• 198

Phần III - Chương 12: Quái thú Ukufa


Số từ: 12487
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 6 giờ 19 phút sáng
Vịnh Richards, Nam Phi
Lisa theo dõi thấy chân Painter run run khi họ leo lên bậc tam cấp tới văn phòng địa phương của Viễn thông Quốc tế Anh quốc. Họ tối đây để gặp một đặc vụ người Anh, người đã hỗ trợ về hậu cần và mặt đất cho bất cứ cuộc tấn công nào trên khu vực đồn điền Waalenberg. Công ty Viễn thông chỉ cách sân bay ở cảng Richards - một cảng lớn nhất nằm dọc bờ biển phía nam của Nam Phi - một quãng taxi ngắn. Nó chỉ cách đồn điền một giờ chạy ô tô.
Painter nắm tay vịn đi, để lại một dấu tay ẩm. Cô nắm lẩy khuỷu tay anh và đỡ anh lên bậc cầu thang cuối cùng.
— Tôi làm được mà, - anh nói hơi có vẻ nhát gừng.
Cô không đối đáp với vẻ cáu giận của anh, vì biết rằng nó nổi lên như bong bóng từ sâu thẳm nỗi lo lắng.
Anh cũng đang chịu đau nhiều. Anh vẫn đang bóp thuốc Codeine từ vỉ ra nhai liên tục như ăn kẹo sôcôla M&M. Anh tập tễnh bước tới cánh cửa Công ty Viễn thông.
Lisa hy vọng thời gian nghỉ ngơi trên máy bay sẽ giúp anh lấy lại sức, nhưng dù có gì thì nửa ngày trên không trung cũng chỉ làm tình trạng suy nhược… thoái hóa của anh thêm tiến triển, nếu tin đúng những lời Anna nói.
Người phụ nữ Đức và Gunther vẫn ở sân bay, dưới tầm gác. Không phải canh gác là cần thiết. Anna bị nôn suốt một giờ bay cuối trong nhà tắm của chiếc phản lực. Khi họ đã rời khỏi máy bay, Gunther bế Anna vào một chiếc ghế băng dài, đắp cho mụ một chiếc khăn ướt lên trán. Mắt trái mụ đỏ vằn tia máu trông đau lắm. Lisa đã đưa cho mụ một viên thuốc chống nôn và tiêm một mũi moc - phin giảm đau.
Mặc dù Lisa không nói ra lời, cô ước tính rằng Anna và Painter giỏi lắm cũng chỉ còn một ngày nữa là cùng trước khi họ vô phương cứu chữa.
Major Brooks, người hộ tống duy nhất, mở cửa trước cho họ. Mắt anh liếc nhanh xuống đường phía dưới, cực kỳ thận trọng, nhưng chẳng mấy ai ngoài đường vào giờ sáng sớm như thế này.
Painter bước qua cửa, chân tay cứng đơ, cố che giấu dáng tập tễnh.
Lisa theo sau. Chỉ vài phút, họ đã bước qua khu thường trực, ngang qua một nơi rộng có các văn phòng và phòng nghỉ, rồi bước vào một phòng họp lớn.
Phòng họp trống không. Bức tường của cửa sổ phía sau nhìn ra vịnh Richards. Phía bắc căn phòng trải dài ra cảng nơi có những chiếc cần trục và những tàu chở côngtennơ. Phía nam căn phòng, chia tách bởi thành tường biển, trải rộng một phần của vụng biển chính, bây giờ là khu bảo tồn, công viên, nơi cư ngụ của cá sấu, cá mập, hà mã, bồ nông, chim cốc, và chim hồng lạc thường trực ở đây.
Mặt trời đang lên cao, biến mặt nước bên dưới thành một chiếc gương đỏ rực.
Trong lúc họ ngồi đợi, người ta bưng trà cùng bánh nướng vào phòng và bày rải trên bàn. Painter đã yên vị trong một chiếc ghế. Lisa ngồi xuống cùng anh. Major Brooks vẫn đứng, không cách xa cửa ra vào.
Mặc! dù cô không hỏi gì, Painter đọc được một điều trong cách thể hiện của cô. - Anh ổn mà. .
— Không, anh không ổn đâu. - Cô nhẹ nhàng phản ứng.
Căn phòng trống không khiến cô ghê sợ vì lý do gì đó.
Anh mỉm cười với cô, ánh mắt lấp lánh. Mặc dù vẻ thoái hóa hiện ra cả bề ngoài, người đàn ông vẫn cảm thấy mình sắc sảo. Cô thoáng nhận ra vẻ líu lưỡi qua giọng nói của anh, nhưng có thể là do tác dụng của thuốc. Có phải tâm trí sẽ là thứ cuối cùng ra đi?
Dưới gầm bàn, cô với tay nắm bàn tay anh, một cử chỉ đầy tâm trạng.
Anh nắm lấy tay cô.
Cô không muốn anh đi. Sức mạnh của cảm xúc đã tràn ngập xâm chiếm lòng cô, làm chính cô ngạc nhiên. Cô chỉ vừa mới biết anh. Cô muốn biết nhiều hơn. Món ăn gì anh yêu thích, điều gì khiến anh cười vỡ bụng, anh khiêu vũ thế nào, anh sẽ thì thầm thế nào khi nói lời chúc ngủ ngon. Cô không muốn tất cả những thứ đó ra đi.
Ngón tay cô siết chặt, cứ như thể chỉ riêng ý chí của cô là có thể giữ anh lại đây.
Vừa lúc ấy, cánh cửa phòng lại bật mở. Người đặc vụ quốc vương Anh rốt cuộc cũng đã đến.
Lisa quay lại, ngạc nhiên trước nhân vật vừa bước vào. Cô hình dung trước về một phiên bản nhân giống vô tính nào đó của James Bond, một điệp viên mặc bộ com - lê Amani và trông gọn gàng oai vệ cơ. Nhưng thay vào đó, một phụ nữ luống tuổi, mặc bộ quần áo kaki đã nhăn nhúm của người đi săn, bước vào phòng. Bà ta cầm một chiếc mũ vò nhàu nhĩ trên tay. Khuôn mặt phủ một lóp bụi đỏ, trừ vùng quanh mắt là chỗ chắc hẳn trước đấy có đeo kính râm. Nó tạo cho bà một diện mạo dễ gây giật mình, cho dù có dáng điệu mệt mỏi thõng xuống hai vai và một nỗi buồn nào đó hiện lên trong mắt.
— Tôi là Tiến sĩ Paula Kane, - bà ta nói, gật đầu về phía Major Brooks khi cô bước vào, rồi bước đến và nói: - Chúng ta không có nhiều thời gian để phối hợp.

Painter đứng vươn hẳn dậy bên chiếc bàn. Một dãy ảnh vệ tinh được bày ra trên bàn.
— Những bức ảnh này chụp hồi nào? - Anh hỏi.
— Lúc nhá nhem tối hôm qua. - Paula Kain trả lòi.
Người phụ nữ này đã giải thích vai trò của bà ở đây. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ về sinh học, bà đã được cơ quan tình báo Anh tuyển dụng và được phân công làm việc tại Nam Phi. Bà và một đồng nghiệp đã tiến hành hàng loạt các dự án nghiên cứu, trong khi đang bí mật theo dõi và giám sát đồn điền Waalenberg. Họ đang bí mật theo dõi một dòng họ khoảng mười năm nay, cho đến một bi kịch xảy ra cách đây chưa đến hai ngày. Đồng nghiệp của bà đã bị giết trong hoàn cảnh kỳ lạ. Sư tử tấn công là lời giải thích chính thức. Nhưng bà ta trông chẳng mấy thuyết phục khi bà đưa ra lời giải thích này.
— Chúng tôi đã chụp hồng ngoại sau lúc nửa đêm, - Paula nói tiếp, - nhưng thiết bị không ổn định. Chúng tôi đã mất ảnh.
Painter nhìn chằm chằm vào dàn cảnh của vùng đất đồn điền rộng lớn, trải dài hàng trăm hec - ta. Nhìn thấy rõ một đường băng hạ cánh nhỏ, cắt xuyên qua một vạt rừng nhiệt đới. Những ngôi nhà phụ lấm chấm trên dải đất cao nguyên phủ rừng, những vạt cỏ bao la, và cánh rừng nhiệt đớ: rậm rạp. ở chính giữa của khu vực rừng rậm rạp nhất là một toà lâu đài bằng gỗ và đá. Dinh thự chính của nhà Waalenberg.
— Và chúng ta không có hình rõ hơn địa hình xung quanh khu lâu đài à?
Paula Kane lắc đầu.
— Khu rừng nhiệt đói này có tên là Alfromontane, một khu rừng cổ xưa. Chỉ còn vài khu rừng như thế ở Nam Phi. Dòng họ Waalenberg đã lấy khu vực này làm đất đai sinh sống của họ bởi chính sự hẻo lánh của nó và để chiếm giữ khu rừng khổng lồ này. Cái giá của khu rừng là những cây cao tới bốn mươi mét, xếp thành tầng, lớp phủ lên. Sự đa dạng sinh học của nó còn hơn bất cứ khu rừng nhiệt đới hay rừng Congo nào.
— Và nó tạo ra một tầng cách ly hoàn hảo. - Painter nói.
— Cái gì diễn ra dưới những tán cây đó chỉ có người nhà Waalenberg biết. Nhưng chúng ta biết công trình ngôi biệt thự này chỉ là một mẫu nổi của tảng băng trôi. Một tổ hợp công trình ngầm rộng lớn nằm ngay bên dưới vùng đất này.
— Sâu bao nhiêu? - Painter hỏi, nhìn Lisa. Nếu chúng đang tiến hành thí nghiệm với Cái chuông ở đây, chúng sẽ muốn chôn vùi nó đi.
— Chúng tôi không biết. Không chắc lắm. Nhưng nhà Waalenberg làm giàu bằng cách đào vàng.
— Tại mỏ Witwatersrand.
Paula liếc mắt lên nhìn anh.
— Đúng thế. Tôi thấy là anh suốt nãy đến giờ đang luyện làm bài tập ở nhà.
Bà quay trở lại chăm chú xem những bức ảnh vệ tinh.
— Cũng chính chuyên gia xây dựng công trình mỏ được sử dụng để xây dựng một tổ hợp ngầm bí mật bên dưới lâu đài của chúng. Chúng tôi biết người kỹ sư hầm mỏ, Đertrand Culbert, đã cố vấn xây dựng móng của toà nhà, nhưng ông ta đã chết không lâu sau đó.
— Để tôi đoán xem nhé. Chết trong những tình huống quái đản.
— Bị trâu giẫm chết. Nhưng cái chết của ông ta không phải là đầu tiên hay cuối cùng liên quan tới nhà Waalenberg.
Đôi mắt bà bừng giận đau đớn, đơn giản nhắc bà nhớ đến người cộng sự.
— Nhiều đồn đại về chuyện có nhiều người mất tích trong khu vực này.
— Nhưng không ai dám thực hiện lệnh khám xét khu vực này.
— Anh phải hiểu sự bất ổn chính trị ở Nam Phi. Các chế độ có thể thay đổi nhưng vàng luôn luôn thống trị ở đây. Dòng họ Waalenberg là bất khả xâm phạm. Vàng bảo vệ họ tốt hơn bất cứ hầm hào hay lực lượng quân sự riêng nào.
— Còn bà thì sao? - Painter hỏi - Mối quan tâm của MI5 ở đây là gì?
— Tôi e rằng mối quan tâm của chúng tôi quay lại một đường lối đáng kể. Cơ quan tình báo hải ngoại Anh đã chú ý đến nhà Waalenberg ngay từ khi kết thúc Thế chiến thứ Hai.
Painter thả mình lại ghế ngồi, mệt mỏi. Một mắt có vấn đề, không thể tập trung. Anh xoa xoa nó. Quá biết là Lisa đang chú ý đến mình, anh quay sang phía Paula. Anh vẫn chưa lên tiếng về việc anh khám phá ra biểu tượng Đức quốc xã được chôn trong khu vực trung tâm của vùng đồn điền Waalenberg, nhưng rõ ràng là MI5 đã biết rõ mối liên kết này.
— Chúng tôi biết Waalenberg hậu thuẫn tài chính cho Ahnenerbe Forschungs und Lehrgemeinshaft, tổ chức Hội Giảng dạy và Di sản tổ tiên của Đức quốc xã. Anh có biết đến tổ chức này không?
Anh lắc đầu, thành ra gây co thắt cơ. Cơn nhức đầu trước đó giờ đã lan xuống cổ và phóng một luồng đau xuống dọc sống lưng. Anh gắng chịu, răng nghiến chặt.
— Hội Giảng dạy và Di sản tổ tiên là một tổ chức nghiên cựu dưới sự chỉ đạo của Heinrich Himmler. Họ đã tiến hành những dự án tìm kiếm nguồn gốc của tộc người Aryan. Họ cũng chịu trách nhiệm về một số tội ác tàn bạo trong các trại tập trung và một số cơ sở bí mật khác. Cơ bản, họ là những nhà khoa học điên khùng có súng.
Painter cau mặt - đau đớn về tinh thần hơn là thể chất. Anh đã nghe Sigma miêu tả bằng một thuật ngữ tương tự. Nhà khoa học có súng . Có phải kẻ thù thật sự của họ là ở đây? Một phiên bản Quốc xã của Sigma chăng?
Lisa lên tiếng:
— Mối quan tâm của nhà Waalenberg trong tuyến nghiên cứu này là gì?
— Chúng tôi không hoàn toàn chắc lắm. Nhưng có nhiều người cảm tình với Đảng quốc xã ở Nam Phi trong chiến, tranh. Chúng tôi biết người tộc trưởng hiện nay, ngài Baldric Waalenberg, cũng quan tâm đến thuyết ưu sinh, và ông ta đã tham gia các hội nghị khoa học ở Đức và Áo trước khi xảy ra hận thù. Nhưng sau chiến tranh, ông biến vào sống ẩn dật, mang theo cả gia đình đi.
— Liếm láp những vết thương ư? - Painter hỏi.
— Chúng tôi không tin như thế. Sau chiến tranh, lực lượng quân đồng minh lùng sục khắp vùng nông thôn nước Đức, lùng sục bí mật công nghệ của Quốc xã, - Paula nhún vai, - kể cả lực lượng Anh quốc của chúng tôi.
Painter gật đầu. Anh. đã nghe Anna kể về vụ cướp bóc đó.
— Nhưng Đảng quốc xã rất giỏi cất giấu công nghệ của thực của ho, hiện chính sách vườn không nhà trông. Hành quyết các nhà khoa học, đánh bom các cơ sở. Lực lượng của chúng tôi đến được một địa điểm như ở Bavaria, song muộn vài phút. Chúng tôi phát hiện ra một nhà khoa học, bị đạn vào đầu nằm ở dưới hào, nhưng vẫn còn sống. Trước khi chết, ông tiết lộ một số manh mối về sự việc đang diễn ra. Nghiên cứu về một nguồn năng lượng mới, một năng lượng được, phát hiện thông qua thí nghiệm lượng tử. Họ đã đạt được bước đột phá nào đó. Một nguồn nhiên liệu tạo ra năng lượng phi thường.
Painter và Lisa liếc nhìn nhau, nhớ đến phần Anna nói chuyện về năng lượng điểm không.
— Cho dù khám phá ra điều gì chăng nữa, bí mật đã thoát ra ngoài, qua những con đường chuột cống do quân Quốc xã bố trí. Người ta biết rất ít về bí mật này ngoài cái tên của chất hoá học đó và nơi mà dấu vết kết thúc.
— Tại đồn điền nhà Waalenberg à? - Lisa phỏng đoán.
Paula gật đầu.
— Còn cái tên của chất hoá học? - Painter hỏi, dù đã biết trước câu trả lời trong đầu - Có phải nó được gọi là Xerum 525?
Paula sắc sảo liếc nhìn anh, nghiêm nghị đầy hoài nghi.
— Làm sao anh biết?
— Nguồn nhiên liệu của Cái chuông. - Lisa lẩm bẩm với anh.
Nhưng với Painter, điều đó có ý nghĩa. Đã đến lúc thẳng thắn với tiến sĩ Paula Kane. Painter đứng dậy.
— Có một người bà cần gặp.

Phản ứng của Anna chẳng hề kém phần căng thẳng.
— Vậy là bí mật sản xuất chất Xerum 525 đã không hề bị phá huỷ? Không thể tin nổi!
Tất cả bọn họ đều qui tụ ở sân bay vịnh Richards, túm tụm trong nhà để máy bay trong khi người ta chất trang bị và vũ khí vào hai chiếc xe tải Isuzu Trooper.
Lisa cho chạy một chương trình kiểm kê thông qua bộ đồ dung cụ y tế trong khi vẫn giám sát cuộc nói chuyện giữa Painter, Anna, và Paula. Gunther đứng bên cạnh Lisa. Những nếp nhăn hằn sâu trên trán khi y dõi theo người em gái. Anna dường như ổn định hơn sau khi uống viên thuốc mà Lisa đã đưa mụ.
Nhưng được bao lâu cơ chứ?
— Trong khi Cái chuông được chuyển về phía bắc cùng với ông của chị, - Painter giải thích với Anna. - Bí mật về Xerum 525 chắc chắn đã được chuyển về phía nam. Tách hai phần của một thí nghiệm ra. Vào lúc nào ấy, chắc hẳn phải có tin tức đến tai dòng họ Waalenberg về chuyện Cái chuông vẫn còn. Baldric Waalenberg, người hậu thuẫn tài chính cho tổ chức Hội Di sản tổ tiên, chắc phải biết về Granitschlob.
— Hội đó là một nhóm hậu thuẫn cho những đợt thám hiểm vào dãy núi Himalayas. - Paula đồng tình.
— Và ngay một khi phát hiện được, thật dễ cho Baldric luồn gián điệp vào nhóm người Granitschlob.
Khuôn mặt Anna tái nhợt hơn - và không phải vì ốm.
— Thằng con hoang đó đã lợi dụng chúng tôi! Suốt tất cả!
Painter gật đầu. Anh giải thích căn nguyên của hành động đó cho Lisa và Paula trên đường quay trở lại nhà để máy bay. Baldric Waalenberg đã chỉ đạo mọi thứ, giật dây từ xa. Không có ai lãng phí tài năng hoặc sáng chế lại cái bánh xe, hắn ta đã cho phép các nhà khoa học, các chuyên gia về Cái chuông, tiếp tục nghiên cứu, trong khi các gián điệp của hắn hút thông tin tuồn sang Nam Phi.
— Sau đó, Baldric chắc chắn đã tạo ra Cái chuông của riêng hắn, - Painter nói, - bí mật thử nghiệm, sản xuất ra những Sonnekõnige cho riêng hắn, tinh chế chúng bằng những kỹ thuật tiên tiến do các nhà khoa học của chúng ta hiện ra. Đó là một sự cài đặt chương trình hoàn hảo. Không có nguồn Xerum 525 khác, các Granitschlob bỗng trở thành dễ bị tổn thương dưới tay Baldric Waalenberg. Bất cứ lúc nào, hắn cũng có thể kéo tấm thảm đệm ra đỡ họ.
— Hắn đã làm cái nào. - Anna nhổ một bãi nước bọt.
— Nhưng tại sao? - Paula hỏi. - Nếu chuyện chỉ đạo bí mật này lại có thể thực hiện được tốt đến vậy?
Painter nhún vai.
— Có thể là bởi vì nhóm của Anna đang trôi dạt ngày càng xa lý tường Quốc xã về sự siêu việt của chủng tộc Aryan.
Anna ấn mạnh lòng bàn tay lên trán cứ như thể chống lại những gì mụ biết.
— Và rồi có chuyện bất bình… giữa một số nhà khoa học… của hướng đi chung, về việc gia nhập cộng đồng khoa học và chia xẻ nghiên cứu của chúng ta.
— Nhưng tôi không nghĩ nó chỉ như vậy, - Painter nói. - Chuyện gì đó đang như nước đến chân. Chuyện gì đó lớn hơn thế. Chuyện gì đó đột ngột làm cho Granitschlob teo đi.
— Tôi tin rằng ngài có thể đúng. - Paula nói. - Trong bốn tháng qua, hoạt động đột ngột gia tăng ở vùng đồn điền này. Điều gì đã khuấy động chúng lên.
— Bọn chúng chắc hẳn đã tự mình đạt được một bước đột phá nào đó. - Anna nói với vẻ lo lắng.
Cuối cùng Gunther nói toạc ra, cộc lốc, nghe lạo xạo như sỏi. - Đủ rồi. - với hắn thế là
đủ rồi
và hắn bực dọc vật lộn với thứ tiếng Anh của mình. - Thằng con hoang đã có Cái chuông… có Xerum… chúng ta tìm nó. Chúng ta dùng nó. - Hắn vẫy tay báo hiệu cho em gái hắn. - Nói chuyện thế đủ rồi!
Lisa tán thành nồng nhiệt, đứng về phía gã khổng lồ.
Chúng ta phải tìm đường vào bên trong. - Và ngay lập tức, cô nói thêm với chính mình.
— Phải cần đến cả một đạo quân để tấn công nơi đó. - Painter quay về phía Paula. - Chúng ta có thể trông cậy vào sự giúp đỡ nào từ phía chính phủ Nam Phi không?
Cô lắc đầu.
— Không có một cơ hội nào đâu. Nhà Waalenberg đã lót tay hối lộ chính phủ quá nhiều rồi. Chúng ta sẽ phải tìm cách bí mật xâm nhập thôi.
— Những bức ảnh vệ tinh không giúp được gì nhiều lắm.
Painter nói.
— Vậy thì chúng ta dùng công nghệ thấp. - Paula nói và dẫn họ đến chỗ hai chiếc xe Isuzu Trooper. - Chúng ta có một người hiện đang ở đó rồi.

• 6 giờ 28 phút sáng
Khamisi nằm nhoài úp bụng xuống đất. Mặc dù bình minh lên, những tia nắng đầu tiên của mặt trời mới chỉ khắc sâu thêm bóng râm dọc theo mặt đất của cánh rừng rậm nhiệt đới. Anh mặc bộ quân phục ngụy trang và đeo khẩu súng trường hai nòng to họng 465 dòng Nitro Holland và Holland Royal trên lưng. Trong tay, anh cầm một cây giáo Zulu ngắn truyền thông - ngọn lao châu Phi.
Phía sau anh là hai hướng đạo sinh người Zulu: một người tên là Tau - cháu nội của một người cao tuổi đã cứu sống Khamisi khỏi cuộc tấn công, và Njongo - bạn thân nhất của Khamisi. Họ mang theo cả súng cùng với dao dài, mác ngắn. Họ ăn mặc theo kiểu truyền thống, thân để trần, bôi trát sơn trên da và quấn dải băng da rái cá trên đầu.
Cả ba người dành cả đêm qua ở trong rừng quanh tòa lâu đài, theo kế hoạch vạch ra, tránh con đường đi bộ có bậc lên và những tên lính gác hay đi tuần tra. Họ đi theo những đường sàn cày sâu qua các bụi cây thấp, và đi men theo cùng bầy linh dương nhỏ, náu trong những bóng che. Khamisi dừng lại tại vài điểm để cột dây, nối đường đi bộ với mặt đất, ngụy trang như những cây dây leo, cùng với vài cách làm lạ khác.
Hoàn thành nhiệm vụ, anh và hai hướng đạo sinh kia tiến về phía bờ suối chảy bên dưới hàng rào ngăn thú dại bao quanh khu đồn điền.
Sau đó chỉ giây lát, anh nghe thấy có tiếng kêu hoang dại.
Hu iiiiiiiii oooo
Nó kết thúc bằng tiếng tru rít lên.
Khamisi ớn lạnh. Toàn bộ xương cốt đều nhớ lại tiếng gọi đó.
Con ukufa.
Paula Kane đã đúng. Chị ấy đã tin thứ sinh linh đó đến từ đồn điền Waalenberg. Liệu nó đã trốn hay chủ định nằm mai phục Khamisi và Marcia, chị ấy không biết nữa. Hoặc cách này hoặc cách kia thì lúc này bọn nó đang nơi lỏng, đang đi săn.
Nhưng ai?
Tiếng gọi đến từ khoảng cách phía bên trái.
Không phải đang săn họ. Những sinh linh này quả đúng là những thợ săn điêu luyện. Chúng sẽ không từ bỏ sự hiện diện của họ sớm đâu. Một thứ gì đấy đã thu hút chúng, khơi dậy dục thú khát máu.
Rồi anh nghe thấy một giọng quát to bằng tiếng Đức, một tiếng khóc nức nở cầu cứu.
Nghe gần hơn.
Thân thể anh vẫn run vì tiếng gọi, Khamisi muốn chạy đi, chạy trốn thật xa và nhanh. Đó chỉ là phản xạ thời nguyên thủy.
Tau lẩm bẩm bằng tiếng Zulu đằng sau anh, thúc giục điều tương tự.
Thay vào đó, Khasimi quay lại hướng có tiếng khóc cầu khẩn. Anh đã để mất bà Marcia cho thứ sinh linh đó. Anh vẫn còn nhớ nỗi khiếp sợ của chính mình, ngập mình dưới nước đến tận cổ trong hố bùn, đợi đến bình minh. Anh không thể lờ chuyện khác này được.
Lăn về phía Tau, Khamisi trao cho Tau tấm bản đồ vừa rút ra:
— Quay về trại. Đưa cái này cho tiến sĩ Kane.
— Khasimi… người anh em… không, chạy trốn đi.
Ánh mắt Tau mở rộng cùng với nỗi sợ hãi. Ông nội anh chắc đã kể cho anh nghe về câu chuyện của con ukufa, chuyện thần thoại biến thành chuyện đời thật. Anh đã phải làm người này và bạn mình tin. Chẳng có người nào khác tình nguyện thâm nhập đồn điền đây. Những chuyện mê tín nổi lên.
Nhưng giờ đây đối mặt với sự thật, Tau không có ý định ở lại.
Và Khamisi không thể trách cậu ta. Anh vẫn nhớ cảm giác hoảng sợ khi anh đi cùng Marcia. Thay vì giữ vị trí, anh đã vù chạy, bỏ mặc bà bác sĩ bị giết.
— Đi đi.
Khasimi ra lệnh. Anh gật đầu về phía tuyến hàng rào xa xa. Các tấm bản đồ phải ra khỏi đây.
Tau và Njongo lưỡng lự qua hơi thở. Sau đó, Tau gật đầu, cả hai bật dậy cúi khom mình và biến mất trong rừng. Khasimi thậm chí không nghe thấy tiếng chân của họ.
Khu rừng rơi vào sự im lặng chết chóc, nặng nề, dày đặc như chính khu rừng vậy. Khasimi bắt đầu chuyển theo hướng tiếng kêu la - cả tiếng người và tiếng sinh vật.
Đầy một phút sau, một tiếng tru khác phát ra từ khu rừng giông như tiếng bầy chim giật mình thảng thốt. Kết thúc lại là một loạt tiếng khạc khạc. Khamisa dừng lại, bị chú ý bởi cái gì đó thân thuộc trong một chút e dè trước đó.
Trước khi có thể cân nhắc thêm, một tiếng khóc thút thít làm anh chú ý.
Nó đến trực tiếp từ phía trước.
Khasimi chĩa họng súng rẽ từng chiếc lá. Một trảng nhỏ mở ra trong khu rừng trước mặt nơi có một cây to mới bị đổ và làm quang cả một phần rừng. Lỗ hổng của lớp tán lá cho phép một tia nắng buổi sáng xuyên qua mặt đất. Nó khiến khoảng rừng xung quanh trở nên tối vì bóng cây.
Bên kia trảng, một cử động thu hút con mắt của anh. Một thanh niên - không hơn một cậu bé - dưới một gốc cây, cố gắng với tay lên một cành cây khác, để trèo lên cao hơn. Cậu ta không thể với tới. Cậu ta không thể nắm bằng tay phải. Thậm chí từ đây, Khasimi vẫn nhìn thấy vết máu ri xuống từ tay áo của cậu ta khi cậu cố gắng một cách vô vọng.
Sau đó cậu ta đột nhiên khuỵu gối sụp xuống, ôm lấy thân cây, cố gắng ẩn náu.
Và lý do cho nỗi kinh hoàng đột ngột của cậu bé bước vào tầm nhìn.
Khamisi sợ đông cứng cả người khi sinh vật kia hiên ngang đi vào trong trảng, dưới gốc cây. Nó thật đồ sộ, yên lặng lê bụng ra khỏi khu rừng. Nó to hơn một con sư tử đực trưởng thành, nhưng nó không phải là sư tử. Bộ lông bạch tạng xù xì, mắt phản quang màu đỏ. Lưng nó dốc xuôi từ đôi vai cao, dày, xuống tít phía dưới thấp, cổ bự thịt thò ra một cái đầu to xù xì, trên cùng là hai cái tai giống tai dơi vểnh lên to đùng. Tất cả những bộ phận này đều xoay xoay chú ý vào cái cây.
Nâng đầu lên, nó khịt khịt hít hơi phía trên, tìm mùi máu.
Môi nó uốn gợn cuốn vào cái mồm đầy răng.
Nó tru lên một lần nữa, kết thúc bằng một loạt tiếng khạc khạc dựng tóc gáy.
Rồi thì nó bắt đầu trèo.
Khamisi biết anh đang phải đối mặt với cái gì.
Con ukufa.
Thần chết.
Nhưng trông vẻ quái đản của nó, Khamisi biết tên thật của nó rồi.

• 6 giờ 30 phút sáng
— Các loài crocuta crocuta, - Baldric Waalenberg nói, bước tối một màn hình LCD. Lão chú ý tới sự tập trung của Gray vào con vật trên màn hình, chồng lên phần hình Fiona trong lồng.
Gray chăm chú xem thứ sinh linh giống gấu khổng lồ này, ghê sợ, đối diện với ống kính camera, rú lên, miệng ngoác rộng, phơi bày hàm lợi trắng nhởn và bộ răng vàng ố. Nó phải nặng đến ba trăm bảng Anh. Nó canh dè dọn dẹp những bộ xương của loài sơn dương.
— Loài linh cẩu đốm. - Baldric tiếp tục. - Đây là loài động vật ăn thịt lớn thứ hai ở châu Phi, có khả năng tự mình hạ gục một con bò tót đực.
Gray cau mày. Con vật trên màn hình không phải là linh cẩu thường. Nó to gấp ba hay bốn lần kích cỡ bình thường. Lông xám xanh. Gần như là kết hợp của kích thước khổng lồ và bệnh bạch tạng. Một thứ quái đột biến gien dị dạng.
— Các người đã làm gì nó? - Gray hỏi, không thể giấu nổi sự kinh tởm từ giọng nói. Anh cũng muốn giữ chân lão già đang nói để kéo dài thời gian. Anh nhìn chằm chằm Monk, sau đó quay sự chú ý sang lão già.
— Chúng tôi đã làm cho con thú này khoẻ hơn, khá hơn.
Baldric liếc nhìn cháu trai. Isaal tiếp tục theo dõi màn kịch một cách bình thản. - Không phải thế à, Isaak?
— Đúng ạ.
— Những bức ảnh hang động thời tiền sử ở châu Âu cho thấy tổ tiên khổng lồ của loài linh cẩu ngày nay. Loài linh cẩu khổng lồ. Chúng tôi đã tìm được cách trả lại crocuta cho niềm vinh quang trước đây của nó. - Baldric nói vẫn vẻ bình thản mang đầy tính khoa học y như khi lão trao đổi về cách lai ghép loài phong lan đen. - Thậm chí ta thúc đẩy sự thông minh của các loài vật bằng cách chuyển tế bào gốc của người vào tủy não của loài linh cẩu. Kết quả rất hấp dẫn.
Gray đã đọc những thí nghiệm tương tự mà người ta đã làm ở chuột. Tại Stanford, các nhà khoa học đã cho ra đời loài chuột có bộ não với một phần trăm là não người. Chuyện quái quỷ gì sắp xảy ra ở đây vậy?
Baldric bước tới chỗ tấm bảng đen có năm biểu tượng bằng chữ Run. Lão gõ vào tấm bảng bằng chiếc gậy ba - toong.
— Chúng tôi có đòi Cray XT3 siêu máy tính, chạy trên mã của Hugo. Một khi giải quyết xong, sẽ cho phép ta làm y như thế đối với loài người. Để mang lại đợt tiến hóa tiếp theo cho con người. Lại từ mảnh đất châu Phi, con người sẽ nảy sinh ra mới mẻ, đặt dấu chấm hết cho những chủng người bùn đất, chấm hết pha trộn sắc tộc, một chủng người văn minh thuần khiết sẽ chế ngự tất cả. Giờ chỉ có chờ để mở khóa mã gien sai lạc và để chế tinh thôi.
Gray nghe vang vọng thứ giọng điệu triết học ubermensch quốc xã, chuyện thần thoại về siêu nhân. Lão già này bị điên thật rồi. Lão phải là điên. Nhưng Gray để ý thấy sự minh mẫn trong cái nhìn của lão. Và trên màn hình đặt ra một bằng chứng về sự thành công kỳ quái sắp đến hồi kết thúc.
Sự chú ý của Gray chuyển sang Isaak khi cậu ta gõ một phím và con linh cẩu đột biến gien biến dạng biến mất tăm. Chứng bạch tạng trong con linh cẩu. Isaak và người chị gái sinh đôi. Những tên ám sát trắng nhởn khác. Trẻ con tất. Baldric chưa thí nghiệm với phong lan và linh cẩu.
— Bây giờ chúng ta hãy quay lại vấn đề Painter Crowe. - Lão già nói. Ông ta vẫy một tay về phía màn hình. - Bây giờ thì các anh đã hiểu điều gì chờ đợi cô cậu trẻ trong lồng nếu các anh không trả lòi những câu hỏi của chúng tôi một cách thành thật. Không còn cuộc chơi nào nữa đâu.
Gray xem kỹ màn hình, cô bé trong lồng. Anh không thể để chuyện gì xảy ra với Fiona. Nếu không có gì khác, anh cần phải để Fiona có thêm thời gian. Cô bé đã bị lôi cuốn vào tất cả những chuyện này vì những chuyện tìm hiểu vụng về của chính anh ở Copenhagen. Cô bé là trách nhiệm của anh. Và hơn thế, anh thích cô bé, tôn trọng cô, thậm chí cô bé còn là nỗi đau trong lòng anh. Gray biết phải làm gì.
Anh đối mặt với Baldric.
— Các người muốn biết điều gì?
— Không giống chúng mày, Painter Crowe tỏ ra là một địch thủ hơn mức chúng tao tưởng. Hắn đã biến mất sau khi thoát khỏi trận phục kích của chúng tao. Ngươi sẽ giúp chúng tao tìm ra hắn ở đâu.
— Bằng cách nào?
— Bằng cách liên lạc với chỉ huy Sigma. Chúng tao có một đường dây tiếm quyền truy cập không thể phát hiện ra được. Mày sẽ phá vỡ tình hình bặt tin tức liên lạc đó và tìm ra xem Sigma biết gì về dự án Mặt trời Đen và nơi Painter Crowe đang lẩn trốn. Và xem có bất cứ dấu vết phản bội nào không…
Baldric gật đầu về phía màn hình.
Bây giờ thì Gray hiểu ra bài học đinh tai nhức óc tại đây. Bọn chúng muốn Gray hiểu đầy đủ, dập tắt bất cứ niềm hy vọng có thể qua mặt chúng. Cứu Fiona hay phản bội lực lượng Sigma?
Quyết định bị ngưng lại trong giây lát khi một tên lính gác quay lại cùng với một đòi hỏi khác của Gray.
— Tay của tôi!
Monk kêu lên, nhìn thấy bàn tay giả mà tên lính gác xách theo. Anh loay hoay với khuỷu tay bị trói sau lưng.
Baldric vẫy tên lính về phía trước.
— Đưa bàn tay giả cho Issak.
Isaak nói ngay, bằng tiếng Hà Lan.
— Phòng thí nghiệm kiểm tra xem nó có giấu vũ khí trong đó không?
Người đàn ông gật đầu.
— Dạ, tất cả đã được kiểm tra.
Tuy nhiên, Isaak vẫn kiểm tra bàn tay giả. Nó là kỳ công của công trình DARPA, kết hợp việc kiểm soát dây thần kinh ngoại biên trực tiếp thông qua các điểm tiếp xúc Tian ở cổ tay. Nó cũng được thiết kế bằng cơ học tiên tiến và các thiết bị kích hoạt cảm biến tạo ra những cử động và giác quan chính xác.
Monk nhìn Gray chằm chằm.
Gray để ý các ngón tay trái của Monk dã ngừng gõ mã vào các điểm tiếp xúc của cổ tay bên phải.
Gray gật đầu, bước lại gần hơn tới Monk.
Có một đặc điểm khác của bàn tay giả bằng điện của DARPA
Thiết bị vô tuyến.
Một tín hiệu radio chuyển qua giữa Monk và tay giả của anh.
Để đáp lại, bàn tay giả bị nắm chặt trong cái tay têr Isaak.
Các ngón tay hình thành một quả đấm.
Ngoại trừ ngón tay giữa nổi lên.
— Mẹ cha mày. - Monk lẩm bẩm.
Gray tóm lấy khuỷu tay Monk và kéo mạnh về phía cửa đôi nơi dẫn ra ngôi nhà chính.
Tiếng nổ không lớn - không hơn một tiếng nổ phụ và quả lựu đạn loé sáng. Thuốc nổ đã được trộn nhoi trực tiếp vào ống chất dẻo nhựa phủ ngoài bàn tay giả, không thể phát hiện ra. Và trong khi nó không phải là gì ghê gớm lắm, nhưng cũng đủ gây đãng trí. Bọn lính gác hét lên kinh ngạc và đau. Gray và Monk đóng sầm cánh cửa đôi, lủi xuống sảnh, và ngoặt vào lối rẽ đầu tiên. Ngoài tầm nhìn trực tiếp, họ chạy rầm rập ngang qua những sàn nhà gỗ cứng nhẵn bóng.
Chuông báo lập tức vang lên, rền rĩ và khẩn cấp.
Họ cần một lối thoát càng sớm càng tốt.
Gray nhận thấy những bậc thang rộng dẫn lên trên. Anh hướng Monk tối đó.
— Chúng ta sẽ đi đâu? - Monk hỏi.
— Lên trên, lên trên…
Gray nói khi họ bỏ chạy, bước hai bước một lúc. Bọn an ninh sẽ đợi họ nghỉ khi đến được cửa ra vào hay cửa sổ gần nhất. Anh biết một con đường chạy thoát khác. Trong đầu anh, bản sơ đồ của toà nhà bật lại. Anh đã nghiên cứu kỹ vùng đất khi họ qua đây. Gray tập trung, tin vào cảm giác định hướng và định vị không gian của mình.
— Lối này.
Anh kéo mạnh Monk khi xuống cầu thang và xuống một hành lang khác. Họ đang ở tầng sáu. Chuông báo động tiếp tục reo.
— Đâu vậy…? Monk bắt đầu lại.
— Tầng cao. - Gray trả lời và chỉ vào phía cuối hành lang nơi có một cửa ra vào đợi sẵn. - Đến đường sàn dẫn vào tán rừng.
Nhưng đâu có dễ dàng như thế.
Cứ như thể là ai đó đã nghe trộm được kế hoạch của họ, một cánh cửa xếp bên trong bằng kim loại bắt đầu từ từ hạ xuống qua cửa thoát. Một ổ khoá tự động.
— Nhanh lên. - Gray hét lên.
Cánh cửa xếp nhả xuống lăn nhanh, đã đóng được ba phần tư.
Gray tăng tốc nhanh hơn, bỏ lại Monk phía sau. Anh vớ được cái ghế ở sảnh khi chạy ngang qua và quăng nó lên phía trước. Nó rơi trên sàn và rê trên mặt sàn bóng loáng. Gray đuổi theo. Cái ghế đập vào cửa ngoài đang đóng thì cánh cửa xếp trong nhả xuống đè lên ghế. Bánh răng kêu ken két. Một ánh đèn màu đỏ loé sáng ở trên khung cửa. Báo sự cố. Gray chắc chắn những đèn báo động đã lấp lóe trong ổ chỉ huy an ninh chính của toà lâu đài.
Khi anh tới cửa ra vào, chân ghế vỡ vụn ra và kêu lắc rắc, nát vụn dưới cánh cửa xếp cuốn đang ken két.
Monk chạy lên phía trên, không thở ra hơi, cánh tay vẫn bị kẹp sau lưng.
Gray cúi xuống ghế và với tới núm vặn cửa thoát. Rất khó khăn vì tấm cửa xếp cuốn đã chắn nhiều.
Các ngón tay anh miết chặt núm vặn cửa và xoay mạnh.
Bị khoá rồi.
— Chết tiệt! - Anh chửi thề.
Cái ghế tiếp tục kêu răng rắc. Phía sau họ, tiếng giày ủng chạy rầm rập, đi rất nhanh lên cầu thang. Tiếng quát tháo ra lệnh.
Gray xoay mạnh núm cửa.
— Giữ chắc tôi. - Anh nói với Monk. Anh sẽ phải đạp tung cửa ra.
Nằm ngửa tựa lưng xuống sàn, chân anh co lại chuẩn bị đạp, Gray dựa vào vai Monk làm đòn bẩy.
Sau đó cửa thoát nhẹ nhàng bật ra, để lộ một đôi chân trong trang phục kaki rằn ri. Một tên lính trong đội tuần tra con đường sàn chắc hẳn đã nhận thấy sự cố và chạy đến để xem xét.
Gray nhè bắp cẳng chân của hắn và đá thốc vào.
Bị bất ngờ, hắn mất chân trụ ngã nhào. Hắn đập đầu vào cửa cuốn rầm một cái và ngã mạnh xuống sàn. Gray ra và lại cho hắn một cú đá gót. Người hắn rã rời.
Monk theo sau, lộn mình đến chỗ Gray, nhưng không quên đá chiếc ghế bị mắc kẹt ra khỏi chỗ cửa cuốn, cổng thép xếp cuốn an ninh tiếp tục hạ xuống và đóng sầm lại.
Gray tháo vũ khí của tên lính ra. Anh dùng một con dao để cắt dây trói Monk và đưa cho Monk vũ khí đeo bên sườn, một khẩu súng lục bán tự động hiệu HK Mark. Gray tịch thu khẩu súng trường.
Có vũ khí trong tay, họ bỏ chạy xuống chiếc cầu có mái tán lá rừng, tới giao lộ thứ nhất. Đường tách làm hai ngả ngay chỗ chiếc cầu đường sàn dừng ở chỗ khu rừng. Họ kiểm tra cả hai hướng. Tới giờ tất cả đều quang đãng.
— Chúng ta sẽ phải tách ra. - Gray nói. - Cơ hội tốt hơn. Cậu phải cầu viện ngay, tìm điện thoại, liên lạc với Logan.
— Còn cậu?
Gray không trả lời. Anh chẳng phải trả lời.
— Gray này… cô bé có thể đã chết rồi.
— Chúng ta không biết.
Monk dò xét mặt anh. Anh đã nhìn thấy con quái vật trên màn hình máy tính. Anh biết Gray không còn sự lựa chọn nào khác.
Monk gật đầu.
Không nói thêm một lời, họ chạy mỗi người mỗi ngả ngược hướng.

• 6 giờ 34 phút sáng
Khamisi đã tới con đường sàn dưới tán lá rừng, leo lên một ngọn cây ở phía đối diện trảng trống. Anh di chuyển thoăn thoắt và lẹ làng.
Bên dưới, con ukufa vẫn đi vòng quanh cái cây, canh con mồi đã bị bẫy trong lồng của nó. Tiếng nổ lớn cách đó một lúc đã khiến con ukufa giật mình. Nó tụt xuống khỏi cây, cẩn trọng và cảnh giác. Nó lại đi quanh cái cây một lần nữa, tai vểnh cao nghe ngóng. Chuông báo động và còi điện vang lên từ ngôi biệt thự.
Xáo động đó cũng làm Khasimi quan tâm.
Có phải Tau và Njongo đã bị phát hiện?
Hay là trại căn cứ của họ nấp phía ngoài khu vực đồn điền đã bị phát hiện? Điểm tập kết của họ đã được ngụy trang như trại săn của người Zulu, một trong vô số các trai của dân du cư. Hay ai đó đã phát hiện ra trại ấy khác lạ?
Cho dù nguyên nhân báo động là gì, tiếng động ít nhất đã khiến con linh cẩu quái vật khổng lồ - ukufa - cảnh giác hơn. Khamisi lợi dụng lúc nó đãng trí vì tiếng ồn để chạy đến một cái cầu sàn phía trên. Anh lăn trên các tấm ván, súng lủng lẳng. Nỗi lo lắng làm các giác quan của anh thêm tinh tường. Tuy nhiên, nỗi kinh hoàng đã trôi tuột đi rồi. Khamisi để ý thấy dáng đi thong thả của con vật, tiếng gầm gừ nhẹ, tiêng gừ gừ đầy căng thẳng, vang hơn lên thành tiếng ho hù hụ.
Hành vi thông thường của linh cẩu.
Mặc dù kích thước quái dị, nhưng nó không phải là thứ gì thần thoại hay siêu tự nhiên.
Khamisi cho rằng sức mạnh nằm trong cơ thịt của nó.
Trên cầu, anh vội vã chạy dọc theo các tấm ván tới chỗ cầu bắt chéo gần cái cây chỗ cậu bé. Anh tháo cuộn dây thừng từ ba lô ra.
Cúi nghiêng người qua dây cáp thép treo đường sà; anh phát hiện ra cậu bé. Anh huýt sáo thật mạnh như chim hót. Cậu bé vẫn tập trung chú ý phía dưới. Tiếng động đột ngột phía trên đầu khiến cậu bé sững lại. Nhưng cậu liếc nhìn lên và phát hiện ra Khamisi.
— Chú sắp đưa cháu ra khỏi đó.
Anh hạ giọng gọi với tới cậu bé, bằng tiếng Anh, hy vọng cậu bé hiểu.
Bên dưới, một cái gì khác cũng đã nghe thấy tiếng Khamisi.
Con ukufa nhìn chằm chằm lên cầu. Cặp mắt đỏ lừ xoáy chặt vào Khamisi. Mí mắt nó cụp xuống khi nó biết có người trên cầu. Răng nhe ra. Khamisi đọc vị được cách tập trung có tính toán của nó.
Có phải chính con sinh vật này đã phục kích Marcia?
Khamisi muốn không gì hơn là trút đạn ở cả hai nòng súng vào cái mặt cười cợt của nó, nhưng tiếng súng nổ to sẽ lôi cuốn thêm quá nhiều chú ý. Khu vực này đã ở trong tình trạng báo động. Nên thay vì thế, anh đặt khẩu súng trường xuống chân. Anh sẽ phải cần đến cả hai tay và vai.
— Cậu bé! - Khamisi nói. - Chú sẽ quăng cho cháu một sợi dây. Hãy cột chặt nó quanh chỗ thắt lưng. - Anh diễn tả cách làm cho cậu bé. - Chú sẽ kéo cháu lên.
Cậu bé gật đầu, cặp mắt mở to, mặt sưng lên vì đã khóc và sợ.
Tựa lưng vào vách núi, Khamisi du cuộn dây và tung về phía cậu bé. Cuộn dây tung ra, xuyên rào rào qua đám lá cây. Nó không tới được chỗ cậu bé, mắc vào vài thân cây ở phía trên.
— Cháu sẽ phải trèo lên đó!
Cậu bé không cần thúc giục. Có cơ hội trốn thoát, nỗ lực trèo lên càng có thêm quyết tâm. Cậu trườn người, đạp chân và tự trèo lên cành cây tiếp theo. Cậu buộc chặt sợi dây quanh eo, giũ dây khỏi vướng các cành cây. Cậu bé tỏ ra có kỹ thuật dùng dây. Tốt.
Khamisi kéo sợi dây chầm chậm, xoắn vào một cột dây cáp bằng thép đang chống cho chiếc cầu.
— Chú bắt đầu kéo cháu lên đây! Cháu sẽ đu ra nhé.
— Nhanh lên chú!
Cậu bé kêu lên, quá to và rõ.
Khamisi xoay hông và nhìn thấy con ukufa đã để ý thấy chuyển động mới của cậu bé. Nó lôi cuốn con quái vật giống như một con mèo đuổi chuột. Con quái thú đã leo lên cây và đang trèo lên, cào bấm bằng những móng vuốt.
Không còn thời gian, Khamisi bắt đầu cuốn sợi dây lên, tay nọ nối tay kia. Anh nhận thấy trọng lượng của cậu bé đè nặng lên sợi dây khi cậu được nhấc ra khỏi vị trí chênh vênh. Cúi xuống kiểm tra, anh nhận ra cậu bé đang đu ra sau và về đằng trước như một con lắc.
Con ukufa cũng vậy, mắt nó rà theo tuyến đu đưa cánh cung. Nó tiếp tục trèo. Khamisi đọc được ý định của nó. Nó đang định lao vào và cấu xé thằng bé, giống như đớp mồi dây câu.
Khamisi kéo nhanh hơn. Cậu bé tiếp tục đung đưa.
— Ngươi là ai? - Một giọng nói bất ngờ sủa ngay đằng sau Khamisi.
Giật mình, anh gần như buông sợi dây. Anh vươn cổ về sau qua vai.
Một phụ nữ cao, yểu điệu đứng trên đường sàn, mặc bộ đồ đen, cặp mắt hoang dã. Tóc cô ta màu bạch kim nhưng đã cạo gần đến da đầu. Một trong số những đứa trẻ nhiều tuổi nhà Waalenberg. Cô ta chắc hẳn vừa bước đến khu vực này và phát hiện ra anh. Trên tay cô có một con dao. Khamisi không dám để tuột sợi dây.
Không hay rồi.
Phía dưới, cậu bé thét lên.
Khamisi và người phụ nữ liếc nhìn xuống dưới.
Con ukufa đã với tới vị trí trước đây của cậu bé và co người chuẩn bị nhảy.
Đằng sau Khamisi, người phụ nữ cười phá lên, trùng với tiếng khạc của quái vật phía dưới. Những tấm ván kẽo kẹt khi cô ta bước về phía lưng anh con dao trong tay.
Cả hai đều mắc bẫy rồi.

• 6 giờ 38 phút sáng
Gray quỳ gối tại giao lộ. Đường sàn chia tách thành ba nhánh. Phía trái dẫn quay về phía biệt thự. Đường giữa chạy viền quanh rìa rừng và nhìn ra khu vườn trung tâm. Con đường bên phải cứ thế dẫn thẳng vào trung tâm rừng.
Đường nào?
Cúi khom mình xuống, Gray quan sát độ nghiêng của bóng đổ, so sánh nó với hình dáng anh đã nghiên cứu trên màn hình LCD. Độ dài và hướng của bóng râm cho thấy một đầu mối chung tới vị trí của mặt trời mọc tương ứng với nơi Fiona bị giam. Nhưng vẫn còn một khoảng rộng nữa của đồn điền cần phải qua.
Tiếng chân nện rầm rầm trên đường sàn, khiến nó rung nhẹ.
Thêm nhiều lính gác.
Anh đã chạm trán với hai nhóm lính rồi.
Gray khoác súng lên vai, cuộn người vào thành đường sàn, và làm bật rơi người qua dây lan can mép đường. Anh dùng tay đu lên dây cáp và cứ thế dùng tay co lên chuyển mình ẩn nấp dưới một cành cây rậm rạp. Lát sau, một nhóm ba tên lính gác lóc cóc chạy trên đường sàn, ngay trên đầu. Gray níu chặt, lắc nhẹ.
Khi bọn chúng đã chạy qua, anh dùng cành cây trở lại con đường. Ở thế treo lủng lẳng, anh để ý thấy nhịp rung của dây cáp trong tay. Thêm lính gác chăng?
Nằm rạp bụng xuống ván, anh áp một tai vào dây cáp, lắng nghe giống như một công nhân người Ấn Độ đi kiểm tra đường ray tàu hỏa. Nhịp rung thật rõ ràng, có thể nghe thấy, như một sợi dây được gảy lên từ cây đàn ghi ta thép. Ba tiếng bật dây nhanh, ba tiếng chậm, lại ba tiếng nhanh. Và lại lặp lại.
Mã moóc.
S.O.S.
Ai đó đã gõ tín hiệu vào dây cáp.
Gray cúi gập người xuống và len lén quay về chỗ ngã ba của đường sàn. Anh sờ những dây cáp hỗ trợ khác. Chỉ một dây rung động. Nó dẫn xuống dọc theo con đường sàn về phía tay phải, dẫn thẳng vào sâu trong rừng.
Có thể là … ?
Không có manh mối nào tốt hơn, Gray bắt đầu đi về phía đường bên phải. Anh đi gần theo mép đường sàn, cố gắng giữ bước đi yên lặng và chiếc cầu khỏi đu đưa. Con đường sàn tiếp tục rẽ ra. Gray dừng lại ở những chỗ giao lộ để tìm ra dây cáp rung theo mã mooc và lần theo dấu vết đó.
Quá tập trung vào đường đi, Gray cúi nhanh tránh tàu lá cọ nặng và nhận thấy mình đang nhìn chằm chằm vào một tên lính gác cách đó chỉ bốn thước. Một tên lính tóc nâu, chừng hai mươi tuổi, đậm chất Hitle. Hắn tựa người vào dây cáp lan can, trực diện với hướng của Gray. Súng hắn đã giơ lên khi hắn nhận thấy cây cọ xao động.
Gray không có thời gian để rút súng ra. Thay vào đó, vẫn di chuyển, anh ném người sang một bên - không phải để cố né viên đạn đang bay tới. Tên lính gác không thể bắn trượt ở tầm bắn này.
Gray dập mạnh vào lan can cáp, rung đập mạnh.
Tên lính bám chặt vào lan can, lắc lư. Họng súng ngẩng bật lên quá cao. Gray rút ngắn khoảng cách bằng hai bước, luồn ngay dưới nòng súng của tên lính gác con dao găm thó được nằm trong tay anh.
Gray dùng thế mất cân bằng của hắn để bắt hắn im miệng, chọc dao găm vào yết hầu miết vào thanh quản. Ngoáy một vòng và động mạch cảnh phun ra. Hắn sẽ chết ngay trong giây lát. Gray túm người hắn và ném qua lan can. Anh không cảm thấy hối hận, nhớ lại cảnh bọn lính cười hô hố khi Ryan bị thả vào hang của con quái vật. Đã có bao nhiêu người chết theo cách đó rồi? Thi thể tên lính rơi xuống xuyên qua đám lá rào rào, rồi đâm sầm vào bụi cỏ.
Khom mình xuống, thấp, Gray lắng nghe. Có ai nghe thấy tiếng rơi của tên lính không nhỉ?
Ngay bên trái, gần đến kinh ngạc, một phụ nữ quát to bằng chất giọng Anh.
— Cấm đá thanh chấn song như thế! Nếu không chúng tao sẽ ném mày xuống ngay bây giờ!
Gray nhận ra giọng nói đó. Ischke. Chị sinh đôi của Isaak.
Một giọng nói thân thuộc hơn đáp lại người đàn bà.
— Đồ khốn nạn, đồ ngốc đít tóp!
Fiona.
Cô bé còn sống.
Mặc nguy hiểm, Gray bật cười - vừa nhẹ nhõm và khâm phục.
Đứng ở dưới thấp, anh đánh dấu đoạn cuối đường sàn. Tuyến đường sàn hết lối ở đường vòng viền quanh một trảng mở. Một cái trảng có trong video. Chiếc lồng treo lơ lửng dưới đường sàn trên cao.
Fiona đá vào song sắt lồng. Ba nhanh, ba chậm, ba nhanh. Khuôn mặt cô là chiếc mặt nạ quyết tâm. Bây giờ
Gray cảm nhận được độ rung ngay dưới chân, truyền theo dây cáp treo chiếc lồng.
Một cô gái tài ba.
Chắc chắn cô ấy đã nghe thấy tiếng chuông báo động từ biệt thự. Có lẽ đoán đó là Gray và tìm cách cố báo hiệu cho anh. Hoặc là thế… hoặc là cô bé đã điên khùng lên rồi. Kiểu cách trùng hợp đó đến khó chịu.
Gray phát hiện ba tên lính gác ở vị trí 2, 3, và 9 của mặt đồng hồ. Ischkle, vẫn chói loá trong bộ đồ đen trắng, đứng ở phía xa - vị trí 12 giờ - cả hai tay đặt trên lan can bên trong, nhìn xuống Fiona chằm chằm.
— Một viên đạn xuyên qua đầu gối mày có thể làm mày dịu đi được đấy.
Mụ gọi với xuống cô bé, đặt lòng bàn tay vào khẩu súng lục.
Fiona ngừng cú đá dở, lẩm bẩm điều gì đó trong tiếng thở, rồi hạ chân xuống.
Gray tính toán về lợi thế. Anh đã có một khẩu súng chống lại ba tên lính, tất cả đều có vũ trang, và Ischke có súng lục. Không được.
Một tiếng đạp phá nghe từ phía kia trảng trống vọng lại. Tiếp theo la tiếng nói léo nhéo.
Ischke tháo chiếc radio và đưa nó lên môi.
— Thế à?
Mụ lắng nghe nửa phút, hỏi một câu khác mà Gray không thể nào nghe rõ, rồi tắt máy. Hạ chiếc bộ đàm xuống, mụ nói với bọn lính gác.
— Mệnh lệnh mới! - Mụ sủa với những tên kia bằng tiếng Hà Lan. - Chúng ta sẽ giết con nhãi con này ngay bây giờ.

6 giờ 40 phút chiều
Con ukufa xổ ra một tràng the thé, sẵn sàng nhảy bổ vào cậu bé đang lủng lẳng trên dây. Khamisi cảm thấy người đàn bà đang tiếp, cận lưng anh. Tay đang cầm dây thừng, anh không thể đi lấy bất cứ vũ khí nào của mình.
— Ngươi là ai? Người đàn bà hỏi lại, lăm lăm dao dọa dẫm.
Khamisi làm điều duy nhất có thể.
Cong đầu gối, anh quăng người qua lan can cáp. Anh xiết chặt tay vào sợi dây thừng lúc rơi xuống. Trên đầu, sợi dây rít lên quanh trụ thép đỡ. Khi Khamisi ngã xuống đất, anh thoáng nhìn thấy cậu bé bị kéo lên phía trên, cùng tiếng la kinh ngạc
Con ukufa đã nhảy bổ vào con mồi đang bay lên trốn chạy, nhưng trọng lực rơi của Khamisi đã lôi tuột cậu bé thẳng đứng lên đường sàn treo đập mình vào đường sàn.
Cú dừng đột ngột giật tuột sợi dây khỏi vòng nắm tay của Khamisi.
Anh ngã xuống, lưng đập xuống cỏ. Phía trên đầu, cậu bé níu bám vào mặt bên dưới của đường sàn. Người đàn bà nhìn xuống Khamisi chằm chằm, cặp mặt trố ra.
Có vật gì đó rất to đâm sầm xuống nền đất chỉ cách chỗ Khamisi vài mét.
Khamisi ngồi dậy.
Con ukufa nhảy chồm chồm lên, khạc nhổ nước bọt, giận dữ, gầm gừ.
Cái nhìn chằm chằm đỏ lựng cửa nó chỉ tập trung duy nhất vào con mồi trong tầm mắt.
Khamisi.
Tay anh trống không. Súng trường vẫn để trên sàn ván phía trên.
Con vật tru lên trong cơn khát máu và giận dữ. Nó nhảy bổ vào anh, dự định xé toạc cổ họng anh ra.
Khamisi ngã ngửa, nâng vũ khí duy nhất của mình lên. Mũi lao của người Zulu. Mũi đoản lao vẫn được cài trong đùi anh. Khi con ukufa vồ vào anh, Khamisi xỉa lưỡi lao lên. Cha anh đã một lần dạy anh cách dùng vũ khí này. Giống như tất cả bọn trai trẻ Zulu. Trước khi họ đi sang Úc. Với một bản năng ăn sâu vào quá khứ của tổ tiên mình, Khamisi lướt lưỡi lao vào sườn con thú vật - một cơ thể bằng xương bằng thịt, không phải là thần thoại - và thọc sâu vào trong khi thân mình con linh cẩu đổ sập xuống anh.
Con ufuka kêu ré lên. Đau đớn và quán tính xô con vật đè lên Khamisi và giật phăng cán lao ra khỏi tay anh. Khamisi lăn người văng ra xa, bây giờ không còn vũ khí. Con ukufa giãy giụa trên cỏ, xoắn thêm lưỡi lao đã xiên vào trong thân thể nó. Nó rít lên lần cuối cùng, co giật mạnh, rồi mềm nhũn ra.
Chết.
Một tiếng thét giận dữ phía trên thu hút ánh mắt anh.
Người đàn bà trên cầu đã lấy khẩu súng trường của Khamisi và chĩa thẳng vào anh. Tiếng nổ nghe như tiếng lựu đạn. Một bụi cây nổ tung ngay dưới gót chân anh, bật tung đất đá lên. Khamisi xô người lùi lại. Trên đầu, mụ đàn bà đổi vị trí súng, cố định chắc chắn hơn vị trí của anh trong tầm ngấm.
Tiếng nổ thứ hai nghe đanh hơn, quái đản.
Khamisi vặn mình tránh đi - nhưng thấy mình không làm sao cả.
Đúng lúc anh liếc nhìn lên, mụ đàn bà ngã vắt mình vào dây cáp, ngực mụ đầy máu.
Một bóng người bước trên đường sàn vào tầm nhìn.
Một người đàn ông chắc nịch, đầu cạo trọc. Anh ta giơ súng, giữ chắc ở cổ tay. Anh ta tựa vào song lan can cáp và phát hiện ra cậu bé, vẫn đang bám tay treo lơ lửng.
— Ryan
Cậu bé nức nở, nhẹ nhõm.
— Cho cháu ra khỏi đây.
— Đó là kế hoạch…
Anh nhìn chăm chú và thấy Khamisi.
Thế đấy, nếu gã dưới kia biết lối ra khỏi đây. Chú lạc đường thật rồi

• 6 giờ 44 phút chiều
Hai phát súng nổ kép vang động cả khu rừng.
Một đàn vẹt xanh cất cánh từ nơi trú ngụ trong tán lá rừng, kêu quác quác phản đối, vỗ cánh bay ngang qua trảng.
Gray co rúm mình lại.
Liệu Monk đã bị phát hiện chưa?
Ischke chắc cũng nghĩ thế, đầu mụ nghển về hướng tiếng súng. Mụ vẫy tụi lính.
— Kiểm tra ngay!
Mụ lại nâng chiếc bộ đàm lên.
Bọn lính, súng trong tay, rầm rập chạy quanh con đường sàn hình tròn trên cao, tất cả đều nhằm hướng của Gray. Bọn lính chưa nhìn thấy anh, Gray nhảy xuống và lăn tròn, ghì chặt súng vào ngực. Anh quăng người ra khỏi tấm ván. Tên lính gần nhất đã trong tầm ngắm chỉ trong giây lát. Giống như trước đó, anh nắm lấy dây cáp treo ván, nhưng hơi hấp tấp, mất cân bằng, anh chỉ tóm được một điểm tựa bằng một tay. Người anh đu đưa. Khẩu súng trượt khỏi vai, rơi xuống.
Xoay người và cố với, anh tóm được quai dây da của khẩu súng bằng một ngón tay. Anh thở phào nhẹ nhõm.
Bọn lính bỗng chạy rầm rập, tiếng giày ủng nện như búa đập, lắc rung chỗ trú bám chênh vênh của anh.
Dây da súng bật tuột khỏi ngón tay Gray. Trọng lực đã tước khẩu súng của anh. Vũ khí rơi xuống, đâm vào một bụi cây. Gray chộp lấy mấu bám nữa và treo người ở đó. Cây súng ít nhất đã không bung ra khi nó đập vào đất.
Tiếng chân của bọn lính đã vẳng xa.
Anh nghe thấy Ischke nói chuyện trên radio.
Bây giờ là gì đây?
Anh đã có dao để chống chọi với súng của mụ. Anh không đặt vấn đề liệu mụ có ăn năn lúc dùng súng, không nghi ngờ tài thiện xạ của mụ.
Lợi thế duy nhất anh có là bất ngờ.
Và điều đó đã được đánh giá quá mức nghiêm trọng.
Tay bắt qua tay, Gray vượt qua mặt dưới đường sàn và tới được ngã tư hình tròn. Anh tiếp tục dọc tuyến đường sàn, theo mép ngoài, tránh tầm nhìn trực tiếp của người đàn bà nhà Waalenberg. Anh phải di chuyển chậm nếu không trọng lượng đang di chuyển của anh có thể báo động cho mụ Ischke. Anh tính thời gian cho từng cử động trùng với những cơn gió làm xao động tán lá rừng.
Nhưng sự xuất hiện của anh không phải không gây chú ý.
Fiona co rúm mình trong lồng, ngăn thật nhiều thanh chắn giữa cô và ĩschke. Đơn giản là, cô đã hiểu những lời nói lúc trước áo của Ischke bằng tiếng Hà Lan - Chúng ta phải giết chết con nhãi này ngay bây giờ. Mặc dù tiếng súng nổ làm người đàn bà sinh đôi tóc hoe xao lãng đi trong giây lát, nhưng cuối cùng mụ ta vẫn hướng tập trung về phía Fiona.
Từ vị trí thấp, Fiona phát hiện ra Gray, như một chú đười ươi trong bộ áo liền quần màu trắng, đang lướt trèo ở mặt dưới đường sàn, nửa bị che khuất trong tán lá. Cô giật mình ngạc nhiên, rồi cố giữ mình thấp xuống. Ánh mắt cô dõi theo anh, cái nhìn của họ gặp nhau.
Bất chấp vẻ can đảm ồn ào của cô, Gray đọc được nỗi kinh hoàng trên khuôn mặt cô. Cô bé trông nhỏ hơn trong lồng. Cô ôm chặt cánh tay trước ngực, cố gắng giữ vững vị trí. Cứng cỏi trưởng thành lên từ đường phố, anh cảm nhận thấy vũ khí phòng thủ duy nhất của cô chống lại lúc suy sụp vì hoảng loạn là quát lác ầm ĩ. Nó giữ cho cô trấn tĩnh - vừa đủ.
Lấy thân mình che chắn, cô bé ra tín hiệu cho anh. Cô chỉ xuống dưới và hơi lắc lắc cái đầu, cặp mắt mở to sợ hãi, canh báo anh.
Dưới đó không an toàn.
Anh nhìn sục sạo đám cỏ dày và bụi trảng. Bóng cây chẳng nhìn thấy gì, nhưng anh tin lời cảnh báo của Fiona.
Đừng ngã.
Gray ước tính còn bao xa anh sẽ đến nơi. Anh ở vị trí 8 giờ trên con đường sàn vòng tròn. Ischke đứng tại vị trí 12 ở khoảng cách khá dài để vượt qua và cánh tay anh đã mỏi, các ngón tay đang đau nhức. Anh phải di chuyển nhanh hơn. Dừng lại và bắt đầu hành động nghĩa là giết mình. Nhưng anh sợ đi nhanh sẽ gây chú ý cho Ischke.
Chắc chắn Fiona đã nhận ra điều tương tự. Cô đứng lên và bắt đầu đá tiếp vào các chấn song, khua chiếc lồng kêu lách cách, ra sức đánh đu nó. Động thái này cho phép Gray tăng nhịp độ lên.
Không may thay, nỗ lực của cô càng làm Ischke thịnh nộ.
Mụ ta hạ bộ đàm xuống và hét vào mặt Fiona.
— Nhóc con! Mày ngu như thế là đủ rồi đấy!
Fiona vẫn nắm chặt những chấn song và đá vào chúng.
Gray nhanh chóng chuyển qua vị trí 9 giờ.
Ischke bước tới lan can bên trong, có thể thấy nửa người mụ. May thay, mụ chỉ tập trung nhiều vào Fiona. Mụ lôi một thiết bị từ trong túi áo nỉ ra. Mụ lấy răng kéo cần ăngten ra. Mụ chĩa nó vào Fiona.
Đã đến lúc cho mày gặp Skuld rồi, được đặt tên của Nữ thần định mệnh.
Một nút bị bấm.
Gần như trực tiếp ngay dưới chân Gray, con gì đó rít lên trong đau đớn và giận dữ. Nó quẫy đạp ra khỏi chỗ bóng râm của khu rừng và đi ngang nhiên vào khoảng cỏ trống. Một trong số con linh cẩu đột biến gien. Tổng trọng lượng của nó phải lên đến ba trăm bảng Anh, kể cả cơ bắp và răng. Nó gầm gừ, bộ lông mọc xỉa cao trên tấm lưng dốc. Cặp môi hằm hè khi nó sủa và đớp vào không khí trông rỗng, khịt khịt đánh hơi về phía chiếc lồng.
Gray nhận ra con quái vật này chắc hẳn từ phía dưới đã lén theo anh suốt dọc đường. Anh nghi chuyện gì sắp xảy ra.
Anh vội vã, đu người qua vị trí 10 giờ.
Ischke gọi cho Fiona, thưởng thức kiểu khủng bố này, kéo dài thêm khoái cảm ác thú.
— Một con chíp trong não Skuld cho phép chúng tao kích thích cơn khát máu và dịch vị ngon miệng của nó.
Mụ vặn lại nút bấm. Con linh cẩu tru lên, nhảy bổ vào lồng. Dây thừng dính rốt rãi cùng mùi máu của Fiona.
Đó là cách nhà Waalenberg điều khiển con quái vật.
Có cấy thiếc bị vô tuyến.
Lại là kiểu phá vỡ tự nhiên theo ý chí của chúng.
— Đã đến lúc chúng tao cho thỏa mãn cơn đói của Skuld đáng thương. - Ischke nói.
Gray sẽ không kịp mất. Nhưng mà, anh xô nhanh tới.
Vị trí 11 giờ.
Thật gần.
Nhưng quá muộn.
Ischke nhấn một nút khác. Gray nghe thấy một tiếng kêu loảng xoảng rất rõ khi chốt lồng giam Fiona nhả ra.
Ô không.
Gray dừng lại giữa một cú đu. Anh dõi theo cánh cửa lồng rơi xuống mở ra ngay bên dưới Fiona. Cô rơi về phía con súc vật to kềnh càng.
Gray chuẩn bị thả người rơi xuống theo cô bé, để bảo vệ cô.
Nhưng Fiona đã học được cách Ryan truyền cho. Khi ngã, cô tóm lấy những chấn song ở vị trí thấp hơn và treo người ở đó. Con thú vật, Skuld, nhảy bổ vào chân cô. Cô co chân lên và dùng tay đu kéo mạnh.
Con thú vật bắt trượt và đâm nhào ra sau vào bụi cây, tru lên bực dọc.
Trèo lên phía trên, bây giờ Fiona đang lơ lửng bên ngoài lồng giống như một con khỉ nhện.
Ischke cười phá lên với thứ khoái cảm tăm tối.
— Biết xoay xở khá đấy! Ông nội có thể đã xem xét để lấy gien của mày cho vào kho rồi. Nhưng than ôi, thay vào đó ngươi sẽ phải làm Skuld thoả mãn đã.
Từ dưới nhìn lên, Gray quan sát thấy Ischke lại nâng khẩu súng lục của mụ lên.
Anh đu người ngay bên dưới mụ, nhìn xuyên qua khe giữa các tấm ván.
— Giờ thì để kết thúc chuyện này. - Ischke lẩm bẩm bằng tiếng Hà Lan.
Thật rồi.
Gray co mạnh tay lên, đạp chân ra sau - rồi đu lên về phía trước và lên trên, giống như một vận động viên xà đơn. Gót chân anh đạp mạnh vào bụng Ischke khi mụ tựa vào lan can, đang ngắm mục tiêu bắn Fiona.
Khi gót chân anh đánh trúng, khẩu súng của mụ nổ. Gray nghe thấy loạt đạn xiết trên thép.
Trượt.
Ischke bị đá ngã ngửa khi Gray bám theo và mụ va vào các thanh ván. Anh lăn một vòng bật lên, dao trong tay. Ischke quỳ xuống một đầu gối. Khẩu súng của mụ nằm ngay giữa họ.
Cả hai lao tới khẩu súng.
Ischke, thậm chí bị tạt hết hơi, chứng tỏ mụ nhanh nhẹn kỳ lạ, lẹ làng như một con rắn đang tấn công. Các ngón tay mụ với được khẩu súng trước, giật ngay súng lên.
Gray có dao.
Anh gí luôn lưỡi dao vào cổ tay mụ ngập xuyên luôn vào tấm ván. Mụ hét lên kinh ngạc, đánh rơi mất khẩu súng. Gray cố gắng chộp súng, nhưng báng súng bật nảy khỏi ván khi Ischke quẫy mạnh. Súng bay qua mép đường sàn.
Sự xao lãng phút chốc đủ cho Ischke giật mạnh cổ tay khỏi tấm ván. Mụ xoay cổ tay kia và giáng mạnh vào đầu Gray.
Anh ưỡn ngực hất đầu ra phía sau, nhưng mụ đã dùng cẳng chân đá vào bả vai anh mạnh chẳng khác gì thanh ba - đơ - sốc của ô tô đang tăng tốc độ. Gray lộn nhào đau tím tái đến tận xương. Chết tiệt, mụ này khoẻ thật.
Trước khi anh có thể ngồi dậy, mụ nhảy bổ vào anh, vung cánh tay nhằm mặt anh, định lấy đầu lưỡi dao thọc qua cổ tay mụ để chọc mù mắt anh. Vừa hay, anh tóm được cùi tay mụ, vặn nó lại, và rê cả hai người ra chỗ mép đường sàn.
Anh không dừng ở đó.
Bị khoá vào nhau, hai cơ thể đều rơi ra khỏi đường sàn.
Nhưng Gray móc được đầu gối trái quanh một trụ đỡ của đường. Người anh giật dừng lại, dùng chân lắc lắc, xiết chặt đầu gối. Ischke tuột khỏi anh và rơi mất.
Nằm lộn tùng phèo, anh thấy người đàn bà lao bắn qua vài cành cây và đâm mạnh xuống một bãi cỏ.
Gray xoay trở leo lên đường sàn, nằm soài ra.
Khó mà tin được, anh nhìn thấy Ischke đứng dậy phía dưới. Mụ tập tễnh bước một bước để cho vững, mắt cá chân bị sái đau đớn.
Tiếng lách cách bên cạnh khiến Gray giật mình.
Fiona đã leo lên mặt ván, đu người qua từ một dây treo lồng.
Trong lúc họ đánh nhau, cô bé chắc đã bò lên trên đỉnh lồng, rồi dùng dây để tới được đường sàn. Cô vội vàng tới chỗ anh, bắt tay trái và nháy mắt.
Máu tươi chảy ra từ vết Ischke đã cứa.
Gray lại quan sát tìm kiếm phía dưới.
Người đàn bà kia nhìn lên anh chằm chằm, ánh mắt của kẻ sát nhân.
Nhưng mụ không đơn độc trong vụ càn quét này.
Phía sau mụ, con dã thú Skuld lao về phía người đàn bà, mõm con linh cẩu hạ thấp xuống mặt đất, như một con cá mập bơi trên cỏ, đánh hơi mùi máu.
Thật thích hợp làm sao, Gray nghĩ.
Nhưng mụ đàn bà chỉ việc giơ cao cánh tay không bị thương hướng vào con dã thú. Con linh cẩu to đùng nghiến răng dừng lại, hếch mũi lên, dãi rót chảy ròng ròng, và liếm lòng bàn tay mụ, giống như một con bò tót đực hung dữ chào kẻ chủ nhân tàn tệ của mình. Nó rên ư ử và xệt bụng xuống đất.
Ischke chưa bao giờ rời mắt khỏi Gray.
Mụ tập tễnh tiến lên.
Gray nhìn chằm chằm xuống dưới.
Vài bước chân từ chỗ người đàn bà đứng, khẩu súng của Ischke nằm đó, rất dễ thấy.
Gray vươn mình dậy, cố đứng lên. Anh túm lấy vai Fiona và đẩy mạnh về phía trước.
— Chạy đi!
Cô bé không cần thúc giục thêm. Họ chạy xung quanh đường sàn vòng cung. Cô chạy như bay vì sợ hãi và chất adrenalin kích thích trong người. Họ đã tới được chỗ thoát.
Fiona chạy đến chỗ góc, bám vào một trụ chống để nghỉ chân. Gray làm theo cô. Khi anh đu được, một tiếng chíu dội lại từ trụ chống kèm theo một tiếng súng nổ.
Ischke đã tìm được súng của mụ.
Thúc đến chân, họ chạy nhanh hơn dọc theo đường sàn thẳng, dãn rộng khoảng cách với tay thiện xạ cà nhắc. Trong một phút, tới được chỗ đường chéo của những con đường sàn, Gray cho rằng họ có thể an toàn, cẩn trọng đã lấn át hoảng loạn.
Anh bảo Fiona đi chậm lại khi tối gần giao lộ chính chỗ anh dừng lúc trước. Những con đường sàn dẫn đi khắp hướng. Đường nào đây? Cho đến giờ, có cơ hội cho Ischke báo động - trừ phi cú ngã làm hỏng bộ đàm của mụ, nhưng anh không thể dựa vào tính toán đó. Anh phải giả định rằng bọn lính gác đã tập hợp sẵn sàng giữa điểm này và phía ngoài kia.
Còn Monk thì sao? Vụ bắn súng huy động bọn lính của Ischke đã cảnh báo cho anh ấy điều gì? Monk còn sống, hay chết rồi, hay bị bắt lại? Có quá nhiều tình huống không thể biết. Gray cần một nơi để chui vào lẩn trốn, để nguội dấu vết.
Nhưng ở đâu?
Anh nhìn con đường có cầu bắc ngang dẫn trở lại ngôi biệt thự.
Sẽ không ai nghĩ đến chuyện sục tìm họ ở đó. Cộng thêm nữa, nơi ấy có điện thoại. Chỉ cần anh có thể kết nối được một tuyến ra ngoài… thậm chí có thể tìm được nhiều hơn bất kể chuyện quái quỷ gì thực sự sắp xảy ra ở đó…
Nhưng đó là điều viển vông. Nơi ấy đã bị khoá chặt, một pháo đài.
Fiona nhận thấy sự tập trung của anh.
Cô kéo mạnh tay anh và lôi thứ gì đó trong túi ra. Nó trông giông như hai con bài tú - lơ - khơ xâu với nhau bằng một sợi dây. Cô bé giơ lên.
Không phải quân bài tú - lơ - khơ.
Thẻ chìa khóa.
— Em đã nâng được từ con mụ chó cái đó. - Fiona nói, nửa nguyền rủa. - Dạy cho mụ một bài học cắt khía em.
Gray cầm lấy các tấm thẻ và kiểm tra. Anh nhớ Monk đã mắng Fiona vì đã không ăn cắp chìa khoá của giám đốc bảo tàng khi họ bị sập bẫy ở hầm mộ nhà Himmler. Dường như là cô gái đã học thuộc lòng bài học của Monk.
Nhíu mắt lại, Gray lại quan sát kỹ toà biệt thự.
Nhờ có kẻ móc túi bé nhỏ mà giờ đây anh đã nắm được chìa khoá vào toà lâu đài. Nhưng để làm gì đây?
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Trật Tự Đen (A Sigma Force #3).