mà Montanelli chưa từng bao giờ thấy. Hình như giữa cậu ta và những ngọn núi này có một mối dây liên lạc thần bí nào. Cậu ta có thể nằm bất động hàng giờ giữa những cánh rừng thông âm u, bí ẩn và vang vọng này, đưa mắt dõi theo những thân cây thẳng tắp và cao vút mà nhìn ra thế giới bên ngoài chan hòa ánh nắng đang nhuộm vàng những ngọn núi sáng long lanh và những vách đá trơ trụi. Montanelli ngắm nhìn cậu ta với một vẻ thèm muốn buồn rầu.
[12] Cluses (tiếng Pháp): Một địa điểm trên sông Arve trong rặng núi Anpơ Xavoa, trên đường đi Chamonix.
[13] Tức Saint Martin (tiếng Pháp, đọc là Xanh Mác-tanh và có nghĩa là Thánh Máctanh): Một địa danh trong vùng.
Một hôm, rời trang sách nhìn lên ông thấy suốt một tiếng đồng hồ qua Arthur vẫn cứ nằm duỗi dài y nguyên trên thảm rêu bên cạnh ông mà trố mắt đăm đăm nhìn lên mảng trời óng ánh những khoảng xanh và trắng vô biên. Ông bèn hỏi:
Carino, con có thể cho cha xem những gì con trông thấy ở trên đó không?
Số là họ đã tách khỏi đường cái để vào nghỉ đêm trong một xóm làng tịch mịch cách những thác nước Diosaz[14] không xa, nhưng vì lúc này mặt trời đã xuống thấp dưới bầu trời quang mây, nên họ đã leo lên một mỏm núi đá mọc đầy thông để chờ ngắm cảnh núi Apls trong ráng chiều rực rỡ buông dần trên những đỉnh tròn hoặc lô nhô của dãy Mont Blanc. Arthur ngẩng đầu, cặp mắt đầy kinh dị và bí ẩn.
[14] Diosaz (tiếng Pháp): Tên dòng thác, có chỗ chia thành nhiều nhánh, do đó có số nhiều.
- Con trông thấy gì ư, Padre? Con trông thấy một sinh linh vĩ đại mà trắng toát trong khoảng hư vô xanh thẳm vô thủy vô chung kia. Con thấy từ bao đời nay, sinh linh ấy vẫn chờ đợi sự hiển hiện Thần Khí của Thiên Chúa[15]. Con trông thấy sinh linh ấy qua một tấm kính mờ.
[15] The Spirit God (tiếng Anh): Cũng là Thánh linh của Thiên Chú.a, tóm lại đều chỉ Chúa Thánh thần, hoặc có khi cả Thiên Chúa nói chung.
Montanelli thở dài.
- Cha cũng đã từng có lần thấy những cảnh tượng như thế.
- Vậy hiện nay cha không bao giờ thấy như thế nữa sao?
- Không bao giờ. Nay cha không còn thấy lại được những cảnh tượng như thế nữa. Những cảnh ấy vẫn còn đó, cha biết, nhưng mắt cha đã không còn nhìn thấy được chúng nữa rồi. Bây giờ cha nhìn thấy những sự vật khác hẳn.
- Cha nhìn thấy gì ạ?
- Cha ấy ư, carino?
Cha thấy bầu trời xanh và một núi tuyết… Khi nhìn lên cao, cha thấy tất cả chỉ có thế thôi. Nhưng ở dưới kia, thì khác hẳn đấy.
Ông chỉ tay xuống dưới thung lũng bên dưới chân họ. Arthur quì xuống, cúi nhìn trên bờ dốc đứng của vực thẳm. Những cây thông cao lớn xỉn màu trong những bóng tối đang tụ tập lại của trời chiều, đứng dàn theo hai bên bờ sông chật hẹp giống như những người lính gác. Chẳng mấy chốc, mặt trời đỏ như cục thang hồng đã chìm mình sau mỏm núi lô nhô và bộ mặt của thiên nhiên bỗng mất hết cả sức sống và ánh sáng. Ngay lúc đó, một cái gì đen tối, dữ dội, trông ảm đạm, khủng khiếp và chứa đầy những vũ khí ma quái, đã ập xuống khắp thung lũng. Những vách đá dựng ngược của những ngọn núi quạnh quẽ ở phía tây chĩa thẳng lên như những răng nanh của một quái vật đang rình chực nhảy xuống vồ lấy con mồi mà tha xuống của miệng há hốc của thung lũng thẳm sâu và đen ngòm với những rừng rú đang rên xiết. những ngọn thông xếp thành hàng như những dãy lưỡi dao nhọn thì đang thầm thì:
Hãy rơi xuống đây!
và trong bóng tối mỗi lúc thêm dày đặc, một suối nước đang gầm thét và rú rít xô mình vào những vách đá sừng sững như vách đá nhà tù với sức hung hãn của nỗi tuyệt vọng ngàn đời.
- Padre!
- Arthur nhỏm dậy, rùng mình, lui khỏi bờ vực thẳm. - Giống như hỏa ngục vậy!
- Không, con trai của ta ạ! - Montanelli dịu dàng bảo. - Nó chỉ giống như linh hồn con người.
- Linh hồn của những kẻ đang đắm chìm trong tăm tối và dưới bóng đen của sự chết ư?
- Linh hồn của những kẻ mà hàng ngày con vẫn gặp trên đường phố!
Arthur run rẩy, nhìn xuống những bóng đen phía dưới. Một làn sương mù mờ trắng đang lờ lững len lỏi giữa những ngọn thông, nó ẻo lả bám theo cơn hấp hối tuyệt vọng của dòng suối, hệt như một bóng ma khốn khổ, chẳng đủ sức thốt ra một lời an ủi.
Bỗng Arthur bảo:
- Trông kìa! Những kẻ chơi vơi trong tăm tối đã thấy được vầng sáng vĩ đại[16] rồi!
[16] A great light (tiếng Anh): Cũng là ánh sáng, sự sáng vĩ đại nhưng đều chỉ vầng sáng của mặt trời, của Chúa Trời.
Đằng đông những đỉnh núi tuyết đã bừng cháy lên trong ánh ráng chiều. Nhưng rồi, ngay sau khi ánh đỏ nhạt nhòa trên các ngọn núi, Montanelli đã quay lại, sờ vào tai Arthur mà thức tỉnh anh:
- Về thôi, carino. Chẳng còn tí ánh sáng nào nữa rồi. Nán lại thêm chút nào nữa, chúng ta sẽ lạc mất đường trong tăm tối.
- Mỏm núi kia thật giống như một thây ma. - Arthur nói vậy, khi rời mắt khỏi bộ mặt ma quái của một đỉnh núi tuyết đồ sộ còn đang chập chờn qua ánh hoàng hôn.
Họ thận trọng xuống núi, len lỏi giữa những hàng cây đen xịt để tiến về phía ngôi nhà gỗ vùng núi mà họ sẽ ngủ trọ.
Khi bước vào căn phòng, nơi Arthur ngồi đợi ông đến ăn tối, Montanelli thấy chàng trai dường như đã rũ sạch được những ảo ảnh ma quái về bóng đêm mà như đã biến thành một con người khác hẳn.
- Ồ, Padre, cha mau lại đây mà xem con chó ngộ nghĩnh này! Nó nhảy nhót được bằng hai chân sau đấy!
Anh cũng lại bị cuốn hút bởi con chó và những trò khéo của nó hệt như đã bị cuốn hút bởi ánh hoàng hôn chiều nay vậy. Bà chủ nhà, một người đàn bà má đỏ, đeo tạp dề trắng, hai tay đẫy đà chống ngang hông, mỉm cười nhìn anh đùa nghịch với con chó để nó làm trò vui.
https://i.imgur.com/aroOCFl.jpg
Bà nói với cô con gái bằng tiếng địa phương:
- Trông cậu ấy đùa nghịch như thế thì chắc là người chẳng phải lo nghĩ nhiều. Cậu ấy xinh trai thật!
Arthur đỏ mặt như một cô học trò, còn bà chủ thấy anh hiểu câu nói của mình thì liền bỏ đi, buồn cười vì thấy anh mắc cỡ. Trong bữa ăn anh chỉ bàn chương trình đi chơi, bàn chuyện leo núi, chuyện du khảo thực vật học. Rõ ràng là những ảo ảnh mộng mị vừa qua đã chẳng ảnh hưởng gì đến tâm trí cũng như khẩu vị của anh cả.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy Montanelli đã không thấy Arthur đâu nữa. Trước lúc rạng đông, anh đã lên đồng cỏ vùng cao
để giúp Gaspard[17] lùa đàn dê lên núi
rồi.
[17] Gaspard (tiếng Pháp): Tên trẻ mục đồng.
Nhưng bữa ăn sáng dọn lên bàn chưa được bao lâu thì Arthur đã chạy xổ vào phòng, đầu không mũ, vai công kênh một cô bé nhà quê chừng ba tuổi, và tay ôm một bó hoa dại lớn.
Montanelli nhìn lên, mỉm cười. Thật trái ngược một cách lạ lùng với Arthur nghiêm nghị và trầm lặng ở Pisa hoặc Leghorn.
- Đi đâu về thế, quái con? Chưa lót dạ tí gì mà đã chạy nháo khắp đồi núi rồi ư?
- Ôi, Padre, trên ấy hay lắm! Khi mặt trời mọc, cảnh đồi núi tráng lệ tuyệt vời, mà sương xuống đầy ghê! Cha xem này!
Arthur nhấc chân giơ chiếc ủng ướt át và lấm bùn lên cho cha kiểm tra.
- Chúng con có mang theo một ít bánh mì và phó mát, nhưng lên đến đồng cỏ lại được uống sữa dê; ôi, ghê ơi là ghê! Mà bây giờ con lại đã đói rồi. Với lại con muốn cho cả cô bé này ăn một tí gì nữa cơ. Này, Annette[18], có muốn uống mật ong không?
[18] Annette (tiếng Pháp): Tên bé gái
Anh ngồi xuống, đặt cô bé vào lòng rồi xếp gọn hoa lại cho nó.
Montanelli bèn ngăn lại:
- Thôi, thôi! Cha chẳng muốn con bị cảm lạnh đâu đấy. Mau đi thay đồ ướt ra. Annette, lại đây với cha. Con mang nó ở đâu về vậy?
- Ở tận trên đầu làng ạ. Nó là con của cái ông ta gặp hôm qua… cái ông sửa giày cho cả xã ấy mà. Cha xem nó có đôi mắt kháu chưa! Trong túi nó lại có một con rùa nó gọi tên là
Caroline
[19].
[19] Caroline (tiếng Pháp): Tên phụ nữ.
Sau khi thay bít tất ướt rồi xuống để ăn sáng, Arthur thấy cô bé đã được đặt ngồi vào lòng vị linh mục, liến thoắng kể ông nghe chuyện con rùa. Nó đặt con rùa nằm ngửa trong lòng bàn tay mũm mĩm để monsieur[20] ngắm nghía được cẳng rùa ngọ ngoạy.
[20] Monsieur (tiếng Pháp trong nguyên bản): Ông, ngài. Tác giả muốn nhấn rõ con bé Annette là người vùng Anpơ Xavoa (vùng Pháp giáp Thụy Sĩ).
- Monsieur xem này! - Bây giờ cô bé lại nghiêm trang nói bằng tiếng địa phương hơi khó nghe. - Xem những chiếc giày của Caroline này!
Montanelli ngồi chơi với đứa bé, vuốt tóc nó, ngắm nghía con rùa cưng của nó và kể cho nó nghe những chuyện cổ tích thật hay. Và chủ nhà vào dọn bàn thấy Annette đang lục tung cái túi của quý ông trang trọng trong bộ đồ giáo sĩ kia ra thì trố mắt ngạc nhiên.
Bà bảo:
- Thật là Chúa xui con trẻ nhận ra người nhân từ. Annette tính hay sợ người lạ, thế mà trông kìa, thấy ngài nó lại chẳng bẽn lẽn gì cả kìa. Thật kỳ lạ! Annette, quỳ xuống đi con, xin monsieur
nhân từ ban phép lành cho kẻo ngài đi mất. Con sẽ được phúc đấy, con ạ!
Một giờ sau, khi hai người đi ngang qua đồng cỏ chói nắng, Arthur nói:
- Padre, thật con không ngờ cha lại khéo chơi đùa với trẻ con đến thế. Con bé cứ nhìn cha chằm chặp. Thưa cha, con nghĩ…
- Sao?
- Con chỉ định nói là… con cảm thấy rất xót xa tại sao Giáo hội lại cấm không cho các cha kết hôn. Con thật chẳng hiểu vì sao. Cha xem, giáo dục trẻ con là một việc hệ trọng lắm chứ! Ngay từ lúc lọt lòng, nếu trẻ em được sống giữa những ảnh hưởng tốt đẹp thì hay biết bao! Thế nên con thiết tưởng, người nào ơn thiên triệu[21] càng thiêng liêng bao nhiêu, cuộc sống càng trong sạch bao nhiêu, người đó càng xứng đáng làm nhiệm vụ người cha bấy nhiêu. Padre, con tin chắc rằng nếu cha không bị ràng buộc bởi lời thề[22]…nếu cha lập gia đình… con cái của cha chắc sẽ rất…
[21] Vocation (tiếng Anh): Ta chỉ gọi là
thiên hướng
,
thiên chức
và thông thường là
sự nghiệp
,
sứ mệnh
.
[22] Vow (tiếng Anh): Từ Công giáo hay dùng là
lời khấn
(priestly vow of celibacy: lời khấn độc thân của linh mục; vow of chastily: lời khấn khiết tịnh (giữ mình đồng trinh)).
- Suỵt!
Tiếng ấy bật ra thầm kín và vội vã nên dường như càng làm sâu sắc thêm sự im lặng sau đó.
Thấy nét mặt cha sa sầm lại, Arthur rất rầu lòng mà nói tiếp
- Padre, con nói thế cha cho là có gì sai ư? Dĩ nhiên, con có thể lầm, nhưng tự nhiên con thấy thế nào thì con cứ phải nghĩ thế ấy chứ.
Montanelli ôn tồn đáp:
- Có lẽ con chưa thật hiểu rõ điều con vừa nói. Ít năm nữa con sẽ không nghĩ thế đâu. Còn bây giờ ta hãy nói chuyện gì khác thì hơn.
Đây là vết rạn nứt đầu tiên trong bầu không khí thoải mái và hòa hợp hoàn toàn giữa họ vào dịp mùa hè đẹp lý tưởng này.
Từ Chamonix, họ vượt qua Tête-Noire[23] mà đến thẳng Martigny[24], và ở đây họ tạm nghỉ lại vì tiết trời nóng oi ả. Sau bữa trưa, họ lên ngồi trên sân thượng khuất nắng của khách sạn trông ra một toàn cảnh núi non đẹp đẽ. Arthur đem hộp vật mẫu ra và sôi nổi thảo luận bằng tiếng Ý với Padre về thực vật học.
[23] Tête Noire (tiếng Pháp): Thực nghĩa là
Đầu đen
, tên một mỏm núi chắn giữa Chamonix ở phía nam và Martigny ở phía Bắc.
[24] Martigny (tiếng Pháp): Một địa điểm phía bắc núi Tête-Noire.
Hai họa sĩ người Anh cũng đang ngồi ở sân thượng. Một người phác họa phong cảnh, còn người kia uể oải tán dóc. Anh này không sao ngờ được rằng hai người khách mới đến lại hiểu được tiếng Anh.
Anh nói:
- Willie[25], vứt quách cái trò bôi bác phong cảnh ấy đi! Vẽ ngay thằng bé người Ý đẹp long lanh[26] đang mê ly quằn quại với dăm cái lá lưỡi mèo kia kìa! Mày hãy chỉ ngắm đường cong đôi hàng lông mày của nó! Chỉ việc thay chiếc kính lúp trong tay nó bằng một cây thánh giá, thay chiếc vét tông và chiếc quần chẽn gối bằng một chiếc áo choàng La Mã là mày sẽ có ngay được biểu tượng trọn vẹn và đầy đủ của một tín đồ Cơ Đốc giáo thời Nguyên Sơ[27], thế là xong chuyện.
[25] Willie (tiếng Anh): Tên nam giới.
[26] Nguyên văn là glorious (tiếng Anh).
[27] Early Christian (tiếng Anh): Ý nói tín đồ Cơ đốc giáo từ thời đạo Cơ đốc (Kitô) mới du nhập vào Roma (La Mã) với vị giám mục đầu tiên (42 sau công nguyên) hoặc mới được Hoàng đế La Mã Constantine (306-337 sau công nguyên) thừa nhận là tôn giáo chính thức của toàn bộ đế quốc.
- Cơ đốc cơ điếc quái gì! Bữa ăn trưa ngồi cạnh thằng nhóc ấy tao thấy nó mê ly món gà quay chẳng kém gì cái mớ cỏ bẩn thỉu kia cả. Kể ra nó cũng khá kháu đấy, nước da màu ôliu thật đẹp. Nhưng nó chỉ ngoạn mục và đáng vẽ bằng nửa ông bố nó.
- Ông gì của nó? Là ai thế?
- Ông bố nó ngồi ngay trước mặt mày ấy. Mày định phớt lờ ông ấy hay sao thế? Gương mặt ông ta kỳ vĩ hết chỗ nói.
- Chà, cái thằng Mêthôđi[28] giả hiệu này, mày đần độn thật! Mày không nhận ra cả cố đạo Công giáo à?
[28] Mêthôđi (tiếng Anh - Methodist): Người thuộc giáo phái Mêthôđi (cũng gọi là Hội Giám lý hoặc Hội Linh Pháp), một giáo phái Tin lành phát sinh từ Anh giáo, thành lập ở Anh vào thế kỷ XVIII, coi trọng phương pháp (method) trong nghiên cứu Kinh Thánh và hành đạo rất khắc khe. Ở đây là ý chê bai Willie, cho anh ta thực ra chỉ lớt phớt không thấy thực chất.
- Cố đạo hả? Lạy thần Giôvê[29], đúng thế thật! Phải rồi, tao quên béng mất, họ thề không phá giới[30] và không gì gì nữa cơ mà. Thôi, thế thì ta cũng nên có lòng từ thiện, cho thằng bé là cháu gọi ông ấy bằng bác vậy.
[29] By Jove (tiếng Anh): Tức khấn hoặc thề nhân danh Jupiter, là vị thần chủ chốt trong thần thoại La Mã!
[30] Nguyên văn là Vow of chastity, dịch đúng từ Công giáo phải là
lời khấn khiết tịnh (giữ mình đồng trinh)
, thực chất là thề không lấy vợ.
Đôi mắt tươi cười đung đưa nhìn lên, Arthur thì thào:
- Sao bọn họ ngu thế! Nhưng dù sao họ cũng còn tử tế là nhận thấy con giống cha lắm. Ước gì con được là cháu thực của cha… Padre, sao thế! Mặt cha trắng bệch ra kìa!
Montanelli đứng dậy, đưa tay lên bóp trán. Giọng lạc đi và yếu ớt một cách kỳ lạ, ông nói:
https://i.imgur.com/ITPMISl.jpg
- Cha hơi chóng mặt. Chắc sáng nay cha dãi nắng nhiều quá. Cha đi ngả lưng một tí đây, carino. Không sao đâu, chỉ tại nóng nực quá đấy thôi.
Sau hai tuần du ngoạn bên hồ Lucerne[31], Arthur và Montanelli trở về Ý qua ngả đèo St.Gothard[32]. May gặp thời tiết tốt họ đã có được nhiều cuộc dạo chơi rất thú vị, nhưng nguồn vui trong lòng họ nay đã mất đi vẻ quyến rũ ban đầu. Tâm trí Montanelli thường xuyên bị ám ảnh bởi nỗi băn khoăn về
câu chuyện rành mạch hơn
mà ông tưởng kỳ nghỉ hè này phải là dịp thuận tiện. Ở thung lũng sông Arve ông đã cố ý tránh mọi nhắc nhở tới nội dung câu chuyện mà họ đã bàn dưới gốc mộc lan, vì ông cho rằng, nếu đem câu chuyện dứt khoát là sẽ rất đau lòng ấy ra để phá tan những niềm vui đầu tiên mà cảnh trí vùng Anpơ đã đem lại cho một tâm hồn nghệ sĩ như Arthur, thì quả là tàn nhẫn. Rồi suốt từ ngày ở Martigny, cứ mỗi sáng ông tự nhủ thầm
Hôm nay mình sẽ nói
thì đến chiều ông lại bảo:
Đến mai mình sẽ nói
, cho đến nay kỳ nghỉ hè sắp hết mà ông vẫn cứ lần lữa:
Mai, mai
. Một cảm nghĩ mơ hồ và tê lạnh về một cái gì đó nay đã không còn được như xưa nữa, và về một tấm màn vô hình nay đã sụp xuống ngăn cách ông với Arthur, chính cảm nghĩ đó đã khiến ông phải nín lặng bấy lâu, mãi đến tận buổi chiều cuối cùng của vụ hè, ông mới đột nhiên hiểu ra rằng nếu muốn nói thì chỉ còn có ngày hôm nay. Họ đang ở lại Lugano[33] nghỉ đêm để sáng hôm sau sẽ lên đường về Pisa. Ông muốn ít ra cũng tìm hiểu xem người mình yêu dấu đã sa vào vũng lầy tai họa của tình hình chính trị nước Ý tới mức nào.
[31] Lucerne (tiếng Pháp): Hồ nhỏ ở vùng trung tâm Thụy Sĩ.
[32] St.Gothard Pass (tiếng Pháp): Đèo rất quan trọng ở vùng tập trung nhiều dãy núi Anpơ Thụy Sĩ cao gần 3000m, nơi phát xuất của nhiều sông lớn như Rhin, Rhône v.v… và sau có hầm xuyên núi nối liền đường xe lửa Thụy Sĩ với Ý. Đèo mang tên Thánh Gothard.
[33] Lugano (tiếng Ý): Thị trấn nhỏ bên bờ hồ Lugano, trong vùng núi gần biên giới giữa Ý với Thụy Sĩ.
Mặt trời vừa khuất, ông bảo:
- Tạnh mưa rồi, carino. Mà đây cũng là dịp duy nhất cho ta ngắm được cảnh hồ. Đi đi, cha muốn nói chuyện với con.
Họ men theo bờ hồ, đến một nơi tĩnh mịch, rồi ngồi lên bức tường đá thấp. Sát cạnh họ là một bụi hồng dại chi chít quả đỏ tía, trên cành cao còn lắt lẻo đôi ba đóa hoa nhỏ màu trắng sữa đang đu đưa sầu thảm và đầm đìa giọt mưa. Trên mặt hồ xanh rờn là một con thuyền nhỏ với những cánh buồm trắng phơ phất đang dập dềnh trong làn gió nhẹ ẩm hơi sương. Con thuyền nhẹ tênh và mảnh khảnh trông giống như một chùm hoa bồ công anh đã kết hạt trắng như bạc buông trôi trên mặt nước. Cao cao trên ngọn Monte Salvatore[34], cửa sổ một túp lều mục dân nào đó mở ra một con mắt vàng óng. Những đóa hồng cúi đầu ủ rũ, mơ ngủ dưới những áng mây tĩnh lặng tiết tháng chín, nước hồ rào rạt và rì rầm nhỏ nhẹ trên những viên cuội ven hồ.
[34] Monte Salvatore (tiếng Ý): Núi của Đấng (Người) cứu rỗi.
Montanelli bắt đầu nói:
- Đã lâu rồi, chỉ mãi đến bây giờ cha mới có dịp bình tĩnh nói chuyện được với con. Rồi đây con sẽ trở về với công việc nhà trường, với chúng bạn, còn cha thì cũng sẽ rất bận trong suốt mùa đông tới. Cha muốn biết thật rõ, rồi đây cha con ta sẽ ăn ở với nhau ra sao, và do vậy, nếu con… - Ông ngừng một chút rồi nói tiếp chậm rãi hơn. - Nếu con cảm thấy rằng vẫn có thể tin cậy cha được như vốn đã tin cậy xưa nay thì cha muốn con nói rành mạch hơn lúc ở trong vườn chủng viện tối hôm ấy, cho cha biết rằng con đã đi xa đến mức độ nào.
Arthur nhìn ra mặt nước, bình tĩnh lắng nghe và nín lặng.
Montanelli nói tiếp:
- Nếu có thể nói cho cha biết được, thì điều cha muốn biết là phải chăng con đã ràng buộc mình bằng một lời thề[35] hoặc… bằng một cách nào khác.
[35] Nguyên văn tiếng Anh: Vow.
- Padre yêu quý, con chẳng có gì để nói cả đâu. Con chẳng ràng buộc gì mình cả, nhưng con vẫn bị ràng buộc.
- Cha không hiểu…
- Những lời thề phỏng có ích gì? Ràng buộc con người không phải là lời thề. Nếu mình có một cảm nhận nhất định đối với một điều gì, chính cái đó nó gắn bó mình với điều ấy. Nếu mình không có một cảm nhận như vậy, thì chẳng có gì ràng buộc được mình cả.
- Vậy ý con là điều đó… điều… cảm nhận ấy là không thể thay đổi được nữa sao? Arthur, con đã nghĩ kỹ về những lời con nói chưa?
Arthur quay mình lại, nhìn thẳng vào mắt Montanelli:
- Padre, cha hỏi con có thể tin cậy cha không? Quả thế đấy, nếu có gì để nói thì con đã nói cha nghe rồi, còn những chuyện này nói cũng chẳng ích gì. Con vẫn không quên và sẽ không bao giờ quên những lời cha nói với con tối hôm ấy. Nhưng con phải đi con đường của con, đi theo vầng sáng mà con đã thấy được.
Montanelli ngắt một đóa hoa nhỏ khỏi bụi hồng, bứt hết mọi cánh hoa mà hất cả xuống nước.
- Con nói đúng, carino. Phải, ta đừng nhắc đến những chuyện ấy nữa. Hình như đúng là thế đấy, nói nhiều cũng chẳng ích gì… Được, được, ta về thôi.
https://i.imgur.com/SJLhFzZ.jpg