• 198

Phần III - Chương 13: Chất Xerum 525


Số từ: 9752
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 10 giờ 34 phút sáng
Khu bảo tồn thiên nhiên Hluhluive - Umfolozi
Zululand, Nam Phi
Painter ngồi trong một chiếc lều làm bằng cỏ trộn với bùn khô, hai chân bắt chéo, xung quanh la liệt những tấm bản đồ và sơ đồ. Không khí có mùi phân và bụi. Song khu cắm trại của người Zulu lại là một địa điểm hoàn hảo để lên kế hoạch, chỉ cách khu đồn điền nhà Waalenberg khoảng mười phút đi bộ.
Thỉnh thoảng, những chiếc trực thăng an ninh vè vè bay qua trại, bay vù lên từ đồn điền, cảnh giới và canh chừng lãnh thổ nhà họ, song Paula Kane đã bố trí khu vực này rất cẩn thận. Từ trên trời nhìn xuống, chẳng ai có thể nói rằng ngôi làng cát nhỏ này là cái gì ngoài nơi ở của những bộ lạc du mục người Zulu tách ra thành một điểm định cư. Không ai có thể nghi ngờ một cuộc họp kín lại đang diễn ra trong một mái lều ọp ẹp.
Nhóm hành động đã tụ tập để thống nhất chiến lược và tập hợp nguồn lực lượng.
Theo hàng ngang là Painter, Anna và Gunther ngồi bên nhau. Lisa giữ vị trí gần khuỷu tay Painter - vẫn như từ lúc cô đến châu Phi, khuôn mặt cô trông khắc kỷ, song mắt cô lại lộ vẻ lo lắng. Thiếu tá Brooks đứng dưới bóng cây, luôn luôn cảnh giác canh chừng, tay luôn để trên báng súng đeo trễ trong bao.
Tất cả bọn họ đều chú ý lắng nghe phần báo cáo ngắn gọn của Khamisi, người gác rừng cũ tại đây. Bên cạnh anh, đang cúi đầu xuống, đầu chụm đầu là một nhân vật đáng ngạc nhiên bổ sung vào đám tụ tập này.
Monk Kokkalis.
Painter rất ngạc nhiên, Monk đã lai vãng vào khu trại này cùng với một thanh niên thất thần và mệt mỏi, cả hai đều do Khamisi dẫn đến. Monk đã dành một tiếng đồng hồ qua kể câu chuyện của mình, trả lời các câu hỏi và bổ khuyết những thông tin vào chỗ trống.
Anna nhìn chăm chú vào bộ chữ Run mà Monk đã vẽ xong. Mắt mụ hằn lên những tia máu. Mụ vươn một tay run run về phía tờ giấy.
— Đây là tất cả các chữ Run tìm thấy trong các cuốn sách của Hugo Hirszfeld à?
Monk gật đầu:
— Và cái đồ rắm thối đó đã được khẳng định rồi, nó rất quan trọng, cốt tử đối với giai đoạn sắp tới trong kế hoạch
Anna ngước mắt nhìn Painter.
— Tiến sĩ Hugo Hirszfeld là đốc công cho Dự án gốc Mặt trời Đen. Các vị có nhớ tôi đã nói với các vị rằng chính hắn khẳng định hắn đã giải được bí mật của Cái chuông. Đã thực hiện một thí nghiệm cuối cùng, một thí nghiệm khác bí mật, chỉ riêng hắn tự làm. Một thí nghiệm tư nhân mà đáng lẽ phải sinh ra một đứa trẻ hoàn hảo, không bị tì vết hay thoái hóa. Phải là một Kỵ sĩ hoàn hảo của Mặt trời. Nhưng mà phương pháp của hắn… hắn đã làm thế nào…. không ai hay biết cả.
— Và lá thư hắn viết cho em gái hắn, - Painter nói, - bất kể là điều gì hắn đã phát hiện ra làm hắn kinh hãi. Một sự thật… quá đẹp không thể chết đi và quá kinh khủng không thể thả tự do được . Để đi đến kết cục đó, hắn đã che giấu bí mật này trong mã chữ Run.
Anna mệt mỏi thỏ dài:
— Và thế là Baldric Waalenberg đã đủ tự tin rằng hắn có thể giải được mật mã, kiếm cho mình kiến thức đã bị mất để hắn phá hủy GranitschloB.
— Tôi nghĩ rằng hơn mức mà chị chẳng cần nữa. - Painter nói. - Tôi nghĩ rằng chị đã đúng trước đó. Nhóm của chị là một mối đe dọa, chuyện trò sẽ lôi bí mật ra vào trào lưu chung. Và vì mức độ hoàn hảo đã quá sát gần, tột bực của giấc mơ giống nòi thượng đẳng Aryan, hắn đã không thể liều mạng để các vị tiếp tục tồn tại.
Anna lôi tờ giấy có các chữ do Monk phác họa lên về phía mụ.
— Nếu Hugo đúng, việc giải mã có thể cốt tử để xử trí tình trạng của chúng ta. Cái chuông có khả năng làm chậm tốc độ tiến triển căn bệnh của chúng ta. Song nếu chúng ta có thể giải được bài toán đố này, thì có thể có phép chữa khỏi bệnh thực sự.
Lisa nhồi thêm một chút thực tế vào cuộc nói chuyện:
— Song trước khi chuyện đó xảy ra thì ta cũng phải tiếp cận được Cái chuông nhà Waalenberg. Rồi lúc ấy mới lo đến những phương pháp cứu chữa bệnh.
— Thế còn Gray thì sao? - Monk hỏi. - Còn cô bé thì sao?
Painter giữ nét mặt căng thẳng:
— Không cần nói anh ấy đang ở đâu. Đang ẩn nấp, bị bắt, hay bị chết rồi. Hiện nay chỉ huy Pierce đang hoạt động độc lập.
Nét mặt Monk cáu bẳn:
— Tôi có thể lẻn lại vào đó. Dùng bản đồ của Khamisi có các tuyến ngầm.
— Không. Bây giờ không phải lúc chia lực lượng. - Painter xoa xoa vào chỗ đau đầu như kim đâm vùng sau tai phải. Những tiếng ồn ào vọng vang trong tai. Buồn nôn ứ lên miệng.
Monk nhìn chằm chằm vào anh.
Anh lảng tránh thái độ quan tâm ấy. Song chuyện gì đó trong trọng tâm mà Monk nêu ra, gợi cho anh thấy rằng không phải chỉ chuyện đau ốm về thể chất của sếp làm cho anh ta lo lắng. Painter có đang đề ra cách lựa chọn đúng hay không? Tình trạng tâm thần của anh ra sao? Nghi ngờ này chạm vào một dây thần kinh trong chính anh. Tư duy của anh sáng sủa tới mức nào?
Bàn tay của Lisa sờ đến đầu gối anh, cứ như thể đang dò xét mức kinh sợ của anh.
— Tôi khỏe mà. - Anh lẩm bẩm với cô như với chính mình.
Câu hỏi thêm bị gián đoạn vì cánh cửa vải chăn bị đẩy mở tung. Ánh sáng mặt trời và cái nóng thoảng vào lều. Paula Kane né vào chỗ tối trong lều. Một người Zulu luống tuổi đi theo bà đầy đủ nghi thức hành lễ: chùm lông chim, lông vũ, da báo đính lấm tấm những hạt màu sặc sở. Mặc dầu ở độ tuổi cuối sáu mươi nhưng ông vẫn chưa có nếp nhăn trên mặt, mặt như tạc tượng, đầu cạo trọc. Ông mang theo một thanh gỗ một đầu mút kia đính lông chim, nhưng ông cũng cầm khẩu súng cổ, trông như để nghi lễ nhiều hơn là chức năng vũ khí.
Painter nhận ra loại vũ khí khi anh đứng dậy. Đó là một khẩu súng nòng trơn của Anh mác
Brown Bess,
một loại hỏa mai từ thời chiến tranh Napôlêông.
Paula Kane giới thiệu vị khách mới vào.
— Già Mosi D’Gana. Tộc trưởng Zulu.
Người luống tuổi nói thứ tiếng Anh hơi cứng:
— Mọi thứ đã sẵn sàng.
— Cám ơn già đã giúp đỡ. - Painter nói kiểu cách.
Mosi hơi gật đầu, nhận lời cám ơn.
— Nhưng không phải vì các vị mà chúng tôi cho mượn giáo. Chúng tôi còn món nợ với bọn Voortrekkers về vụ Dòng sông Máu.
Painter cau mày, song Paula Kane nói ngay chi tiết:
— Khi người Anh đuổi bọn người Boers Hà Lan ra khỏi thị trấn Cape, họ bắt đầu lần dò vào sâu nội địa hơn. Xung đột đã leo thang giữa những người nhập cư mới đến và các bộ lạc thổ dân. Người Xhosa, người Pondo, người Swazi, và người Zulu. Năm 1838, dọc theo một nhánh của sông Buffalo, người Zulu đã bị phản bội, hàng nghìn người bị giết hại, đất đai bị cướp đoạt. Đó là một vụ tàn sát chém giết. Nhánh sông đó được biết đến là Dòng sông Máu. Kẻ thủ mưu trong nhóm người Voortrekker vụ tấn công giết người đó chính là tên Piet Waalenberg.
Mosi nâng thứ vũ khí cổ của ông lên và trao nó cho Painter.
— Chúng tôi không quên.
Painter không nghi ngờ rằng khẩu súng này đã từng dính dáng tới trận đánh đầy tăm tiếng ấy. Anh nhận khẩu súng, biết rằng một hiệp ước đã được ký bằng việc trao khẩu hỏa mai này.
Mosi ngồi xuống sàn lều, thả mình nhẹ nhàng vào tư thế ngồi bắt chân vòng tròn.
— Chúng ta còn nhiều nội dung để lên kế hoạch.
Paula gật đầu với Khamisi và giữ tấm chăn để mở cửa.
— Khamisi này, xe của cậu sẵn sàng rồi. Tau và Njongo đang đợi. - Bà nhìn đồng hồ. - Cậu phải mau lên.
Người gác trò trước đây đứng dậy. Mỗi người đều đã có nhiệm vụ riêng để hành động trước khi trời tối.
Painter bắt gặp ánh mắt nhìn chăm chú của Monk. Anh lại đọc thấy vị lo lắng trong ánh mắt đó. Nhưng không phải là lo cho Painter - mà lo cho Gray. Chỉ còn tám tiếng đồng hồ nữa là mặt trời lặn. Nhưng họ chẳng thể làm được gì cho đến lúc ấy.
Gray vẫn quanh quẩn với suy nghĩ của riêng mình.

• 12 giờ 5 phút chiều
— Cúi thấp đầu xuống. - Gray thì thào với Fiona.
Họ rảo bước đến chỗ tên lính gác ở cuối phòng. Gray mặc một bộ đồng phục ngụy trang, giày cao cổ, mũ đen, vành mũ kéo sụp xuống che mắt. Tên lính gác đã cho Gray mượn đồ quân trang đang bất tỉnh, mồm bị nhét giẻ, bị trói như lợn nằm trong một tủ nhỏ trong buồng ngủ trên gác.
Anh cũng đã mượn chiếc bộ đàm của tên lính gác, nhét vào thắt lưng và lòng thòng một cái tai nghe. Tiếng nói chuyện trên đường dây liên lạc này toàn bằng tiếng Hà Lan, khó mà hiểu, song nó giúp cho họ luôn nắm được tình hình.
Đi sát bóng Gray, Fiona mặc bộ đồ nữ hầu phòng, cũng mượn từ cái tủ đó. Bộ đồ này hơi rộng nhưng để che giấu bộ dạng và tuổi đời thì tốt. Phần lớn người phục vụ trong nhà này là người bản xứ có nước da ngăm đen, điển hình một hộ gia đình châu Phi. Di sản gốc Pakistan của Fiona ăn nhập với nước da nâu cà phê của cô. Cô cũng giấu mớ tóc thẳng của cô dưới mũ. Cô có thể đi qua mặt như dân bản xứ nếu như không có ai nhìn sát mặt. Để làm cho màn kịch hoàn chỉnh, cô bé đi những bước ngắn vẻ ngoan ngoãn, chùng vai, cúi đầu.
Tới lúc đó thì việc cải trang của họ chưa bị ai kiểm tra.
Tin lan thuyền rằng Gray và Fiona đã bị phát hiện trong rừng rậm. Khu tư dinh này đóng cửa, chỉ còn một gã tuần đinh gầy giơ xương coi bên trong tư dinh. Phần lớn lực lượng an ninh đang lùng sục trong rừng, các ngôi nhà phía ngoài tư đinh và vùng ranh giới.
Thật không may, đội an ninh ở đây không quá mỏng mà vẫn mở tuyến liên lạc bộ đàm phía ngoài. Ngay sau khi sử dụng thẻ khóa của Ischke để đột nhập lại vào bên trong tư dinh, Gray đã thử một vài cú điện vào khu nhà. Đi vào được khu nhà cần phải qua một bảng công tắc. Bây giờ mà định gọi hỏi những người ở phía ngoài thì chẳng khác gì bộc lộ mình.
Nên họ có ít phương án lựa chọn.
Họ có thể ẩn nấp. Nhưng đến kết cục nào? Ai mà biết được khi nào và liệu Monk có công bố với thế giới văn minh không? Vậy nên cần phải có một vai trò tích cực hơn. Kế hoạch là trước hết cần có một sơ đồ của khu tư dinh này. Điều đó có nghĩa là thâm nhập vào ổ bảo vệ trên tầng chính. Vũ khí duy nhất của họ là khẩu súng lục của Gray cầm theo và súng bắn tia điện tự vệ của Fiona.
Trước mặt, cuối căn phòng, một trạm gác có người trông chừng ban công trên, cảnh giới toàn bộ cổng vào chính bằng súng máy. Gray rảo bước đến chỗ tên lính gác. Hắn cao, người bè bè chắc nịch, mí mắt hùm hụp cho hắn cái vẻ hèn hạ như lợn. Gray gật đầu và tiếp tục đi đến chỗ cầu thang. Fiona bám sát gót anh.
Mọi việc diễn ra tốt đẹp.
Rồi người gác nói cái gì đó bằng tiếng Hà Lan. Lời nói vượt quá khả năng hiểu của Gray, nhưng như tiếng chuông khủng khiếp đối với họ, kết thúc bằng một tiếng cười khùng khục.
Hơi quay lại, Gray trông thấy tên lính gác vươn tay tóm vào mông Fiona và véo một cái mạnh. Tay kia của hắn thì bám lấy khuỷu tay của cô.
Hành động sai lầm rồi.
Fiona vằng tay ra.
— Bỏ tay ra, dâm dê.
Váy cô quết vào gối hắn. Một tia lửa xanh lè xuyên qua túi cô bé và xì vào đùi tên lính gác. Toàn thân hắn giật cong lên và kêu ằng ặc.
Gray đỡ luôn lấy hắn khi hắn ngã đổ ra sau. vẫn co giật trong cánh tay anh, Gray lôi hắn khỏi cầu thang và kéo vào phòng bên cạnh. Anh lẳng hắn xuống sàn, lấy báng súng đánh hắn ngất xỉu, rồi lại nhét giẻ vào mồm và trói hắn lại.
Sao em lại làm thế? - Gray hỏi.
Fiona bước sau Gray và véo vào mông anh rất mạnh.
— Này này! - Anh đứng lại và vằng tay ra.
— Anh cảm thấy thế nào nào? - Fiona xì một cái.
Công nhận hiểu rồi. Nhưng anh vẫn cẩn thận.
— Anh không thể cứ để mấy thằng con hoang ấy bị trói mãi được.
Fiona đứng lại khoanh hai tay. Mắt cô tuy cáu nhưng cũng sợ. Anh không thể trách cô bé vì tính khí thất thường được. Anh lau mấy giọt mồ hôi lạnh trên lông mày. Có thể, tốt nhất là họ cứ tạm trốn trong đó và hy vọng may mắn.
Chiếc bộ đàm của Gray kêu lên. Anh căng tai lên nghe. Hay là đòn tấn công của họ gần chỗ cầu thang bị chúng phát hiện? Anh cố dịch nghĩa chữ được chữ chăng
…tu binh… đang đưa vào cổng chính…

Mấy lời nói nữa tiếp theo, song Gray khó mà nghe thấy được ngoài chữ tu binh.
Tù nhân.
Chỉ có mỗi nghĩa đó là hợp thôi.
— Chúng tóm được Monk rồi… - Anh thì thào, thấy ớn lạnh.
Fiona thôi không khoanh tay nữa, mặt tỏ vẻ quan tâm.
— Đi thôi.
Anh nói và hướng tới cửa ra vào. Anh đã tước của tên lính gáo chiếc súng phóng điện và khoác khẩu súng trường của hắn lên vai.
Grạy dẫn đường quay trở lại chỗ cầu thang. Anh thì thào vào tai Fiona kế hoạch của mình lúc họ đi vội vàng xuống cầu thang đến cổng vào chính. Tầng dưới cùng này vắng tanh và tiền sảnh cũng vậy.
Họ vượt ngang qua phòng tầng dưới được trang trí bằng thảm len dệt hình theo dáng kiểu châu Phi. Tiếng chân họ có tiếng vọng, cả hai bên là đầu những con thú bị săn treo trên tường: đầu một con tê giác đen thuộc loài có nguy cơ tuyệt chủng, cả một con sư tử nhồi to đùng mà bờm đã mủn ra, một dãy đầu hươu, hoẵng với đủ loại kiểu sừng.
Gray đi ngang qua về phía tiền sảnh. Fiona nhổ một chiếc lông từ túi cái tạp dề bộ đồ cải trang của cô. Cô vượt qua một bên cái cửa. Gray chiếm một vị trí, súng trường trong tay, phía bên kia cửa.
Họ không cần phải đợi lâu, chỉ kịp vào vị trí đúng lúc.
Có bao nhiêu tên lính gác đi theo Monk?
ít nhất thì anh ấy vẫn còn sống.
Tiếng kim loại va loảng xoảng vẳng qua cánh cổng chính, cổng bắt đầu kéo lên, xích kêu lóc cóc bên trên. Gray cúi xuống để đếm chân. Anh giơ ngón tay về phía Fiona. Hai tên lính đang áp giải tù nhân mặc bộ đồ thể thao màu trắng.
Gray bước vào tầm nhìn khi cánh cổng xoay cuốn lên hẳn.
Những tên lính gác chẳng nhìn thấy gì mà chỉ thấy người gác của mình đeo súng trường đang điều khiển cánh cổng. Chúng bước vào cùng tù nhân bị lôi đi. Chẳng đứa nào để ý thấy Gray cầm súng phóng điện hoặc Fiona từ phía kia đi tới.
Loáng một cái trận tấn công đã xong.
Hai tên lính gác co giật trên tấm thảm, gót chân đập đập như đánh trống. Gray đá mỗi đứa một cú vào thái dương, có thể mạnh hơn là mức anh nên đá. Nhưng căm tức của anh đã đốt nóng toàn thân anh.
Tù nhân không phải là Monk.
— Bà là ai? - Anh hỏi kẻ bị bắt bộ dạng kinh sợ lúc anh mau chóng lôi tên lính gác đầu tiên về phía tủ áo khoác cạnh đó.
Người phụ nữ tóc xám dùng cánh tay còn tự do của mình phụ giúp Fiona thêm một tay. Bà ta khỏe hơn là dáng vẻ bề ngoài. Tay trái của bà bị băng và treo ép chặt ngang ngực. Mặt bà bên trái có vết cào rạch đã bong da được khâu. Con gì đó đã tấn công bà và cào tát bà. Mặc dù bị thương, ánh mắt của bà nhìn thẳng vào Gray, giận dữ và quyết tâm.
— Tên tôi là Tiến sĩ Marcia Fairfield.

12 giờ 25 phút chiều
Chiếc xe ô tô Jeep chạy bon bon xuống con đường vắng tanh.
Ngồi sau tay lái, viên gác rừng Gerald Kellogg lau vội mồ hôi chảy ròng ròng trên lông mày. Giữa hai chân y kẹp một chai bia Birkenhead Premium.
Dẫu dù buổi sáng bận việc, Kellogg cũng không chịu phá quy luật hàng ngày của mình. Mà cũng chẳng có gì khác y có thể làm. An ninh tại đồn điền Waalenberg đã qua những chi tiết sơ sài. Một cuộc đào tẩu. Kellogg đã cảnh báo cho các nhân viên gác rừng và phái người đến tất cả các cổng rừng. Từ đồn điền nhà Waalenberg, y đã chuyến ảnh chụp, gửi fax khắp mọi nơi. Những tên săn trộm là vỏ bọc. Chúng có vũ trang và nguy hiểm.
Cho đến lúc có một tin phát hiện đến văn phòng của Kellogg, y cũng chẳng thấy có gì cản y làm cái việc thường nhật của mình là chén bữa trưa hai tiếng đồng hồ ở nhà. Ngày thứ ba hàng tuần là gà mái nướng và khoai lang. Y lái chiếc Jeep ngang qua chỗ người canh đàn gia súc và vào đường dẫn chính, hai bên đường có bụi cây thấp làm hàng rào. Trước mặt y, một tòa nhà kiểu thời thuộc địa hai tầng, mặt ngoài trang trí đính hạt, nằm trên một cơ ngơi được tỉa tót rộng một acre [6] , đỉnh cao chức vụ của y. Cơ ngơi này có đội ngũ nhân viên mười người chăm sóc, kể cả y trong số đó. Y chẳng vội vàng lấy vợ làm gì.
(Mẫu Anh, bằng 0,4 hécta)

Tại sao lại đi mua bò cái và tất cả những thứ….đó.
Cộng thêm khoái khẩu của y thích ăn các loại quả còn ương.
Y mới tuyển một cô gái mới, Anna tí hon, mới mười một tuổi, người Nigeria, đen như hắc ín, giống y như những gì y thích, dễ che giấu những vết thâm tím. Không phải vì thế mà không có ai dám chất vấn y. Y có một người hầu, tên là Mxali, dòng Nam Phi vũ phu tàn bạo, được y tuyển từ nhà tù, người cai quản việc nhà cho y bằng kỷ luật sắt và đàn áp. Mọi vấn đề đều được xử lý chóng vánh, vừa ở trong nhà vừa ở đâu đó khi cần. Còn gia đình nhà Waalenberg thì quá vui khi giúp y cho biến đi bất cứ những người nào gây chuyện rắc rối. Chuyện gì xảy ra với những người sau khi họ bị thả xuống đồn điền nhà Waalenberg bằng trực thăng, Gerald không muốn biết thì hơn. Nhưng y cũng nghe người ta đồn đại.
Cho dù cái nóng giữa trưa, y vẫn cảm thấy run lạnh người.
Tốt nhất là đừng có hỏi quá nhiều câu hỏi.
Đỗ xe dưới bóng một cây keo già nhiều lá, y trèo khỏi xe, rảo bước di xuống con đường đất đến một cánh cửa bên dẫn đến bếp. Có hai người làm vườn đang cuốc luống hoa. Họ cắm mặt xuống đất nhìn khi Gerald đi qua, như họ đã được người ta dạy phải làm như thế.
Mùi gà nướng và tỏi gợi hứng khẩu vị của y. Cái mũi và dạ dày của y lôi y thẳng lên cầu thang ba bậc đến một cánh cửa xanh để mở. Y vào bếp, bụng đói cồn cào.
Bên tay trái cửa bếp lò vẫn mở. Tay đầu bếp đang quỳ trên sàn gỗ, đầu chui vào bếp lò. Kellogg nheo mày nhìn hoạt cảnh kỳ cục đó. Phải mất một lúc y mối nhận ra đó không phải là tay đầu bếp.
— Mxali…?
Kellogg cuối cùng chú ý đến mùi thịt khét sau vị tỏi. Có cái gì đó thời lòi ra từ cánh tay người ấy. Mũi tên có gắn lông chim. Vũ khí mà Mxali hay chọn, Thường thường thì hay tẩm thuốc độc.
Có chuyện gì rồi.
Kellogg lùi lại, quay ra phía cửa ra vào.
Hai người làm vườn lúc nãy đã bỏ cuốc và đang chĩa súng vào cái bụng bành to của y. Chuyện các toán cướp trấn lột nhỏ, bọn bẩn thỉu từ khu ở của người da đen ngoài thị trấn oanh kích các trang trại và những gia đình nơi heo hút không phải không thường xuyên xảy ra. Kellogg giơ tay lên, da lạnh thấu vì hoảng.
Một tiếng cọt kẹt của sàn gỗ làm y chú ý nhìn quanh, hơi xoay nửa người.
Một bóng người bước ra từ bóng tối của căn phòng ngay cạnh đó.
Kellogg há hốc mồm khi y nhận ra kẻ đột nhập - và ánh mắt căm thù của người đó.
Không phải bọn cướp trấn lột. Thậm chí còn tồi tệ hơn.
Một con ma.
— Khamisi…

• 12 giờ 30 phút chiều
— Vậy đúng ra thì anh ấy làm sao nào? - Monk hỏi, nhấn mạnh vào nơi mà Painter đã biến vào một cái lều gần đó cùng chiếc điện thoại vệ tinh của Tiến sĩ Paula Kane. Vị giám đốc đang liên lạc phối hợp với Logan Gregory.
Dưới mái hiên che của một căn lều khác, anh trao đổi kế hoạch với Tiến sĩ Lisa Cummings. Cô bác sĩ nhân y này quả là người quan sát tốt, thậm chí mặt đầy bụi và hai mắt ám quầng đen.
Cô chú ý sang Monk.
— Tế bào của anh ấy bị biến chất, tan vỡ từ bên trong tế bào. Đó là theo ý kiến của mụ Anna Sporrenberg. Mụ này trước đây đã nghiên cứu nhiều về bức xạ của Cái chuông. Nó làm hỏng tổ chức đa hệ. Anh trai mụ, tên Gunther, cũng bị dính thứ bệnh đó, thể kinh niên. Nhưng tốc độ tiến triển bệnh ở hắn bị chậm lại do có thuốc chữa tăng cường và miễn dịch trong cơ thể. Anna và Painter, bị phơi nhiễm như những người lớn vào phóng xạ quá liều lượng, không có được khả năng bảo vệ bẩm sinh đó.
Cô đi sâu hơn nữa vào chi tiết, biết rằng Monk cũng có nền tảng kiến thức y học: tiểu cầu thấp, mức sắc tố da cam tăng, phù thũng, cơ tăng nhạy cảm gây ra những cơn co thắt làm cứng cổ và vai, xương bị ứ máu, sưng gan, tụy, lá lách, tim đập kèm tiếng thổi tâm thu, vôi hóa các vùng ngoại biên, và đục thủy tinh thể ở mắt. Song, rút cục tất cả đều đưa đến một vấn đề.
— Họ đã bị bao lâu rồi? - Monk hỏi.
Lisa thở dài và nhìn chằm chằm về phía căn lều mà Painter đã chui tọt vào đó.
— Chưa đến một ngày. Cứ cho dù tìm ngay được một phương cách chữa chạy ngày hôm nay, tôi e rằng vẫn bị tổn thương thường xuyên lâu dài.
— Chị có để y thấy anh ấy nói líu ríu… cách anh ấy nhả ra từng lời? Đó có phải tất cả là do thứ ma túy ấy hay… hay… thứ…?
Lisa liếc nhìn lại, ánh mắt sắc thêm lên nỗi đau xót.
— Nó mạnh hơn ma túy.
Monk cảm thấy đây là lần đầu tiên cô ấy tự chấp nhận điều này. Điều đã được khẳng định với sự khiếp đảm và vô vọng. Anh cũng thấy cô ấy mới đau khổ làm sao. Phản ứng của cô hơn mức của một bác sĩ quan tâm đến bệnh hay là một người bạn âu lo. Cô chăm chút Painter và đơn giản là đấu tranh với chính mình để kìm nén tình cảm lúc khám cho anh và để canh chừng chính trái tim mình.
Painter xuất hiện chỗ cửa ra vào. Anh dẫn Monk đến chỗ mình.
— Tôi bắt được với Kat trên điện thoại đây này.
Monk đứng dậy rất nhanh, ngó nhìn bầu trời tìm kiếm trực thăng, rồi chạy ngang qua chỗ Painter. Anh nhận chiếc bộ đàm vệ tinh, bịt chỗ ống nghe và gật đầu với Tiến sĩ Cummings.
— Thưa sếp, tôi nghĩ rằng chị phụ nữ này có thể sử dụng thứ gì đó.
Painter đảo trợn tròn mắt. Các vằn tia máu hằn vết xuất huyết trong màng cứng của mắt. Anh che đôi mắt đau nhức của mình và đi ngang qua phía người phụ nữ.
Monk từ chỗ cửa dõi theo và nhấc điện thoại lên:
— Này em yêu.
— Đừng có mà em yêu với tôi. Các anh làm cái quái quỷ gì ở châu Phi thế?
Monk mỉm cười. Lời mắng mỏ của Kat như lời mời uống nước chanh trên sa mạc. Bên cạnh đó, câu hỏi của cô nghe rất mỹ miều. Chắc là cô đã được người ta báo cáo tình hình rồi.
— Em cứ nghĩ rằng đây là một nhiệm vụ trông trẻ? - Cô tiếp tục nói.
Monk đơn thuần là chờ đợi cho cô xả hết.
— Khi anh về, em sẽ khóa nhốt anh lại…
Cô tiếp tục nói tranh cướp kiểu ấy lâu thêm một phút nữa.
Cuối cùng, Monk vội xen được một lời vào.
— Anh cũng nhớ em lắm.
Tiếng quát tháo ầm ĩ dịu đi thành một tiếng thở dài.
— Em nghe là anh Graw vẫn còn đang mất tích.
— Anh ấy sẽ khỏe thôi. - Anh nói cho cô an tâm trong khi hy vọng thế.
— Anh đi tìm anh ấy đi anh Monk. Làm bất kỳ việc gì đòi hỏi.
Monk đánh giá cao tầm hiểu biết của cô. Anh dự định làm đúng như thế. Cô không đòi hỏi phải hứa cẩn trọng. Cô biết anh quá rõ rồi. Nhưng mà anh vẫn nghe thấy chất giọng nghẹn ngào trong những lời cô nói tiếp theo.
— Em yêu anh.
Như thế cũng đủ cẩn trọng với bất cứ một người đàn ông nào.
— Anh cũng yêu em. - Anh hạ giọng và hơi quay mặt đi.
— Yêu cả hai người.
— Về nhà thôi.
— Cố ngăn anh lại.
Kat lại thở dài.
— Logan đang nhắn tin cho em. Em phải treo máy đây. Chúng em có cuộc họp bố trí lúc bảy giờ với tùy viên tại đại sứ quán Nam Phi. Chúng em sẽ làm bất kể việc gì có thể làm được để gây áp lực từ phía này.
— Xỉ vả chúng hết lời em nhé.
— Chúng em sẽ làm thế. Tạm biệt, anh Monk.
Monk hạ điện thoại xuống và nhìn Lisa cùng Painter. Hai người đang chụm đầu vào nhau, nói chuyện, nhưng Monk cảm thấy họ hơn mức cần phải sát nhau như thể để giao tiếp. Anh lại nhìn xuống ống nghe điện thoại. ít ra thì Kat an toàn và còn khỏe.

• 12 giờ 37 phút chiều
— Chúng đưa tôi xuống một căn xà lim mai táng dưới kia. - Tiến sĩ Marcia Fairfield nói. - Để thẩm vấn thêm. Hẳn có chuyện gì đó làm chúng lo lắng.
Ba người bọn họ đã quay trở lại căn phòng chỗ chiếu nghỉ tầng một. Tên lính gác kẻ dám sờ soạng Fiona vẫn đang nằm bất tỉnh trên sàn, máu vẫn rỉ từ lỗ mũi.
Tiến sĩ Fairfield đã nhanh chóng xâu kết câu chuyện của bà, bà đã bị phục kích trong rừng như thế nào, bị chó nhà Waalenberg cắn ra sao và bị lôi đi. Nhà Waalenberg đã biết qua hàng ngàn kênh thông tin về một vai trò nào đó mà bà đang nắm với tình báo Anh quốc. Cho nên họ đã dựng kịch bản bắt cóc bà như là bà đã bị sư tử ăn thịt. Những vết thương của bà chắc chắn vẫn trông sưng tấy và trầy da.
— Tôi có thể thuyết phục chúng rằng người đi cùng tôi, một kiểm lâm coi gác rừng đã bị giết hại. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm. Hy vọng rằng anh ta quay lại được với những người văn minh.
— Nhưng nhà Waalenberg đang che đậy cái gì? - Gray hỏi. - Họ làm cái gì?
Người phụ nữ lắc đầu. ,
— Một phiên bản khủng khiếp gì đó của Dự án sinh sản Manhattan. Đấy là những gì tôi có thể nói. Nhưng tôi nghĩ rằng có mưu đồ gì khác trong công trình này. Một dự án phụ. Có thể thậm chí một cuộc tấn công. Tôi nghe lỏm một người gác của tôi có nói. Chuyện gì đó về chất Serum hoặc loại tương tự. Serum 525, tôi nghe họ nói thế. Tôi cũng biết Washington, D.c. nhắc đến bối cảnh này.
Gray cau mày.
— Bà có nghe biết gì về thời biểu nào không?
— Không chính xác. Từ điệu cười của chúng, tôi có cảm giác rằng bất kể chuyện gì xảy ra sẽ sớm xảy ra, rất sớm.
Gray bước đi một vài bước, tay ấn ấn vào cằm. Chất serum này… nó có thể là chất vũ khí sinh học…một thứ vi trùng, một siêu vi trùng… Anh lắc đầu. Anh cần thêm thông tin - và phải mau lẹ.
— Chúng ta phải lọt vào những phòng thí nghiệm dưới tầng hầm. - Anh lẩm bẩm. - Tìm xem cái gì đang diễn ra.
— Bọn chúng đang dẫn tôi đến cái khu mai táng đó. - Tiến sĩ Fairfield nói.
Anh gật đầu, hiểu.
— Nếu tôi đóng giả là một lính gác áp giải tù nhân thì có thể là cái vé cho chúng ta xuống dưới đó.
— Chúng ta phải nhanh chân lên. - Marcia nói. - Tình huống đó, chắc hẳn chúng đang tự hỏi chuyện gì đang giữ chân tôi lại.
Gray quay sang Fiona, sẵn sàng nêu ý kiến. Kể ra cô bé cứ ẩn náu trong phòng không ai nhìn thấy thì tốt hơn. Khó mà lý giải cho sự có mặt của cô bé cùng với một tù nhân và một lính gác. Nó chỉ có thể làm tăng thêm nghi ngờ và làm người ta thêm chú ý.
— Em biết mà! Không có chỗ cho một người hầu gái, - Fiona nói, lại làm anh ngạc nhiên. Cô bé đá mũi chân vào tên lính gác đang nằm trên sàn. - Em sẽ canh thằng Casanova này ở đây cho đến khi anh quay lại.
Bất chấp những lời nói dũng cảm, mắt cô bé lộ vẻ sợ hãi.
— Bọn anh sẽ đi không lâu đâu. - Anh hứa.
— Tốt nhất là như thế.
Giải quyết xong vấn đề, Gray chộp lấy khẩu súng, vẫy tay với Tiến sĩ Fairfield tiến về phía cửa, và nói: - Chúng ta đi nào.
Ra lệnh ngắn gọn, Gray chĩa súng áp giải Marcia vào thang máy trung tâm. Không có ai bắt chuyện với họ. Một máy đọc thẻ đòi hỏi người ta phải có thẻ mới cho vào các tầng kín. Anh quét chiếc thẻ khóa thứ hai của Ischke. Những nút đèn chỉ các tầng ngầm đó chuyển từ màu đỏ sang màu xanh.
— Có biết bắt đầu từ đâu không? - Gray hỏi.
Marcia vươn tay tới.
— Kho báu càng lớn, càng được chôn sâu.
Bà ấn tay vào nút chỉ tầng sâu nhất. Xuống sâu đến bảy tầng. Chiếc thang máy bắt đầu đi xuống.
Khi Gray theo dõi ô đếm các tầng thang máy đi qua, những lời nói của Marcia cứ trở đi trở lại.
Một cuộc tấn công. Có thể ở Washington.
Nhưng kiểu tấn công gì?

6 giờ 41 phút sáng
Washington, D.C.
Dãy phố tòa đại sứ chỉ cách siêu thị Quốc gia hai dặm. Anh tài xế rẽ xe quay vào đại lộ Massachusetts và hướng về phía đại sứ quán Nam Phi. Kat ngồi cùng xe với Logan ở ghế sau, đang so sánh lại những ghi chép cuối cùng. Mặt trời vừa lên, sứ quán hiện ra phía trước.
Tòa nhà bốn tầng bằng đá vôi từ vùng Indiana chiếu sáng rực rỡ trong ánh mặt trời, làm nổi bật đầu hồi và những cửa sổ trời trên mái nhà, điển hình phong thái Mũi đất Hà Lan. Tài xế đưa xe ngay đến khu cánh gà dinh thự của đại sứ quán. Viên đại sứ đã phải bằng lòng tiếp đón họ trong phòng làm việc riêng của ông ta vào giờ sớm sủa này. Dường như là mọi vấn đề liên quan đến dòng họ nhà Waalenberg tốt nhất cần được giải quyết ngoài tầm mắt công chúng.
Như vậy đối với Kat là được.
Cô có một khẩu súng lục trong bao đeo ở cổ chân.
Kat trèo ra và đợi Logan. Bốn trụ bổ tường có rãnh đỗ hàng lan can có hình khắc cùng với quốc huy Nam Phi. Dưới đó, một người gác cửa thấy họ đến mở cánh cửa trước một cách đờ đẫn.
Là cấp phó chỉ huy trưởng, Logan dẫn đường. Kat bước theo sau một hai bước chân, theo dõi dãy phố, thận trọng đề phòng. Với mức tiền nhiều như nhà Waalenberg nắm giữ, cô không tin ai đố có thể được chúng thuê riêng… và những người đó kể cả viên đại sứ John Hourigan.
Sảnh vào mở rộng xung quanh họ. Một thư ký trong bộ com - lê công sở màu xanh hải quân dẫn họ đi ngang qua phòng sảnh.
— Ngài đại sứ Houfigan sẽ xuống ngay ạ. Tôi phải đưa các vị đến văn phòng làm việc của ngài. Các vị dùng chè hay cà phê ạ?
Logan và Kat khước từ.
Chẳng mấy chốc họ đã lọt thỏm vào một phòng trông giàu sụ. Đồ đạc - bàn ghế, tủ sách, bàn để đồ đều làm bằng cùng một loại gỗ. Gỗ pơ - mu, giống bản địa của Nam Mỹ, rất hiếm tới mức không còn để xuất khẩu thương mại nữa.
Logan ngồi xuống một cái ghế bên bàn làm việc. Kat vẫn đứng.
Họ không phải chờ đợi lâu.
Các cánh cửa lại mỏ ra, một người cao, gầy, có mái tóc cát vàng bước vào. ông ta cũng mặc bộ com - lê màu xanh hải quân, nhưng vắt chiếc áo khoác bên tay. Kat nghĩ rằng cách thức tiếp cận không màu mè này là một âm mưu, ý muốn thể hiện phong thái tỏ ra thân thiện và hợp tác. Cũng như cuộc gặp gỡ ở đây trong tư dinh của ngài.
Cô không bịa ra điều đó.
Khi Logan giới thiệu, Kat quan sát căn phòng. Với kiến thức cơ bản trong dịch vụ tình báo, cô tưởng tượng rằng cuộc hội thoại của họ sẽ được ghi âm. Cô xem kỹ thêm căn phòng, thử đoán xem thiết bị quan sát ghi hình được giấu ở đâu.
Đại sứ Hourigan cuối cùng ngồi xuống ghế của mình.
— Các vị đến đây để hỏi han về đồn điền nhà Waalenberg… hay là như tôi đã được thông báo như thế. Tôi có thể làm dịch vụ gì giúp các quý vị?
— Chúng tôi tin rằng người nào đó trong số nhân viên của họ đã dính líu vào một vụ bắt cóc tại Đức.
Mắt ông ta mở tròn quá hoàn hảo.
— Tôi thực lấy làm sốc khi nghe lời cáo buộc này. Tuy nhiên, tôi chẳng thấy thông tin gì về việc này từ tình báo Đức BKA, hay từ Interpol cảnh sát quốc tế, hay từ Europol cảnh sát châu Âu.
Kat theo dõi người này vờ vĩnh một vẻ trầm ngâm. Bò Cạp là những từ FBI sử dụng tương ứng với tình báo Nam Phi. Hợp tác dường như không thể được. Việc tốt nhất mà Logan đang tìm kiếm ở đây là làm sao để các tổ chức này không ngáng đường lực lượng Sigma. Trong khi họ không thể đàm phán hợp tác chống lại những gia đình nắm quyền lực chính trị như nhà Waalenberg, họ có thể tạo đủ áp lực để sao cho chính quyền hiện đang cầm quyền không giúp đỡ bọn chúng. Một sự nhượng bộ nhỏ, nhưng đầy ý nghĩa.
Kat tiếp tục đứng đó, theo dõi vũ điệu chậm của hai người đàn ông đang biểu diễn, mỗi người đều đang muốn thu hoạch được lợi thế tốt nhất.
— Tôi xin bảo đảm với các ngài rằng dòng họ nhà Waalenberg nắm vị thế trong cộng đồng quốc tế và các cơ quan quản lý nhà nước được tôn trọng nhất. Gia đình này đã có những giúp đổ các hoạt động cứu trợ, các tổ chức từ thiện đa quốc gia, các quỹ tín thác phi lợi nhuận khắp nơi trên thế giới. Thực tế là, trong hoạt động hào phóng mới đây nhất của họ, họ đã chu cấp cho tất cả các sứ quán của Nam Phi và các tòa đại pháp toàn cầu một trăm cái chuông vàng, kỷ niệm một trăm năm ngày đồng tiền vàng đầu tiên được đúc tại Nam Phi.
— Tất cả những cái đó đều hay và tốt, song nó không…
Kat ngắt lời Logan, câu nói đầu tiên của cô:
— Ngài vừa nói cái chuông vàng?
Ánh mắt Hourigan bắt gặp ánh mắt của cô.
— Vâng, quà tặng của đích thân ngài Baldric Waalenberg. Những cái chuông mạ vàng một trăm tuổi mang hình biểu tượng Nam Phi. Cái chuông của chúng tôi đang được lắp ở sảnh đường tư dinh trên lầu bốn.
Logan bắt_gặp ánh mắt của Kat.
Kat nói:
— Liệu chúng tôi có thể xem nó được không?
Chiến thuật hội thoại lạ lùng này làm viên đại sứ khó chịu, nhưng không nghĩ ra được lý do nào hay để phủ nhận, và Kat hình dung ra ông này hy vọng tìm cách nẫng tay trên trong cuộc chiến ngoại giao thầm lặng đang diễn ra ở đây.
— Tôi vui lòng cho các vị xem. - Ông đứng dậy và nhìn đồng hồ. - Tôi e rằng ta sẽ phải tranh thủ đi thôi. Tôi có cuộc họp vào giờ ăn sáng, mà tôi không được đến muộn.
Y như Kat đã hình dung, HouVigan sử dụng việc đi này để xin kiếu sớm, chấm dứt cuộc nói chuyện, để phỉnh phờ bất cứ một cam kết chắc chắn nào. Logan trừng mắt nhìn cô. Cô hy vọng mình đã xử sự đúng.
Họ được dẫn đến một cầu thang máy và đưa lên tầng thượng của tòa nhà. Họ đi ngang quà các hành lang trang trí với những đồ thủ công mỹ nghệ bản địa Nam Phi. Ớ cuối mở ra một phòng rộng; trông dáng giống một nhà bảo tàng hơn là khoảng không gian sinh sống. Có các hộp trưng bày, bàn dài, và cả một cái rương khổng lồ có những khuy đinh bằng đồng. Một dãy tường đầy cửa sổ nhìn vào sân và vườn cây phía sau nhà. Nhưng ở góc phòng treo một Cái chuông khổng lồ bằng vàng. Trông nó cứ như là mới lấy ra từ trong sọt, vì vẫn còn những cọng rơm đệm nhồi vương vãi trên sàn. Cái chuông đứng đó cao một mét rưỡi và miệng chuông rộng. Biểu trưng quốc gia đã được đóng dấu lên chuông.
Kat bước đến gần hơn. Một dây cáp điện chạy từ đỉnh chuông và cuộn vòng xuống sàn nhà.
Viên đại sứ để ý thấy sự chú ý của cô:
— Chuông tự động đánh vào giờ đã cài đặt trong ngày. Diệu kỳ của công nghệ. Nếu chị nhìn vào trong chuông, đó lại là diệu kỳ của các ổ bánh răng cưa, giống như đồng hồ Rolex xịn.
Kat quay sang Logan. Anh tái mặt. Giống như Kat, anh đã nghiên cứu hình phác họa mà Anna Sporrenberg đã vẽ Cái chuông gốc. Cái này chính là cái nhân bản được làm bằng vàng, cả hai người đều cũng đã đọc về tác động gây hại cho sức khỏe mà thiết bị này có thể phát xạ ra. Phát điên và chết. Kat nhìn ra cửa sổ tầng trên. Từ độ cao này, cô có thể nhìn rõ vòm trắng của Điện Capitol nhà Trắng.
Lời nói trước đó của viên đại sứ giờ đây bỗng trở nên khủng khiếp.
Một trăm cái chuông vàng… được rung lên toàn cầu
— Phải có chuyên viên kỹ thuật đặc biệt lắp đặt chuông
— Viên đại sứ tiếp tục nói mặc dầu giọng bây giờ hơi chán muốn cuộc gặp mặt đi đến đoạn kết. - Tôi chắc là anh ta đang ở đâu quanh đây.
Cửa căn phòng đóng lại sau lưng họ, hơi sập nhẹ.
Cả ba người quay mặt lại.
— A, cậu ấy đây rồi. - Hourigan nói lúc quay lại.
Giọng ông triệt luôn khi ông thấy người mới vào phòng ôm khẩu tiểu liên. Tóc hắn trắng vàng. Thậm chí từ suốt cả chiều dài căn phòng Kat cũng nhìn thấy dấu xăm sẫm màu trên cánh tay nâng súng của hắn.
Kat nhào người xuống rút súng ở bao mắt cá chân.
Chẳng nói chẳng rằng, tên sát nhân khai hỏa, vẩy đạn tứ tung.
Kính bị bắn vỡ tan, gỗ bị bắn xăm xỉa.
Sau lưng cô, bị các loạt đạn đập vào, cái chuông vàng reo lên, reo lên.
• 12 giờ 44 phút chiều
Nam Phi
Cửa thang máy mở ở tầng ngầm thứ bảy. Gray bước ra, súng trong tay. Anh kiểm tra cả hai hướng dọc theo đường hành lang xám xịt. Không như các thứ đồ mỹ nghệ và đồ gỗ trông sang giàu, tầng hầm này được ánh đèn nê - ông chiếu sáng và duy trì một vẻ khắc kỷ trên phông nền chung: sàn sơn lót bóng, tường thì xám xịt, mái thì thấp tè. Những cánh cửa thép có khóa điện sáng bóng nằm dọc theo một phía hành lang. Những cánh cửa kia trông bình thường hơn.
Gray đặt lòng bàn tay ấn vào một cửa.
Tấm cửa rung lên. Anh nghe thấy tiếng vù vù theo nhịp.
Trạm máy phát điện à? Chắc hẳn phải to lắm.
Marcia bước sang bên cạnh anh.
— Tôi nghĩ chúng ta đã đi xuống quá rồi. - Bà thì thào. - Cảm giác như chỗ này là khu kho chứa đồ và khu tiện ích.
Gray đồng ý. Ấy nhưng….
Anh bước ngang sang một chiếc cửa thép khóa.
— Xin hỏi một câu, họ chứa đồ gì trong này?
Tấm biển trên cửa ghi: PHÔI THAI.
— Phòng thí nghiệm phôi ấy mà. - Marcia dịch.
Bà bước sang chỗ anh, mắt cảnh giác, hơi nhăn mặt khi bà chuyển cánh tay băng bó treo trước ngực.
Gray giơ thẻ qua cửa của Ischke lên và quét. Đèn chỉ báo sáng xanh và cánh cửa từ từ nhả ra. Gray đẩy cửa. Anh đã khoác khẩu súng trường lên vai và lúc này rút súng lục ra.
Những bóng đèn nê - ông trên đầu nhấp nhoáng và rồi sáng bừng.
Căn phòng dài, diện tích khoảng bốn mươi mét vuông có lẻ. Gray nhận thấy không khí trong phòng lạnh lẽo, mùi thép và có lọc. Một dãy đường ống làm lạnh bằng thép không gỉ kéo từ sàn đến trần choán một bên thành tường. Tiếng máy nén khí kêu vo vo. Phía bên kia là các hòm hộp thép, bình ni - tơ lỏng và một bàn kính hiển vi lớn đấu dây nối với một bàn vi phẫu thuật.
Nó có vẻ như là một phòng thí nghiệm ướp sống.
Ở bàn làm việc chính giữa, một chiếc máy vi tính hiệu Hewlett Packard đang để tự chạy. Hình ảnh kéo dài tuổi thọ màn hình đang quay lộn trên màn hình tinh thể lỏng (LCD). Một biểu tượng sáng bạc quay trên nền đen. Biểu tượng quen quen. Gray đã thấy nó được vẽ trên sàn của tòa lâu đài Wewelsburg.
— Mặt trời Đen à. - Gray lầm bầm.
Marcia liếc nhìn anh.
Gray chỉ tay vào mặt trời đang quay. - Biểu tượng đại diện cho Đội Trật tự Đen của Himmler, một phe đảng của Hội kín Thule, của các nhà huyền bí, các nhà khoa học, những người bị ám ảnh bởi thứ triết học siêu nhân. Chắc hẳn tên Baldric cũng phải là một hội viên.
Gray cảm giác rằng họ đã đi đủ một vòng. Từ nhà cụ cố của Ryan đến tận đây. Anh hất đầu về phía chiếc máy vi tính.
— Ngó xem danh bạ chính của máy đi. Xem chị có thể phát hiện ra cái gì.
Trong khi Marcia đi về phía chiếc máy vi tính trạm công tác, Gray bước ngang sang một tủ đông lạnh. Anh kéo cánh cửa mỏ ra. Khí lạnh băng giá ùa ra. Bên trong tủ là những ngăn kéo. Có ghi mã số. Phía sau lưng, anh nghe thấy Marcia đang gõ bàn phím trên máy vi tính. Gray giật mép một ngăn kéo mở nó ra. sắp xếp gọn gàng trong kẹp là hai mươi ống nghiệm nhỏ xíu đựng đầy chất lỏng màu vàng.
— Phôi đông lạnh. - Macqm nói phía sau anh.
Anh đóng ngăn kéo lại và nhìn suốt dọc căn phòng đến con số trên các tủ đá to đùng. Nếu Marcia đúng, thì có hàng nghìn phôi đang được đông lạnh bảo quản tại đây.
Bà nói, kéo tay anh sang.
— Máy vi tính này là một cơ sở dữ liệu, ghi chép bộ gien và phả hệ. - Bà liếc nhìn anh. - của cả người và thú. Loài có vú. Hãy nhìn này.
Trên màn vi tính, những ghi chú lạ lấp tràn đầy màn hình:
NUCLEOTIDE VERANDERING (DNA)

[CROCUTA CROCUTA]
Thu Nov 6 14:56:25 GMT (thứ Năm ngày 6 - 11. giờ 14:56:25

GMT)

Schema v.1.16
— Hóa ra đây là một bản danh sách những thay đổi đột biến. - Marcia nói. - Được xác định là đã hạ xuống cấp tế bào đa nhân.
Gray gõ tay vào biển đề gần phía trên. Crocuta crocuta, anh đọc.
— Loài linh cẩu đốm. Tôi vừa thấy kết quả cuối cùng của nghiên cứu đó. Baldric Waalenbefg có nhắc đến hắn đã cố công hoàn hảo loại này như thế nào, thậm chí hắn còn kết nhập tê bào gốc của người vào não của những con thú này.
Marcia bừng sáng và nhấp chuột trở lại vào danh bạ chính.
— Điều đó lý giải rõ rồi. Tên của toàn bộ cơ sở dữ liệu này. Hersenschim. Dịch ra nghĩa là loài thú ngáo ộp đuôi rắn, mình dê, đầu sư tử. Một thuật từ sinh học mô tả tổ chức hữu cơ được lấy từ nhiều loài, bất kể là ghép chiết cành ở cây hay cấy tế bạo khác lạ vào phôi. - Bà dùng một tay điều khiển máy tính, chú trọng vào lời nói. - Nhưng để đi đến kết cục gì?
Ngồi thẳng dậy, Gray liếc nhìn suốt chiều dọc phòng thí nghiệm phôi này. Tất cả những thứ này có khác gì hơn việc chăm tỉa phong lan và những cây cảnh của Baldric? Chỉ là kiểm soát thiên nhiên theo một cách khác mà thôi, để tỉa tót và thiết kế nó theo định nghĩa về hoàn thiện của riêng mình.
— Hừmmm… - Marcia lầm bầm. - Kỳ thật.
Gray quay sang phía bà. - Cái gì?
— Như tôi đã nói, có phôi người ở đây. - Bà liếc nhìn Gray qua vai. - Theo phả hệ lai chéo, tất cả những phôi ở đây có gien liên quan đến dòng họ nhà Waalenberg.
Chẳng có gì ngạc nhiên ở đó. Gray đã để ý thấy những nét hao hao trong con cháu nhà Waalenberg. Tộc trưởng của dòng họ này đã ngắt véo dòng giống gia đình trong nhiều thế hệ.
Nhưng rõ ràng đấy không phải là phần đáng lạ.
Marcia tiếp tục nói:
— Mỗi phôi của dòng họ Waalenberg lần lượt liên hệ với các tuyến tế bào gốc và rồi lại lần đến crocuta crocuta.
— Loài linh cẩu ?
Marcia gật đầu.
Hiểu biết cùng nỗi kỉnh hoàng đều tăng lên.
— Chị muốn nói là hắn đang cấy tế bào gốc của những đứa con riêng của hắn vào những con quỷ thú đó chăng? - Gray không thể che giấu cú sốc.
Vậy là sự hung bạo và ngạo mạn của con người ấy không bao giờ chấm dứt sao?
— Đó không phải là tất cả. - Marcia nói.
Gray cảm thấy nhói đau trong anh, hiểu biết được điều bà sắp sửa nói tiếp.
Marcia chỉ tay lên một bảng phức tạp trên màn hình.
— Theo như cái này, tế bào gốc từ loài linh cẩu lông đốm đã được lai phối chéo sang thế hệ tiếp sau phôi người.
— Lạy Chúa
Gray hình dung cảnh Ischke giơ tay ra ngăn con linh cẩu đang ăn. Nó hơn mức chỉ là chủ và chó. Nó là gia đình. Baldric đã cấy các tế bào từ loài linh cẩu lông đốm đã đột biến trở lại vào các con hắn, thụ phấn lai chéo như hắn làm với loài phong lan.
— Nhưng thậm chí điều này vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất. - Marcia bắt đầu, mặt tái dại, và khó chịu tự đáy lòng.
— Dòng họ Waalenberg vừa mới…
Gray ngắt lòi. Anh đã nghe đủ. Họ có nhiều thứ phải lùng kiếm.
— Chúng ta nên đi tiếp.
Marcia liếc nhìn vào máy vi tính lưỡng lự, song bà gật đầu và đứng dậy. Họ rời khỏi căn phòng thí nghiệm quái đản, và tiếp tục đi xuống đường hành lang. Cánh cửa cạnh phòng này có đề chữ Phòng hóa nghiệm Bào thai. Gray tiếp tục đi xuống đường hành lang mà không dừng lại nữa. Anh không có ham muốn xem những cái gì khủng khiếp bên trong các phòng thí nghiệm đó nữa.
— Họ làm thế nào mà đạt được những kết quả ấy nhỉ? - Marcia hỏi. - Những loài đột biến gien, loài thú ngáo ộp đuôi rắn, mình dê, đầu sư tử? Chắc hẳn họ phải có cách nào đấy để kiểm soát vận động gien.
— Có thể lắm. - Anh lầm bầm. - Nhưng không hoàn hảo… vẫn chưa đâu.
Gray nhớ lại tác phẩm của Hugo Hirszfeld, mật mã mà Hugo giấu trong các chữ Run.. Bây giờ anh hiểu ra nỗi ám ảnh vì mật mã đó đối với Baldric. Một lòi hứa cho sự hoàn hảo. Quá đẹp không thể chết được và quá quái dị không thể để tự do được.
Và chắc chắn những mối quan tâm về sự quái dị không làm Baldric sợ. Thực tế là, lão chẳng đã lai giống , quái dị vào chính gia đình của lão đó sao. Và giờ đây lão đã có mật mã của Hugo, bước hành động tiếp theo của Baldric là gì? Đặc biệt lại có nhóm Sigma làm lão tắc nghẹn ở cổ. Không còn nghi ngờ rằng Baldric cực kỳ muốn tìm hiểu rõ về Painter Crowe.
Họ đến một cánh cửa khác. Căn phòng bên trong chắc hẳn phải rộng lắm vì nó cách hẳn một khoảng rộng từ phòng hóa nghiệm bào thai. Gray chú ý đến biển đề tên phòng trên cánh cửa:
XERUM 525

Gần như đồng thời với Marcia, anh nhìn bà.
— Không phải là serum, huyết thanh. - Gray nói.
— Xerum, - Marcia đọc, lắc đầu tỏ vẻ thiếu hiểu biết.
Gray sử dụng tiếp tấm thẻ mở cửa anh đã lấy. Đèn chỉ báo nhấp nháy xanh, khóa điện nhả ra và anh đẩy cửa vào. Đèn trong phòng nhấp nhoáng bật sáng. Không khí ở đây thoang thoảng có mùi sắt rỉ vị ozone. Sàn và tường sẫm màu.
— Chì. - Marcia nói, tay sờ vào tường.
Gray không thích kiểu nói này, nhưng anh phải học hỏi hơn nữa. Không gian kiểu hang động của phòng này trông giống nhà kho chứa chất thải độc hại. Những dãy giá kê đựng đồ kéo dài sâu tít mãi trong phòng. Đặt trên các giá đó là những bình tang trống màu vàng có dung tích mươi galon [7] mỗi bình, có số 525 trên tem dán ở các bình.
(Đơn vị đo dung tích, bằng 4,54 lít ở Anh); 3,78 lít ở Mỹ)

Gray sực nhớ đến mới quan tâm của anh về chất vũ khí sinh học. Hay là các bình này chứa đựng một loại chất phân tách hạt nhân, chất thải nguyên tử? Đó có phải là lý do mà căn phòng này có tường tráng lớp chì không?
Marcia tỏ ra ít quan tâm. Bà bước qua các tủ giá. Mỗi kệ giá lại có một nhãn, đánh dấu từng bình.
Albania,
bà đọc, rồi bước sang bình tiếp đó
Argentina.

Các nước khác có tên, theo trình tự bảng chữ cái.
Gray nhìn xéo qua các giá. Có đến ít nhất là một trăm bình.
Marcia liếc anh. Anh hiểu mối quan tâm bất thần trong ánh mắt bà.
Ồ, không…
Gray vội vàng vào phòng, lùng kiếm các giá, chốc chốc dừng lại đọc biển nhãn mác: Bỉ,… Phần Lan… Hy Lạp…
Anh chạy tiếp.
Cuối cùng anh đến điểm mà anh đang tìm.
Hợp chủng quốc Mỹ.
Anh nhớ ra điều mà Marcia đã nghe lỏm được, chuyện gì đó về việc có thể có cuộc tấn công vào Washington D.C. Gray nhìn xuống dãy hàng bình tang trống. Từ tất cả các nước ghi tên ở đây, không chỉ có Washington bị đe dọa. ít ra thì chưa. Gray nhớ đến mối quan tâm của Baldric về Painter, về biệt đội Sigma. Họ mới là mối đe dọa trực tiếp nhất ngay trước mắt lão.
Để bù lại, Baldric hẳn đã đẩy lịch biểu kế hoạch của lão lên sớm hơn.
Trên biển đề Hợp chủng quốc Mỹ cái khay giá trống trơn.
Bình tang trống tương ứng đựng chất Xerum 525 không có đó.

7 giờ 45 phút sáng
Bệnh viện Đại học Tổng hợp Georgetoivn
Washington, D.C.
— ETA trên MedSTAR? - Người điều vận bộ đàm hỏi Anh ngồi trước một chương trình cảm ứng màn hình của bệnh viện, đeo cáp nghe không dây.
Chiếc trực thăng léo nhéo lại: - Trên đường đây. Hai phút nữa.
— ER yêu cầu báo cáo mới. - Ai cũng đều nghe tin về vụ bắn giết tại khu phố các tòa đại sứ quán. Những Điều luật vì An ninh Tổ quốc đã có hiệu lực. Các cú điện thoại và báo động đang được thực hiện khắp nơi trong thành phố. Mọi chỗ hiện đều đang bối rối.
— Nhân viên y tế của sứ quán công bố hai người chết tại chỗ. Hai người phía họ. Quốc tịch Nam Phi, kể cả ngài đại sứ. Nhưng cũng có hai người Mỹ bị bắn hạ.
— Tình trạng thế nào?
— Một chết… một trong tình trạng nguy kịch.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Trật Tự Đen (A Sigma Force #3).