• 390

5.4. Bóng tiền


Số từ: 1977
Dịch giả: Nguyễn Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Trẻ
S
ự nổi lên của thị trường kỷ vật, quyền đặt tên và ghế thượng hạng trong thể thao vào những thập niên vừa qua đã cho thấy xã hội chúng ta đang đi theo hướng thị trường. Một ví dụ nữa phản ánh tư duy thị trường trong thể thao là hiện tượng bóng chày đã dần biến thành
bóng tiền
. Thuật ngữ này xuất phát từ cuốn sách bán chạy nhất năm 2003 của Michael Lewis, giúp người đọc hiểu rõ hơn thế giới tiền bạc liên quan đến bóng chày. Trong cuốn sách Bóng tiền: Nghệ thuật chiến thắng trong trận đấu không công bằng
(Moneyball: The Art of Winning an Unfair Game), Lewis đã mô tả Oakland Athletics, một đội bóng nhỏ, không đủ tiền thuê những ngôi sao đắt tiền về chơi đã thành công như thế nào khi có số trận thắng bằng với đội New York Yankees giàu có cho dù số tiền lương Oakland phải bỏ ra chỉ bằng một phần ba.
Đội A [Oakland Athletics], dưới sự dẫn dắt của Billy Beane, đã trở thành một đội bóng có khả năng cạnh tranh dù không có cầu thủ đắt tiền nhờ sử dụng công cụ phân tích thống kế để tìm ra những cầu thủ có kỹ năng tốt nhưng bị đánh giá thấp, đồng thời họ áp dụng những chiến thuật có vẻ trái với truyền thống. Ví dụ, họ phát hiện ra rằng để giành thắng lợi thì tỷ lệ phần trăm số lần cầu thủ đánh bóng về chốt thành công (OBP) còn quan trọng hơn tỷ lệ đánh bóng ghi điểm (AVG) hoặc tỷ lệ số lần về chốt thành công cộng số lần ghi điểm trên số lần đánh bóng (SLG). Nên họ không tuyển những người được ca ngợi là các cầu thủ đánh bóng giỏi mà họ tìm những người buộc cầu thủ ném bóng ném lỗi nhiều nhất. Hoặc theo quan điểm truyền thống, đội nào chiếm được chốt nhiều thì sẽ thắng, nhưng Oakland Athletics lại nhận thấy chiếm chốt nhìn chung làm giảm khả năng ghi điểm. Nên họ không khuyến khích các cầu thủ, dù là người chạy nhanh nhất chạy đến chiếm chốt. Chiến thuật của Beane đã thành công, ít nhất cũng trong một thời gian nhất định. Năm 2002, khi Lewis theo dõi Oakland Athletics thi đấu, đội bóng đã xếp hạng nhất bảng miền tây của giải. Mặc dù họ bị thua trong trận quyết định, nhưng họ đã viết nên một huyền thoại về David đối đầu với Goliath: một đội bóng nghèo, lép vế đã sử dụng trí thông minh và công cụ kinh tế lượng hiện đại để đấu lại với những đội bóng giàu có, hùng mạnh như Yankees. Theo lời kể của Lewis, đây cũng là một bài học cho thấy các nhà đầu tư khôn ngoan đã khai thác tính phi hiệu quả của thị trường như thế nào. Billy Beane đã đem đến cho bóng chày cái mà thế hệ các nhà kinh doanh bằng công cụ định lượng đã đem đến cho Wall Street: tận dụng khả năng phân tích dựa trên máy tính để chiếm ưu thế trước đối thủ kỳ cựu, những người ra quyết định dựa vào bản năng và kinh nghiệm cá nhân [297].
Năm 2011, cuốn sách Bóng tiền
được Hollywood chuyển thể thành phim với Brad Pitt đóng vai Billy Beane. Bộ phim khiến tôi ớn lạnh. Ban đầu tôi không hiểu tại sao. Brad Pitt rất quyến rũ và đầy thuyết phục, như mọi khi. Vậy tại sao bộ phim lại làm tôi không hài lòng đến thế?
Một phần vì nó bỏ qua ngôi sao của đội bóng – ba cầu thủ ném bóng trẻ xuất sắc và một cầu thủ chặn bóng xuất sắc nhất mọi thời đại, Miguel Tejada – và chỉ tập trung khắc họa những cầu thủ bình thường, được Beane mời ký hợp đồng vì giỏi buộc đối phương ném bóng lỗi. Nhưng tôi nghĩ lý do thật sự là: thật khó mà đứng dậy và vỗ tay chào mừng thắng lợi của phương pháp định lượng và cơ chế đặt giá hiệu quả – những người hùng thực sự trong phim, chứ không phải các cầu thủ [298].
Thực tế là tôi có biết ít nhất một người thấy cơ chế đặt giá hiệu quả mang lại cảm hứng – người bạn, người đồng nghiệp của tôi, Larry Summers (nhà kinh tế học với bài giảng vào buổi sáng về kinh tế hóa lòng vị tha mà tôi đã nhắc đến). Trong một bài nói chuyện vào năm 2004, khi còn là hiệu trưởng Đại học Harvard, Summers đã nhắc đến Bóng tiền
như một ví dụ minh họa cho
cuộc cách mạng tri thức quan trọng đã diễn ra trong suốt 30 hoặc 40 năm qua
: sự nổi lên của khoa học xã hội, đặc biệt là kinh tế học
như một môn khoa học thực thụ
. Ông phân tích câu chuyện
một huấn luyện viên bóng chày hết sức khôn ngoan đã thuê một tiến sỹ kinh tế lượng
để tìm xem kỹ năng và chiến thuật nào giúp một đội bóng chiến thắng. Summer thấy trong thành công của Beane thấp thoáng một chân lý lớn hơn: cách tiếp cận bóng chày kiểu bóng tiền chính là bài học cho tất cả mọi người:
Cái gì đúng với bóng chày thì cũng đúng với nhiều lĩnh vực khác rộng lớn hơn trong đời sống của con người
.
Theo quan điểm của Summer, còn có nơi nào mà cách tiếp cận khoa học kiểu bóng tiền chiếm ưu thế? Là lĩnh vực quản lý môi trường, nơi
các nhà hoạt động xã hội tích cực và các luật sư
đang tìm cách tạo cơ hội cho
những người có kỹ năng thực hiện được phân tích lợi ích – chi phí
. Là các chiến dịch vận động tranh cử tổng thống, nơi các luật sư trẻ tài năng trước đây chiếm vị trí quan trọng, còn hiện tại họ không cần thiết bằng
các nhà kinh tế học, các thạc sỹ quản trị kinh doanh xuất sắc
. Và là Wall Street, nơi hiểu biết về máy tính, kiến thức về định lượng đang thay thế những người giao tiếp giỏi, và họ cũng đang phát minh ra những loại chứng khoán phái sinh mới. Summers nhận thấy
trong 30 năm qua, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư đã thay đổi, từ một lĩnh vực thuộc về những cá nhân giỏi tiếp xúc với khách hàng ở lỗ thứ 19 trên sân golf thành lĩnh vực của những người giải được những bài toán cực kỳ phức tạp liên quan đến định giá chứng khoán phái sinh
[299].
Đây chính là thắng lợi rõ nét của tín ngưỡng thị trường – tín ngưỡng bóng tiền, chỉ bốn năm sau cuộc khủng hoảng tài chính.
Các sự kiện sau đó cho thấy hóa ra nó không thực sự tốt, không tốt cho cả nền kinh tế lẫn cho Oakland Athletics. Lần cuối cùng đội A có mặt trong trận đấu quyết định là năm 2006, và họ không thắng một mùa giải nào cho đến nay. Nói một cách công bằng thì không phải vì chiến thuật bóng tiền không hiệu quả, mà vì nó đã trở nên phổ biến. Một phần nhờ cuốn sách của Lewis, các đội bóng khác, kể cả những đội có nhiều tiền, đã biết tầm quan trọng của việc ký được hợp đồng với cầu thủ đánh bóng có tỷ lệ về chốt thành công cao. Năm 2004, những cầu thủ này không còn là món hời vì lương của họ đã tăng mạnh. Lương của những cầu thủ có phẩm chất kiên nhẫn chờ đợi ở căn cứ và buộc đối thủ ném hỏng nhiều đã phản ánh đúng đóng góp của họ cho chiến thắng của đội bóng. Mức giá phi hiệu quả trên thị trường mà Beane từng khai thác đã dần không còn tồn tại nữa[300].
Cuối cùng, bóng tiền không còn là chiến thuật dành cho các đội bóng nhỏ, ít nhất là trong dài hạn. Các đội bóng giàu cũng có thể thuê chuyên gia thống kê và trả lương cho các cầu thủ mà nhà thống kê gợi ý cao hơn so với các đội bóng nhỏ. Boston Red Sox, một trong những đội bóng trả lương cao nhất, giành chức vô địch quốc gia năm 2004 và 2007 dưới sự lãnh đạo của một ông chủ và một huấn luyện viên đều là tín đồ của bóng tiền. Sau khi cuốn sách của Lewis được xuất bản, tiền ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn – chứ không hề kém đi – trong việc làm tăng khả năng chiến thắng của các đội bóng [301].
Kết quả này không trái với dự báo của lý thuyết kinh tế. Nếu các tài năng bóng chày được đánh giá đúng thì đội bóng có nhiều tiền để trả lương cho các cầu thủ nhất sẽ có khả năng đạt kết quả tốt nhất. Nhưng nó dẫn tới một câu hỏi lớn hơn. Bóng tiền giúp bóng chày hiệu quả hơn – dưới góc độ kinh tế. Nhưng bóng tiền có làm bóng chày hay hơn không? Có lẽ là không.
Hãy xem bóng tiền đã thay đổi diễn biến một trận đấu như thế nào: thời gian đứng đánh bóng dài hơn, nhiều cú ném bóng hỏng hơn, nhiều cú ném bóng về căn cứ nhà hơn, nhiều lần đổi cầu thủ đánh bóng hơn, ít cú bỏ bóng tự do hơn, ít pha va chạm trên đường đến các chốt hơn, ít cú chặn bóng bằng gậy hơn, ít lần chiếm chốt hơn. Thật khó mà coi đây là thay đổi tích cực. Một hành động kéo dài thời gian đánh bóng khi các cầu thủ chạy đã có mặt ở tất cả các chốt hay một tỷ số hòa ở cuối lượt đấu thứ chín đều là những khoảnh khắc kinh điển trong bóng chày. Nhưng một trận đấu có quá nhiều pha kéo dài thời gian đánh bóng và quá nhiều pha đi bộ do ném bóng hỏng thì thật chán ngắt. Bóng tiền không phá hoại bóng chày, nhưng cũng như thị trường đã vươn tới nhiều lĩnh vực trong thời gian gần đây, bóng tiền làm giảm chất lượng các trận đấu.
Ví dụ trên đây minh họa cho điều mà tôi đã chứng minh với nhiều sự vật, hiện tượng khác từ đầu cuốn sách: làm cho thị trường hiệu quả hơn không có ý nghĩa gì lắm. Câu hỏi thực sự phải đặt ra là: áp dụng cơ chế thị trường thế này hay thế kia sẽ cải thiện hay làm hư hỏng loại hàng hóa đang được trao đổi. Đây là câu hỏi cần được đưa ra không chỉ trong bóng chày mà cả trong xã hội mà chúng ta đang sống.
∞ ∞ ∞ ∞ ∞
[297] Adam Sternbergh,
Billy Beane trong ‘’Bóng tiền’ từ bỏ kết thúc kiểu Hollywood của chính ông
, New York Times Magazine, 21/9/2011.
[298] Tài liệu đã dẫn; Allen Barra,
Huyển thoại ‘Bóng tiền’
, Wall Street Journal, 22/9/2011.
[299] Chủ tịch Lawrence H. Summers,
Bài giảng Marshall J. Seidman thường niên thứ tư về chính sách y tế
, Boston, 27/4/2004. www.harvard.edu/president/ speeches/summers_2004/seidman.php.
[300] Jahn K. Hakes và Raymond D. Sauer,
Đánh giá dưới góc độ kinh tế về giả thuyết bóng tiền
, Journal of Economic Perspectives 20 (Mùa hè 2006): trang 173– 85; Tyler Cowen và Kevin Grier,
Kinh tế học bóng tiền
, Grantland, 7/12/2011, www.grantland.com/story/_/id/7328539/the-economicsmoneyball.
[301] Cowen và Grier,
Kinh tế học bóng tiền
.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Tiền không mua được gì?.