• 1,594

CHƯƠNG IV


Số từ: 5274
Tại chính trung tâm O-đrư-nư, trong điền trang không có gì đáng để người ta phải lưu ý. Tòa dinh thự đồ sộ đã bị thiêu hủy trong thời gian chiến tranh, nay mọc đầy những bụi tầm ma, chút chit và ngưu bàng, mỗi năm lại phủ đầy thềm rêu phong mốc thếch, mỗi năm lại thêm phần đổ nát. Nữ chủ nhân, công tước phu nhân Du-ban-xê-va, vợ góa của một quan chức cao cấp trong triều đình Pê-tec-bua hiện đang định cư tại Pháp, chẳng khi nào lui tới dòm ngó gì đến chốn này. Viên quản lý, ông Pô-le-skê-vich, một ông lão tính khí kỳ quặc, chiếm hai phòng nhỏ trong tòa nhà phụ bằng gỗ trên sàn điền trang, nơi cũng không thiếu những dấu ấn của sự bừa bãi và thiếu chăm lo giữ gìn.
Nhưng khắp bốn chung quanh trải ra mênh mông những khoảng rừng bao la và truyệt vời của vùng Rừng Hoang O-đrưn-ke-xka, hàng nghìn hec-ta mọc đầy thông, tùng, sồi và bạch dương chen lẫn phi tử và đỗ tùng, bị chia cắt bởi những con đường mòn chật hẹp, ngoằn nghoèo, ngoắt ngoéo, trên đó người ta hay gặp vết chân lợn rừng và các loài thú có sừng hơn là vết chân người và ngựa. Từ trên cao nhìn xuống, cả khoảng không gian mênh mông kia nom như một tấm thảm nhung xanh óng ánh, trên đó có dính đầy những chuỗi cườm đen lóng lánh. Bởi nơi đây không thiếu chi những làn nước. Những mặt hồ hớn và nhỏ nối liền nhau bằng những dòng suối ẩn mình trong đám cây tống quả sủ và liễu xam khiến người ta có thể đi xuyên rừng bằng thuyền dễ hơn đi đường bộ. Chính vì vậy, những người coi rừng ít ỏi chốn đây thường sử dụng thuyền.
Chỉ khi nào phải tới tòa nhiệm sở nằm tại chính giữa vùng rừng người ta mới phải đi bộ. Tòa nhiệm sở ở sườn núi, trên một khu đất trống nho nhỏ, tứ phía được bao bọc bởi bức tường cao vút của rừng già đại ngàn. Trong tòa nhiệm sở là chánh kiểm lâm, anh Jan Ôc-sa con trai của ông lão Phi-líp Ôc-sa, người người hơn bốn mươi năm về trước đã cai quản rừng đại ngàn Ô-đrư-nhe-xka, và khi qua đời đã để lại chức trách kiểm lâm cùng tất cả những gì ông có cho đứa con trai. Ngay từ thuở thơ ấu, chàng trai đã du học ở Vin-nô, rồi sau đó đến tận thành Vac-sa-va xa xôi, nhiều năm sau anh trở về với tấm bằng kỹ sư lâm nghiệp trong túi, cùng vợ và đứa con gái nhỏ; từ đó sống trong tòa dinh thự và suốt năm năm nay có thẩm quyền quyết định mọi chuyện trong vùng rừng. Thẩm quyền đó là vô hạn, bởi lẽ cấp trên của anh, ông lão Pô-le-xki-ê-vich, tin tưởng anh hoàn toàn trong mọi chuyện, không hề can thiệp vào việc gì cả, và nếu như ông lão có ghé qua nhiệm sở của người chánh kiểm lâm thì chẳng phải để kiểm tra sổ sách mà chỉ để cùng phu nhân Bê-a-ta Ôc-sư-na trò chuyện chút đỉnh, cùng anh Jan chơi vài ván cờ, hoặc để cho cô bé Ma-rư-sia ngồi lên yên ngay trước mặt mình và "phi" trên trảng trống. Vả chăng, đó gần như là vị khách duy nhất lui tới nhiệm sở kiểm lâm.
Hẳn là Ôc-sa được thừa kế của cha tính thích cô đơn, ít có bao giờ anh đi lại thăm hỏi những người láng giềng - thực ra họ cũng ở khá xa - và họ cũng không đến thăm anh. Mặc dù còn trẻ anh là người chỉ thích ngồi nhà, điều đó không lấy làm lạ bởi anh có một người vợ xinh đẹp tuyệt vời, và như chàng gác rừng Ba-rơ-trúc hay nói, "một người rất thiện ý", cùng một cô con gái nhỏ giống như thiên sứ, như niềm hạnh phúc của gia đình.
Vì vậy, anh không thích đi đây đi đó. Bao nhiêu lần phải lên huyện lỵ Bra-xoa-vi, hoặc chẳng may phải đến tận Vin-nô, anh đều lần lữa từ ngày này sang ngày khác. Cũng có thể là do anh không được khỏe lắm, việc đi lại khiến anh rất mệt. Thường thường, hễ cứ bị nhiễm lạnh một chút, anh lại thổ ra huyết và nằm liệt giường. Nhưng đó là một người rất tốt bụng, rất nhân đạo và công minh, tất cả những người dưới quyền đều xót xa thấy anh mỗi ngày một héo hắt trông thấy. Đã hai lần họ phải đưa bác sĩ đến thăm bệnh cho anh, một chuyện thực vất vả và tốn kém, bởi tám dặm đường chẳng phải là một quãng ngắn ngủi gì. Người ta bảo rằng anh chánh kiểm lâm trẻ tuổi chắc chẳng qua khỏi nổi, và mọi sự hình như cũng có vẻ đúng vậy.
Mùa hạ trong rừng thật là tuyệt. Mùi nhựa cây thơm nồng nàn, không khí ấm áp như trong lò, đủ mọi thứ côn trùng vo ve đến váng cả tai. Những ngọn thông cao vút lắc lư, gió ồn ã trong những vòm lá sồi già, rêu dày như một tấm thảm xốp êm, còn quả rừng và nấm thì hằng hà sa số, có thể chỉ sống hoàn toàn bằng chúng ở nơi đây mà không sợ bị chết đói. Nhưng khi thu về, trong rừng lại trùm một sự tĩnh mịch tuyệt đối, hệt như trong nhà thờ lúc làm lễ thăng thiên. Cây cối đứng trầm tư, thậm chí chúng hình như không cảm thấy những chiếc lá của chúng vàng úa và đỏ sậm, rời khỏi cành, rơi thành từng mảng, từng mảng lớn. Còn về mùa đông, tuyết bao trùm tất cả chiều cao và chiều sâu, chồng chất thành những tấm đệm dày trên cành cây, và mỗi khi người ta hít thở, mỗi khi làn không khí lạnh buốt tốt lành kia ùa vào theo.
Nhưng hết đông lại sang xuân. Từ đất rừng đang tan băng, từ các hồ và những đầm lầy, hơi ẩm bốc lên, đó chính là mùa tệ hại nhất cho những người bị lao phổi.
Với chàng chánh kiểm lâm Ôc-sa cũng thế. Chàng chịu đựng mùa đông rất tốt, nhưng đến tháng ba khi tuyết bắt đầu tan, sức khỏe chàng lại suy sụp. Suy sụp đến nỗi đã bốn tuần liền chàng phải nằm liệt giường, và ngay cả việc nhận báo cáo của những người gác rừng chàng cũng phải tiến hành ngay trong phòng ngủ. Chàng gầy sụt đến mức khó lòng nhận ra nổi, nhiều khi những cơn ho sặc sụa kéo dài khiến chàng không nói được suốt mười lăm phút liền hay lâu hơn nữa. Trán chàng đầm đìa những giọt mồ hôi lạnh to tướng, hơi thở chàng rất khó nhọc.
Đến thứ bảy thì bà chánh kiểm lâm hoàn toàn không để cho một người gác rừng nào vào phòng chồng nữa. Nàng vào bếp gặp họ, người cũng nhợt nhạt, mệt mỏi, và chỉ nói rất khẽ:
- Nhà tôi mệt lắm, không... không thể để anh ấy mệt thêm nữa.
Rồi nàng òa lên khóc.
- Thưa bà, có nhẽ nên đi mời bác sĩ đến ạ. - một người lên tiếng. Ông nhà sẽ chết nhẹ nhàng hơn.
- Nhà tôi không thích bác sĩ. - phu nhân lắc đầu. - Chính tôi cũng đã van xin anh ấy thế nhưng anh ấy không đồng ý.
- Tôi vẫn muốn nên đi mời bác sĩ, - người khác bảo. - Còn với ông chánh kiểm lâm thì ta bảo chính bác sĩ tự đến, nghĩa là tiện đường ông ấy rẽ vào.
Mọi người đều đồng ý thế, Ôc-sư-na gạt nước mắt quay vào phòng ngủ. Sau bao đêm không chợp mắt, chính nàng cũng mệt lắm, nàng bước đi mà chân nặng như chì. Song khi đến gần giường người ốm, nàng cố mỉm cười, tỏ ra bình tĩnh. Nàng sợ rằng ánh mắt của Ja-nếch sẽ đọc được những ý nghĩ thật của nàng, những ý nghĩ khủng khiếp và đớn đau đang hành hạ tâm hồn tội nghiệp ấy. Khi chàng đã thiếp đi, nàng bèn quỳ xuống và cầu nguyện khẩn khiết.
- Lạy chúa, hãy tha tội cho tôi, xin Người đừng trừng phạt tôi, đừng trả thù tôi! Đừng cướp anh ấy đi! Tôi có tội, tôi đã phạm nhiều điều ác, nhưng xin Người hãy tha thứ! Tha thứ cho tôi! Tôi không thể làm khác được!
Và lệ giàn giụa cả khuôn mặt gần như trong suốt của nàng, môi nàng run rẩy trong khi thì thầm những lời khó hiểu.
Nhưng Ja-nếch lại tỉnh ngay. Một cơn ho nữa hành hạ chàng và trên chiếc khăn lại hiện ra thêm một vết máu nữa. Lại phải đưa nước và cho chàng uống thuốc.
Đột nhiên, đến đêm chàng đỡ đau hơn. Cơn sốt lui hẳn. Chàng bảo nâng người lên để chàng ngồi dậy. Không một lời phản đối, chàng uống cạn cốc kem sữa rồi nói:
- Anh thấy là anh sẽ sống!
- Chắc chắn rồi, hẳn thế rồi, Jan-ku (15)! Cơn nguy hiểm qua rồi, tất nhiên là thế. Anh đã thấy khỏe hơn. Rồi anh xem, chỉ tháng nữa là anh sẽ khỏe hoàn toàn thôi mà.
- Anh cũng nghĩ thế. Ma-ri-ô-la chưa ngủ hả em?
Không khi nào chàng gọi con bằng cái tên ấy. Ngay từ đầu chàng đã không thích tên gọi ấy và chỉ gọi con là Ma-rư-sia, khiến Bê-a-ta cũng quen dần.
- Vâng, con chưa ngủ. Nó đang làm bài.
- Thế ra em vẫn còn thì giờ dạy con học ư?..
Chàng nín lặng, rồi lát sau chàng bảo:
- Lạy Chúa, anh đã mang đến cho em và con biết bao khổ cực.
- Jan-ku! Sao anh có thể nói những lời kinh khủng nhường ấy! - Nàng hoảng hốt.
- Đó là sự thật.
- Chính anh cũng không tin điều đó. Anh đã mang lại cho em và con biết bao hạnh phúc, những niềm hạnh phúc đẹp nhất!...
Chàng nhắm mắt thì thầm:
- Anh yêu em. Bê-a-ta, càng ngày càng yêu đắm say hơn. Và chính tình yêu ấy không cho phép anh chết.
- Anh sẽ không chết, anh không thể chết được. Không có anh, cuộc sống đối với em sẽ tồi tệ hơn là cái chết. Nhưng chúng mình đừng nói tới chuyện ấy nữa anh. Chuyện ấy đã qua rồi, ơn Chúa! Anh biết không? Để em gọi Ma-rư-sia nhé. Đã bao lâu con không được gặp anh rồi. Anh cho phép chứ?
- Không nên. Ở đây không khí đầy mầm bệnh. Chính anh đang lo khi nghĩ em phải thường xuyên thở hít chúng. Đối với buồng phổi trẻ thơ của con đó là thuốc độc.
- Vậy thì để con đứng ở ngưỡng cửa thôi cũng được. Anh hãy nói với con đôi lời. Anh không biết con hay đòi điều đó đến mức nào đâu.
- Thôi cũng được - chàng đồng ý.
Bê-a-ta hé cửa gọi:
- Ma-rư-siu (16)! Cha cho phép con rồi đấy.
- Cha ơi! - Từ trong nhà vang lên tiếng reo vui mừng rỡ, rồi tiếp đó là những bước chân chạy gấp gáp.
Cô bé chạy vào và đứng sững lại. Đã hai tuần em không được gặp mặt người ốm và những thay đổi trên mặt cha khiến em kinh hoàng.
- Hôm nay cha thấy đỡ hơn, - Bê-a-ta nói vội, - nhưng cha mới chỉ cho phép con đứng ở cửa thôi. Vài hôm nữa cha sẽ dậy được và hai cha con sẽ lại cùng nhau nào rừng, con nhé.
- Con yêu của cha, dạo này con ra sao? - Ôc-sa hỏi con.
- Cám ơn cha. Mà cha biết không, cái cây bạch dương con cạnh Si-vư Ru-trai đã bị nước rửa trơ rễ ra rồi đấy!
- Nước rửa trơ ra rồi à?
- Vâng. Bác Ma-kô-oa bảo rằng nó sẽ đổ ngay bây giờ cho xem. Bác ấy còn bảo rằng anh Grư-sca, con trai bác ấy, hôm qua trông thấy bốn con nai ở chỗ suối cạn Ha-nin-xki ấy. Chúng nó đi thành hàng một nối đuôi nhau, cha ạ.
- Chắc chúng nó từ Rừng Đỏ sang.
- Vâng, bác Mi-kô-oa cũng bảo thế.
- Thế con chưa quên hết môn thực vật và vật lý đấy chứ? - Chàng mỉm cười hỏi.
- Còn lâu, cha ạ! - Cô bé khẳng định và để chứng minh điều đó cô bắt đầu kể ra những gì cô đã tự học được. Sau một lúc trò chuyện Ôc-sa gửi cho con một cái hôn gió để chia tay.
Tay chàng gầy và trắng một vẻ thiếu tự nhiên. Khi Ma-rư-sia đã ra, chàng nói:
- Con bé lớn nhanh thật. Mới mười hai tuổi mà nom đã gần bằng em rồi. Năm tới chúng mình sẽ phải gởi con đến trường thôi. Anh hi vọng rằng rốt cuộc công tước phu nhân cũng sẽ được phép đốn gỗ và khi ấy chúng ta sẽ lại vững vàng.
- Cầu Chúa ban cho. Cốt sao anh khỏe thật nhanh.
- Phải, phải - chàng hăng hái tán đồng, - anh sẽ phải khỏe để lo công chuyện. Nếu không chặt hạ, anh đã quyết định sẽ tìm một chỗ làm khác. Phải rời bỏ Rừng đại ngàn O-đrưn-ke-xka thì thật là nặng nề, nhưng Ma-rư-sia đã lớn rồi. Đó là điều quan trọng nhất.
Chàng hơi trầm ngâm rồi lát sau chàng hỏi:
- Em lại phải tiêu khá nhiều tiền thuốc thang phải không?
- Anh đừng lo chuyện ấy.
- Em biết không, anh cứ nghĩ nếu rằng bây giờ anh chết đi thì sau khi lo ma chay, em sẽ còn lại chẳng được mấy tí tiền nong. Điều đó hành hạ anh nhiều hơn cả... Có bán đồ gỗ trong nhà thì em cũng chỉ đủ sống được một năm thôi. Nhất là những tấm thảm tranh cổ kia. Hình như chúng cũng có giá trị đấy.
- Anh Ja-ku! Anh nói gì thế! - Nàng kêu lên trách móc.
- Không, anh chỉ nhắc lại những gì anh suy nghĩ đó thôi. Anh cũng nghĩ rằng trong trường hợp anh làm sao em có quyền nhắc người ta cấp một khoản tiền nào đó cho Ma-rư-sia. Anh không nghĩ là Vin-tru-rơ sẽ lại tìm được về. Nếu không, hẳn người ta đã viết trên báo. Chắc phải có một ai khác quản lý tài sản của ông ta, và Ma-rư-sia có quyền hưởng tài sản đó.
Mặt Bê-a-ta đỏ bừng.
- Chính anh nói thế ư, Jan-ku?! - Nàng kêu lên không giấu nổi vẻ bất bình.
Cho đến hôm nay, trong suốt năm năm qua, chưa bao giờ họ nhắc một lời nào đến giáo sư. Suốt năm năm trời, kể từ khi chàng bảo nàng gửi hết các thứ quần áo của bé Ma-rư-sia tặng một nhà nuôi trẻ nghèo nào đó.
Ôc-sa nhìn xuống.
- Anh không có quền bắt con phải sống đời nghèo khổ.
- Nhưng em không có quền chia tay xin tiền của ông ấy. Trăm lần, ngàn lần không, thà chết còn hơn. Không bao giờ, Jan-ku, anh nghe không, không bao giờ!
- Thôi được rồi, chúng mình đừng nhắc đến chuyện ấy nữa đi em. Song em thấy đấy, nếu anh không sống nổi... Khi nghĩ rằng mình sẽ chết, anh thật kinh hoàng hình dung ra những điều sẽ xảy đến cho mẹ con em.
- Em biết may, biết thêu thùa, em có thể đi dạy thêu - Em có thể làm tất cả, trừ chuyện đó. Anh hãy nghĩ lại mà xem, em còn mặt mũi nào đến gặp những người thừa kế của ông ấy để mà đòi hỏi, em, kẻ mà bọn họ... có quyền coi là kẻ đã gây nên cái chết của ông ấy. Vả lại, anh Jan-ku, tại sao chúng mình nói tới việc ấy mà làm gì? Anh thấy đỡ hơn, ơn Chúa, mọi sự sẽ tốt đẹp vô cùng.
- Hẳn rồi, em thân yêu, chắc chắn là thế, - anh áp mặt vào tay nàng.
- Anh thấy chưa! - Nàng tươi lên, - Còn bây giờ anh phải cố ngủ đi nhé. Muộn rồi.
- Ừ. Anh thấy hơi buồn ngủ.
- Chúc anh ngủ ngon. Anh duy nhất của em, chúc anh ngon giấc. Giấc ngủ sẽ cho anh thêm sức.
- Chúc em ngủ ngon, niềm hạnh phúc của anh.
Nàng che đèn, quấn mình trong tấm chăn và ngả người trên ghế xô-pha. Nhưng mười lăm phút sau này chợt nhớ ra còn phải cho anh uống thuốc nước trước khi đi ngủ.
Nàng nhổm dậy, đếm đúng mười hai giọt thuốc bốc mùi crô-zôt, rót thêm nước, rồi cúi xuống phía người ốm.
- Jan-ku, - nàng khẽ gọi anh, - anh uống thuốc đã này.
Chàng không tỉnh. Nàng nhẹ nhàng chạm vào tay anh và cúi xuống người phía anh.
Và lúc ấy nàng nhìn thấy đôi mắt anh đang mở trừng trừng.
Anh không còn sống nữa.
------------------------------------------
(15) Tức Ja-nếch, gọi thân mật (N.D)
(16) Tên thân mật của Ma-ri-ô-la
CHƯƠNG V
Đúng chính giữa quãng đường từ Ra-đô-li-xki đi Nhe-xku-pa, từ thuở xa xưa nào đó không ai nhớ nổi, đã có một chiếc cối xay chạy bằng sức nước. Ngày trước, nó là tài sản của các cha thuộc dòng Ba-zi-li ở tu viện Vi-xku-nư được dựng lên vào triều vua Ba-to-rư (17), còn bây giờ là tài sản của ông Prô-cốp Sa-pi-en, người cả vùng đều gọi là Prô-cốp Mi-en-nhich theo tiếng Bạch Nga (18).
Đất đai trong vùng không quá giàu có cũng chẳng quá phì nhiêu, chỉ là đất thường trồng khoai tây, hắc mạch, chủ yếu thuộc về các quí tộc nhỏ và nông dân, song ông Prô-cốp vẫn không thiếu lúa mạch để xay, vì trong vùng chẳng hề có ai cạnh tranh, nếu không kể đến cái cối xay gió nằm cách đấy năm cây số, tại làng Bi-e-rơ-vin-tư của người Lít-va. Chiếc cối xay gió nằm cách đấy năm cây số, tại làng Bi-e-rơ-vin-tư của người Lít-va. Chiếc cối xay gió kia thì lại chẳng đủ phục vụ cho tám mươi nóc nhà, bởi người Lít-va nối tiếng là giỏi canh, và chẳng phải là một người biết thu hoạch từ năm đê-xia-chin (19) ruộng một lượng thóc lúa nhiều hơn nông dân Bạch Nga thu từ bẩy hoặc tám đê-xia-chin.
Ở Nhe-xku-pa cũng thế, Ở đó có họ hàng nhà Mô-xka-le, những người theo cựu giáo, ngày xưa từ Nga di cư tới đây. Tất cả đều là những nông dân to lớn, khỏe mạnh, lam làm, họ có thể theo cày từ mờ sang đến chập tối, mà họ cày rất sâu. ở Bi-e-rơ-vin-tư người ta cũng chẳng cày sâu đến thế. Còn ở Ra-đô-li-xki thì cũng giống như ở mọi thị trấn khác, có dân Do Thái, họ chuyên nghề thu mua trên qui mô nhỏ ngũ cốc từ các làng xa để cung cấp cho đám thị dân cũng như để tải đi Vin-nô. Nhờ họ, ông Prô-cốp cũng có thêm việc làm. Vì vậy ông chẳng có gì phàn nàn, và chỉ cần không có hạn hán, chỉ cần không thiếu nước trong các đầm chứa thì quả thực ông cũng chẳng có lý do mà ta than. Mà hạn hán thì rất hiếm hoi tại vùng này, thảng hoặc nếu có chăng cũng chẳng rõ nó phải kéo dài đến bao lâu mới không đủ nước cho cặp bánh xe. Bởi mặc dù các đầm chứa được đào từ vài trăm năm trước, nhưng rất sâu và vững chãi, cứ mươi năm lại được vét bùn một lần để khỏi bị lay sậy mọc lấn.
Có ba đầm chứa tất cả. Hai cái thượng và một cái hạ. Quanh các đầm đều có những cây liễu mọc dày. Độ chênh mực nước so với đầm khá lớn, quãng hai xa-gien (20), ngoài máng dẫn chính đưa nước và bánh guồng còn có thêm hai cống xả lũ nữa để phòng khi lụt. Trong các đầm cá nhiều vô kể; nào cá đáy, cá tuyết sông, cá rô, nhưng thiếu nhất vẫn là cá bống. Tôm cũng không thiếu. Trong những hố sâu dưới lòng những bộ rễ cây đã bị nước rửa trôi đất, chúng tụ tập cả hàng trăm con. Hai chàng thợ phụ của ông Prô-cốp, nhất là anh chàng Kzi-uc trẻ tuổi hơn, rất thích bắt tôm. Nó đứng ngâm trong đất sâu ngập đến gối, cứ mỗi lần cúi người xuống, thò tay vào hang sâu tới khuỷu hoặc hơn một chút là lại lôi ra được một chú tôm.
Thực ra chẳng có ai trong cối xay biết ăn tôm, người ta coi chúng như loài sâu bọ, nhưng trong thị trấn, ở Ra-đô-li-xki, lúc nào cũng có thể bán chúng được ngay: cả cha cố thiên chúa giáo, cả cha cố chính giáo, lẫn ông đốc tơ, nhất là ông này - đều là những người thích chén tôm. Ông thích được trả công ba chục tôm hơn là hai chục trứng hay ba zuốt-ty.
Trong cái nhà máy ở cách thị trấn chừng mười hai vi-o-rơ-xta (21) cũng không thiếu những người nghiện tôm nhưng muốn đến đấy phải có dịp. Đi bộ thì quá xa, mà ngựa thì ông Prô-cốp chẳng bao giờ chịu cấp cho những chuyện vớ vẩn như thế, dù đó là con nghẽo đã già nua tuổi tác và béo ị như lợn. Thì thức ăn cho nó có bao giờ thiếu đâu. Chỉ nguyên đứng một chỗ thôi nó cũng luôn phải đổi chân và kêu rừ rừ ầm ĩ cả chuồng. Chuồng gia súc rất lớn, vững chãi, được xây dựng bằng những thanh tròn lớn. Ngoài con ngựa ra còn có hai con bò sữa và lũ lợn trong các ngăn nữa. Cả chiếc xe và cỏ khô cũng được chứa dưới mái che.
Ngôi nhà được xây kế vào cối xay. Nhà có ba buồng trong đó ông Prô-cốp sinh sống cùng gia đình và những người phụ việc, ngoài ra còn một nhà ngang hoàn toàn mới mà ông làm cho con trai cả, anh An-bin khi An-bin định lấy vợ. Từ khi An-bin chết đi, nhà ngang vẫn để trống, vì đứa con thứ hai vừa dọn xuống đó hôm trước thì hôm sau đã gặp ngay tai họa. Người ta đồn rằng chắc có ai đó đã yểm bùa vào ngôi nhà ấy hoặc đã liếc cặp mắt độc vào móng nhà. Không biết có thật thế không, có điều chẳng ai muốn vào ở đó, mặc dù cũng có những kẻ nói vụng nói trộm rằng không phải cái nhà ngang bị yểm bùa độc mà chính Đức Chúa đã trừng phạt hậu duệ ông Prô-cốp Mi-en-nhich vì tội ông đã đuổi em ruột của mình đến nỗi phải bị gậy ra đi. Những lời bàn tán vụng trộm ấy khiến ông Prô-cốp tức tối kinh khủng. Ông không tài nào chịu nổi và không ít kẻ vì nỗi ngờ vực của mình đã bị ông trừng trị nặng nề.
Nhưng chắc hẳn trong chuyện đó cũng phải có một cái gì đó. Bởi lẽ ông Mi-en-nhich có tới ba anh con trai. Anh con thứ bị chết trận, anh con cả thì ngay trước đám cưới say rượu bước nhầm xuống mặt băng, băng vỡ, anh bị chết đuối. Còn đứa con trai út, khi đang đóng chiếc chêm vào cối ở tít trên cao thì bị ngã, may mà chưa mất mạng, nhưng bị gãy cả hai chân. Người ta đưa bác sĩ đến, bác sĩ cố định hai chân anh ta vào ván, nhưng cũng chẳng ích gì. Anh đành chịu cảnh tàn tật suốt đời, không thể đi lại được. Đã suốt năm tháng trời nay anh chỉ nằm hoặc ngồi chẳng làm được một việc gì cả, mới mười tám tuổi đã trở thành gánh nặng cho cha.
Cô con gái cả cũng chẳng khiến cho ông Mi-en-nhich vui sướng gì. Cô ta lấy chồng làm thợ cả ở xưởng gạch nhưng anh thợ cả nọ bị chết trong một trận hỏa tai, còn cô, đang lúc bụng mang dạ chửa nên sinh một đứa bé bệnh hoạn, mắc chứng động kinh.
Chính vì thế mà ông lão Prô-cốp cứ âm thầm như đêm tối, nhìn ai cũng gườm gườm, mặc dù mọi người vẫn ghen với gia tài của ông, dù cái cối xay chẳng phải nghỉ việc bao giờ, còn bản thân ông chưa có điều gì phải kêu ca về sức khỏe.
Năm ấy, đến mùa thu ông lại có thêm một chuyện lo phiền nữa: anh chàng thợ phụ trẻ nhất Ka-zi-uc, bị bắt sung vào lính. Ông lão Prô-cốp không muốn lấy một kẻ vớ vẩn nào đó thay chân anh ta. Công việc ở cối xay đòi hỏi phải có trách nhiệm, phải thận trọng và có sức khỏe. Một tay mục đồng tầm thường không thể đảm đương nổi. Ông lão cứ cân nhắc mãi, cuối cùng chọn được gã Ni-nit-ka Rô-ma-nhi-uc ở làng Pô-bê-rê-diê. Cha Ni-nit-ka có hai con trai đã có vợ con, còn thằng trẻ nhất ông muốn cho lên phố kiếm việc làm. Nó vốn là thằng có sức khỏe, biết việc, thậm chí có bằng tốt nghiệp nữa kia.
Ý đã quyết, hôm thứ năm, đúng ngày phiên chợ tại Ra-đô-li-xki, ông lão Prô-cốp chuẩn bị lên đường. Từ cối xay đến xưởng cưa cũng chẳng xa xôi gì, chưa đến một vio-rơ-xta. Mà trên đường thì nông dân đang lũ lượt kéo đi chợ phiên. Xe ngựa và xe kéo nối theo nhau. Ai cũng chào ông Mi-en-nhich, bởi lẽ mọi người đều biết ông. Cũng có những kẻ không hãm ngựa lại, vừa chào vừa tò mò liếc xem ông lão đón nhận sự trừng phạt của Chúa giáng xuống đứa con trai út của ông, cậu Van-sin-ka ra sao. Nhưng qua nét mặt của ông Prô-cốp không thể nhận ra một điều gì hết. Cũng như mọi khi, ông chỉ nhíu mày và nhúc nhích bộ râu cằm nhọn hoắt đã nhuốm bạc của mình.
Cuối cùng, ông Rô-ma-nhi-uc cũng tới. Chắc hẳn ông đi chợ sắm sửa, bởi xe ông rỗng không, đằng cuối xe là mụ vợ.
Lão Prô-cốp vẫy tay chào rồi bước theo cạnh xe. Họ xiết chặt tay nhau.
- Thế nào, đằng ấy ra sao? - Ông Rô-ma-nhi-uc hỏi. Bác vẫn đang tự vỗ béo đấy chứ, người anh em?
- Tôi đang sống nhờ lượng Chúa. Nhưng cũng có điều đang lo nghĩ đây.
- Tôi có nghe nói.
- Không phải chuyện ấy. Có điều người ta lôi thằng Ka-zi-uc vào lính?
- Lôi vào lính à?
- Ừ, vào lính.
- Thế đấy?...
- Ừ. Mà bác biết đấy, chỗ tôi kiếm tiền cũng khá. Người làm công chẳng những không bị đói mà còn để dôi ra được ít nhiều.
- Thì hẳn rồi, - ông Rô-ma-nhi-uc thừa nhận.
- Tôi có nghĩ, thằng bé Ni-nit-ka nhà bác có thể làm việc ấy chăng.
- Sao không?
- Nào, thế thì sao?
- Sao cái gì?
- Nào, thì việc thằng Ni-nit-ka ấy?
- À, để nó đến chỗ ông làm phải không?
- Ừ. Ông Rô-ma-nhi-uc gãi đầu, trong đôi mắt bạc màu nhỏ bé của ông thoáng lên niềm vui. Song ông cũng vẫn nói bằng giọng dửng dưng.
- Thằng bé khỏe đấy...
- Vậy thì ơn Chúa, - lão Prô-cốp vội lẩm bẩm nhu thể sợ ông Rô-ma-nhi-uc chợt nảy ra ý định hỏi thăm sức khỏe thằng Va-sin nhà lão chăng, - Có điều nó phải đến đúng thứ sáu tuần tới, vì thứ sáu thằng Ka-zi-uc phải đi rồi.
- May mà ông nói, người anh em ạ, vì hiện nó không có nhà. Nó đang đi Ô-smi-an.
- Tìm việc à?
- Đúng vậy.
- Nhưng nó sẽ về chứ?
- Sao lại không về? Chốc nữa, tới Ra-đô-li-xki tôi sẽ gửi bưu thiếp cho nó.
- Vậy thì hay lắm. Để sao cho thứ sáu...
- Tôi hiểu rồi.
- Bây giờ công việc nhiều, tôi không kham nổi nếu thiếu người làm, - ông Prô-cốp nói thêm.
- Nó sẽ đến đúng hẹn.
- Chào bác.
- Chào ông.
Ông Rô-ma-nhi-uc lúc lắc dây cương, điều mà thực ra cũng chẳng làm cho con ngựa nhỏ bé lông xám bụng ỏng phải để ý, và ông chìm trong những suy nghĩ đầy thỏa mãn. Thật là một phần thưởng lớn, khi mà trong ngần ấy người, lão Mi-en-nhich đã chọn chính con trai ông.
Ông quay người lại nhìn vợ. Tấm khăn san dày dặn phủ kín cả đầu bà, chỉ còn nom thấy mỗi mắt và mũi.
- Ông Mi-en-nhich lấy thằng Ni-nit-ka của ta đấy - ông nói.
Bà vợ thở dài.
- Chúa tôi, lạy chúa tôi!...
Không rõ bà mừng vui hay lo lắng. Vả lại, ông Rô-ma-nhi-uc cũng chưa bao giờ suy nghĩ kỹ về chuyện đó. Giọng bà vốn đã rền rĩ thế rồi.
Còn ông lão Prô-cốp cũng mừng. Ông rất không thích đổi thay và những chuyện lo lắng. Thế là việc đã giải quyết xong. Ít nhất thì ông cũng tưởng thế cho đến tận tối thứ sáu.
------------------------------------
(17) Dòng Bazili là một dùng tu chinh giáo của đàn ông, được lập ta từ thế kỷ IV, dựa theo giáo lý của Bazili (330-379). Vua Stefan Batory (1533-1586), lễ đăng quang năm 1576, người có nhiều công trong lịch sự dân tộc Ba Lan. (N.D)
(18) Mielnik - tiếng Bạch Nga nghĩ là "chủ cối xay". (N.D)
(19) Đê-xia-chin - đơn vị diện tích ruộng đất cổ của Nga (N.D)
(20) Đơn vị đo độ dài cổ, bằng chiều dài một sải tay. Ở Ba Lan, mỗi xagien dài từ 1, 728 đến 1, 729m (N.D)
(21) Đơn vị đo độ dài cổ ở Nga bằng 1066, 8m. (N.D)
Hôm ấy, ông sửa soạn đóng cửa cối xay muộn hơn thường lệ. Ông cứ chờ mãi. Người nhà không hiểu tại sao ông lại cáu bẳn thế, vì ông chẳng nói với ai nửa lời. Nhưng trong lòng ông thì sôi sùng sục. Thì chính ông đã nói rõ ràng rằng nó phải đến đúng vào ngày thứ sáu kìa mà, thằng Ka-zi-uc đi mất rồi. Từ ngày mai, việc sẽ bừa ra đấy, thế mà ở đây cứ phải đứng chờ, có bực không kia chứ!
- Mày cứ đợi đấy, đồ chó con mất dạy, - lão khẽ rầm rừ, tay xoắn xoắn bộ râu. Lão thề độc trong bụng sẽ không thèm nhận nó nữa, dù nó có đến ngay sáng sớm tinh mơ ngày mai. Thứ bảy không phải là thứ sáu. Tốt nhất cứ lấy một người ngoài đường, dù là kẻ cắp, còn hơn chịu nhận Ni-nit-ka.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook THẦY LANG.