Phần Kết
-
Trật Tự Đen (A Sigma Force #3)
- James Rollins
- 2858 chữ
- 2020-05-09 01:08:19
Số từ: 2847
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 6 giờ 45 phút chiều
Wroclaw, Ba Lan
Anh bị muộn.
Lúc mặt trời lặn xuống phía chân trời, Gray đi dạo qua chiếc cầu thép đúc màu xanh, cầu kiểu cổ bắc qua dòng sông Oder, một dải nước phẳng xanh, bóng như gương lung linh trong ánh mặt trời đang lặn.
Gray nhìn đồng hồ. Rachel đáng bây giờ phải đang hạ cánh. Họ dự định gặp nhau ở quán cà phê bên kia đường với khách sạn trong một khu phố đầy di tích lịch sử. Nhưng trước hết anh phải thắt nút nốt một sợi dây, một cuộc phỏng vấn cuối cùng.
Gray tiếp tục đi ngang qua cái cầu dành cho người đi bộ. Bên dưới chân cầu, một đôi thiên nga đen lướt nhẹ nhàng trên mặt nước. Mấy con hải âu bay ngang trời, soi dáng trên mặt sông. Không khí có vị biển, và mấy chùm hoa tím mọc bên bờ nước. Anh đã bắt đầu chuyến đi của mình tại một cái cầu ở Copenhagen, và bây giờ nó kết thúc tại một cái cầu khác.
Anh ngước mắt lên nhìn thành phố cổ kính của những mái chóp nhà thờ màu đen, bọc mái bằng đồng đỏ và những tháp đồng hồ thời phục hưng. Thành phố Wroclaw đã từng có tên là Breslau, một thị trấn pháo đài trên biên giới Đức và Ba Lan. Những vùng rộng lớn của thành phố đã từng bị san bằng trong Thế chiến thứ Hai khi quân của Đức đánh nhau với Hồng quân Xô Viết.
Đó cũng là lý do vì sao Gray lại đến đây.
Phía trước là đảo Nhà thờ lớn. Hai chóp tháp kiểu gô - tích có cùng tên với hòn đảo, Nhà thờ thánh John, bừng sáng lên khi ngày kết thúc. Nhưng nhà thờ không phải là bến đến của Gray. Có cả đến hai mươi nhà thờ nhỏ chen chúc trên hòn đảo này. Mục tiêu của Gray chỉ cách chiếc cầu vài bước chân.
Đôi ủng của anh giẫm từ các tấm lát bằng thép sang mặt đường lát đá.
Nhà thờ thánh Peter và nhà thờ thánh Paul nằm khiêm nhường bên tay trái, rất dễ bị bỏ qua, chìa mặt sau bằng bức tường gạch phía sông. Gray phát hiện ra một cánh cửa kho than nhỏ dẫn từ kè đá viền sông đến sân sau nhà mục sư nhà thờ.
Một đứa trẻ đã từng vẩn vơ chơi dọc theo con sông này ư?
Một đứa bé tuyệt hảo.
Gray biết qua những hồ sơ vẫn còn mở của người Nga rằng cậu bé không có mẹ ấy đã được nuôi dưỡng tại một trại mồ côi từng được nhà thò thánh Peter và nhà thờ thánh Paul điều hành. Có rất nhiều những đứa bé bị bỏ rơi thế sau chiến tranh, nhưng Gray đã khu biệt lại xác suất theo lứa tuổi, giới tính và màu tóc.
Chỉ số cuối cùng của các thông số này là chắc chắn nhất, màu tóc hung trắng.
Gray cũng tìm thấy hồ sơ tìm kiếm của Hồng quân Nga về thành phố, về các cuộc oàn quét của họ trên các dãy núi truy tìm các phòng thí nghiệm ngầm của quân Quốc xã, về những phát hiện của họ tại mỏ Wenceslas. Họ đã sắp bắt được tên SS - Obergruppenfủhrer Jakob Sporrenberg, ông nội của Anna và Gunther, lúc tên này sơ tán Cái chuông. Lisa đã được Anna nói cho hay rằng chính trong thành phố này, trên dòng sông này, mà Tola, con gái của Hugo, đã dìm chết đứa trẻ.
Nhưng chị ta có dìm được không ?
Chính vì giả thức chưa được xác minh này mà Gray và nhóm chuyên gia nghiên cứu lèo tèo của Lực lượng Sigma phải lặn lội tìm tòi trong các hồ sơ cũ, bám theo một dấu vết từ lâu đã nguội lạnh, ghép nhặt từ mẫu mảnh rơi vãi. Rồi đi đến phát hiện… cuốn nhật ký của vị tu sĩ, người đã cai quản trại trẻ mồ côi ở đây, kể về một cậu bé, lạnh lùng và cô đơn được người ta tìm thấy bên xác người mẹ đã chết. Chị ta đã được chôn cất trong trong một nghĩa địa gần đây, cho đến bây giờ cũng không có tên.
Nhưng cậu bé con đã sống, lớn lên ở đây, vào học trường dòng dưới giám hộ của chính cha xứ người đã cứu cậu, có cái tên cha Piotr.
Gray bước ngang qua chỗ cửa phòng mục sư. Anh đã gọi điện thoại trước để phỏng vấn vị mục sư sáu mươi tuổi này, trong vai phóng viên đi tìm trẻ mồ côi thời chiến tranh để viết sách. Gray nâng chiếc vòng móc gõ cửa treo trên tấm cửa gỗ khó phân loại lên và gõ.
Anh có thể nghe thấy tiếng ca vang lên từ chính nhà thờ, đang buổi hành lễ.
Một lát sau, cánh cửa mở ra.
Gray biết ngay ai là người đón anh, nhận ngay ra ngươi trong những bức ảnh cũ với khuôn mặt đã già không nếp nhăn, tóc trắng bù xù rẽ ngôi chính giữa đầu. Cha Piotr ăn mặc xuềnh xoàng, quần vải bò, áo sơ mi đen, cổ La Mã trắng của dòng đạo ông theo, áo bên trong màu sáng có cài khuy.
Ông nói tiếng Anh với chất giọng Ba Lan đặc sệt.
— Ngài chắc là Nathan Sawyer.
Gray không phải tên đó nhưng anh gật đầu, bỗng thấy mình khó chịu vì nói dối một vị tu hành. Nhưng điều lẩn tránh này là cần thiết, vì sự nghiệp của chính vị mục sư già và của chính anh.
Anh hắng giọng:
— Xin cảm ơn mục sư đã dành cho tôi cuộc phỏng vấn này.
— Không dám. Mời anh vào. Hân hạnh.
Cha Piotr dẫn Gray qua sảnh phòng mục sư đến một buồng nhỏ có một cái lò sưởi than ở góc phòng. Ông có siêu nước trà sôi trên bếp. Ông kéo một chiếc ghế mời Gray ngồi. Yên vị, Gray lấy ra một cuốn sổ tay nhỏ có rất nhiều câu hỏi.
Piotr rót ra hai chén, ngồi lọt thỏm vào một chiếc ghế bành đã sờn, đệm ghế hằn nếp theo dạng thân người đang ngồi. Một cuốn Kinh thánh nằm trên bàn bên cạnh một chiếc đèn có chụp bằng kính, cùng với mấy cuốn tiểu thuyết thần bí rách tả tơi.
— Anh đến đây để tìm hiểu về cha Varick à? - ông mục sư hỏi cùng một nụ cười. - Đó là một con người vĩ đại.
Gray gật đầu.
— Và về cuộc sống của chính cha tại trại tế bần này.
Piotr nhấp trà và vẩy ngón tay ra dấu cho Gray tiếp tục nói.
Các câu hỏi không đến mức quan trọng đến thế, chủ yếu là điền tin vào những chỗ còn trống. Gray đã biết hầu như mọi điều về cuộc đời của con người này. Người bác của Rachel, ông Vigor, trưởng ban tình báo của Vatican đã cung cấp cho Lực lượng Sigma hồ sơ đầy đủ và chi tiết về mục sư dòng Cơ đốc này.
Kể cả y bạ của ông.
Cha Piotr đã sống một cuộc đời khiêm nhường trong nhà thờ. Chẳng có gì đặc biệt đáng kể về những thành tựu của cha ngoài sự tận tụy không mệt mỏi mà cha dành cho bổn đạo của mình. Sức khỏe của cha rất tốt. ít ốm đau đến mức chẳng ghi gì nhiều trong y bạ. Khi còn thiếu niên cha bị gãy xương, do ngã xuống từ một tảng đá. Ngoài cái đó ra, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho thấy cha là một người khỏe mạnh tuyệt hảo. Cha không to đùng như Gunther hoặc nhanh nhẹn như những người Waalenberg. Khỏe mạnh một cách điềm đạm thôi.
Cuộc phỏng vấn chẳng có điều gì mới
Gray gập cuốn sổ tay lại và cám ơn cha đã dành thời gian tiếp anh. Để cho kỹ, đáng ra anh phải lấy mẫu máu và DNA khi mục sư đi khám sức khỏe định kỳ lần tới lại phối hợp thông qua bác của Rachel. Nhưng Gray không mong đợi gì từ những kết quả đó.
Đứa trẻ hoàn hảo của Hugo đã trở thành một người đức độ, chu đáo, có sức khỏe tốt. Và có thể như vậy là đủ hoàn hảo rồi.
Lúc Gray chia tay, anh phát hiện thấy một ván bài xếp hình chơi dở trên chiếc bàn trong góc phòng. Anh hất đầu về hướng đó:
— Vậy là cha thích chơi xếp hình ạ?
Cha Piotr mỉm cười vẻ có lỗi, nói phân bua:
— Ấy, chỉ là trò giải trí cho đầu óc minh mẫn thôi.
Gray gật đầu và bước ra. Anh nghĩ tới hứng thú của
Hugo Hirszfeld với chính trò này. Liệu có phải một số tinh chất ít ỏi của nhà nghiên cứu người Do Thái đã chuyển giao sang cậu bé này, truyền lại qua Cái chuông? Lúc Gray rời nhà thờ và quay lại vượt qua con sông, anh ngẫm nghĩ về những mối dây liên hệ như vậy. Cha và con trai. Đó có phải chỉ là gien? Hay còn có gì hơn nữa? Còn có gì nữa ở cấp lượng tử?
Câu hỏi không phải là mới đối với Gray. Anh và cha anh chưa bao giờ có mối quan hệ đẹp; mãi gần đây mới có những cầu nối thiết lập giữa hai người. Và rồi lại có những vấn đề khác, những mối quan tâm mệt mỏi. Giống như trò xếp hình đố chữ của Piotr, thì Gray đã thừa hưởng gì từ cha mình nhỉ? Chắc chắn là anh không thể phủ nhận nỗi sợ hãi của anh đối với căn bệnh lẫn cẫn, khả năng di truyền gien thực sự nhưng nó tiến triển sâu hơn thế, trở lại với mối quan hệ nhọc nhằn của họ.
Thế thì anh sẽ là loại ông bố gì đây?
Dù bị muộn, câu hỏi này làm Gray đứng lạnh người trên chiếc cầu sắt.
Trong một câu hỏi đó, thực tế bám đuổi anh. Anh còn nhó Monk thách thức mình trên chuyến máy bay đến Đức, về chuyện Rachel, về mối quan hệ của họ. Lời nói của anh ta quay trở lại với Gray lúc này đang đứng trên cầu.
Tớ lưu ý là Kat có mang và cậu nên xem lại cái mặt mình đi. Đừng có mà sợ bị thua. Và đấy là chuyện tớ chòng ghẹo cậu đấy mà.
Đây là gốc rễ của nỗi hoảng sợ của anh.
Thế thì anh sẽ là loại ông bố gì đây?
Anh sẽ bắt đầu lại là một ông bố như bố mình ư?
Gray đã tìm ra câu trả lời tại nơi bất ngờ nhất. Một cô bé chạy ngang qua anh trên cầu, tay nhét áo vào quần khỏi gió bay. Anh thoáng thấy hình ảnh Fiona. Anh nhớ lại cái ngày kinh hoàng ấy, tay cô bé nắm chặt tay anh, cần đến anh, nhưng mãi mãi dằn vặt anh. Anh nhớ lại cảm giác ấy mới hay làm sao.
Anh bóp mạnh tay vào lan can cầu.
Cảm giác tuyệt vời.
Anh muốn có thêm nữa.
Một tiếng cười bật ra từ miệng anh, chỉ là một gã điên trên cầu.
Anh không cần phải là cha mình. Trong khi tiềm năng còn ở đó để theo bước bố anh, anh cũng còn ý chí tự do, một lương tâm có thể làm sập đổ thế năng theo hướng ngược lại.
Cuối cùng lòng cảm thấy tự do, anh lại đi qua cầu, từ từ để thực tại này làm sập đổ những thế năng khác, đổ rầm rầm như những quân bài đô - mi - nô, cái này đổ đè lên cái kia, dẫn đến một thế năng cuối cùng bấp bênh đầy do dự.
Rachel.
Anh bước ra khỏi cầu và đi về nơi họ đã hò hẹn.
Khi anh đến quán cà phê, nàng đã đợi anh sẵn sàng tại một bàn ngoài hiên. Nàng hẳn là mới đến. Nàng chưa phát hiện ra anh. Anh sững lại, choáng vì nàng mới đẹp làm sao. Lần nào với anh nàng cũng như mới. Cao, chân tay dài, hông cong khêu gợi, ngực và cổ. Nàng quay lại, thấy anh đang nhìn mình chòng chọc. Nàng mỉm cười. Mắt nàng màu hung sáng lên ánh lửa ấm áp. Nàng vuốt những ngón tay qua làn tóc đen nhu gỗ mun, hầu như đầy e lệ.
Ai mà không muốn dành cả đời sống bên nàng?
Anh bước sang, lấp khoảng trông ngăn cách, chìa tay cầm lấy những ngón tay nàng.
Vào chính lúc đó, những lời thách thức của Monk lại quay trở lại với anh. Dường như là từ lâu lắm. Một thách đố về mối quan hệ của Gray và Rachel sẽ đi đến đâu. Một thách đố đếm trên ba ngón tay.
‘Vợ này, nợ cầm cố này, con thơ này.
Nói một cách khác đó là cuộc sống thực tại.
Một mối quan hệ không thể cứ để treo mãi mãi như một thế năng, cả hai đều đang yêu và không yêu. Tiến hóa sẽ không chịu điều đó. Cuộc sống thực tại phải đo lượng được nó.
Và thế là nó đã làm giờ đây đối với Gray.
Vợ này, nợ cầm cố này, con thơ này.
Gray đã có câu trả lời. Anh đã sẵn sàng đón nhận thách đố của cả ba vấn đề. Và với hiện thực hóa này, con bài đô - mi - nô cuối cùng đã đổ nhào trong trái tim anh.
Yêu hay không yêu.
Sóng hay hạt.
Gray cầm những ngón tay của Rachel. Anh nhìn bằng ánh mắt trong sáng, vậy mà kết quả vẫn làm anh ngạc nhiên. Anh kéo nàng về phía bàn, nhận thấy đã có một đĩa bánh nướng trên bàn và hai cốc cà phê bung bọt nâu đen, đợi sẵn dành cho họ.
Tính chu đáo lẽ thường của Rachel.
Anh kéo nàng ngồi xuống một ghế. Anh kéo ngồi một ghế khác.
Anh nhìn vào mắt nàng. Anh không thể giữ được nỗi buồn và hối lỗi thể hiện qua giọng nói của anh, nhưng anh cũng mặc cho âm thanh của quyết định chắc chắn của mình rung lên.
— Rachel em, chúng mình cần nói chuyện nghiêm túc.
Gray lúc ấy cũng nhìn thấy điều đó trong mắt nàng.
Thực tại. Hai nghề nghiệp, hai lục địa, hai con người với những con đường tách biệt từ đây.
Nàng bóp chặt những ngón tay anh:
— Em biết rồi.
Cha Piotr đã theo dõi người thanh niên trẻ tuổi vượt qua cái cầu. Ông đứng tại cánh cửa kho than dẫn vào hầm rượu vang của nhà mục sư. Ông đợi cho vị khách vừa đến của ông khuất bóng nơi cuối phố và ông thở dài.
Một cậu thanh niên đáng yêu, nhưng u uất bao trùm.
Cậu bé đáng thương còn nhiều chuyện buồn trước mặt.
Nhưng chuyến đi trên đường đời là thế.
Một tiếng meo meo làm ông chú ý nhìn xuống. Một con mèo mướp gầy giơ xương đang cọ lông vào mắt cá chân ông, đuôi cong lên cao, mắt ngước lên nhìn ông vẻ mong đợi. Một con vật nuôi lạc loài của cha Varick. Giờ đến lúc nó cần ăn. Piotr quỳ xuống và để đĩa thức ăn cân bằng trên một phiên đá. Chú mèo lang thang bên sông này cọ vào chân ông một lần cuối và õng ẹo ăn.
Cha Piotr khom người xuống nhìn ra sông, mặt nước bừng lên những tia sáng cuối cùng của ánh mặt trời. Ông nhận thấy có chút lông vũ gần chỗ gót chân mình. Một con chim sẻ nâu, nghẹo cổ. Một trong nhiều món quà mà mấy đứa trẻ mồ côi của ông đã để lại ở bậu cửa phòng ông.
Ông lắc đầu, nâng con chim què quặt đó lên lòng bàn tay, đưa nó lên môi. Ông thổi phù phù vào lông nó, cho các sợi lông nhảy múa dựng lên, nâng một cánh, bắt nhịp không khí theo nhịp đập dập dờn đến kinh ngạc. Từ lòng bàn tay ông, con chim sẻ tung bay, lao vút và múa cánh trên bầu trời.
Piotr nín thở ngắm nhìn, cố đọc điều gì đó trên đường bay của con chim vạch trong bầu không khí. Rồi sau đấy ông xoa tay và đứng lên vươn vai.
Cuộc sống mãi mãi là một bí ẩn tuyệt vời.
Thậm chí cả đối với hiểu biết của ông.