• 198

Phần I - Chương 2: Cuốn Kinh thánh của Darwin


Số từ: 12817
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• Ngày 16 tháng 5
6 giờ 5 phút sáng
Copenhagen, Đan Mạch

Những cửa hàng và những chú mèo thì có liên can gì với nhau?


Chỉ huy Grayson Pierce nhai thêm một viên kẹo cao su Claritin khi anh ra khỏi khách sạn Nyhavn. Đợt nghiên cứu trong giới thư mục của Copenhagen ngày hôm qua đã dẫn anh qua nửa tá cửa hàng sách của thành phố. Trong cửa hàng sách nào cũng vậy, có hàng bày mèo trông đầy vẻ phẫn nộ chiếm chỗ làm nơi cư ngụ, nằm ườn trên quầy trả tiền, lảng vảng rình mò, làm cập kênh những giá sách phủ đầy bụi và da đang mủn.
Giờ anh phải chịu đựng, hắt xì hơi. Hoặc có thể đơn giản đó là chớm cúm. Mùa xuân ở Copenhagen ẩm ướt và lạnh như bất cứ mùa đông nào ở xứ New England. Anh mặc chưa đủ ấm.
Anh mặc một chiếc áo cổ lọ đã mua từ một cửa hiệu sang, giá cao, gần khách sạn anh ở. Cổ rùa có dây bằng len Merino, không nhuộm và đồng màu. Và nó cọ vào cổ ngứa ngứa. Nhưng nó canh chừng được cái lạnh buổi sáng sớm. Mặc dầu đã qua bình minh hơn một giờ, mặt trời lạnh trên bầu trời xám màu đá than chẳng cho một chút hy vọng nào về một ngày ấm áp. Kéo căng cố áo lên, anh đi về hướng ga tàu hỏa trung tâm.
Khách sạn anh ở nằm bên kênh đào của thành phố. Những dãy nhà sơn vui mắt - lẫn lộn những cửa hàng, nhà tro nhà ở tư nhân - nằm ở cả hai bên con kênh làm Gray nhớ đến Amsterdam. Ven bờ, một dãy những con thuyền nhiều màu móc neo vào nhau: những con thuyền cũ, nhỏ đã phai màu, những tàu du lịch sáng choang, thuyền gỗ cũ kỹ, tàu buồm trắng lấp lánh. Gray đi ngang qua một cái thuyền và lắc đầu. Nó trông giống một cái bánh tiệc cưới nổi trên mặt nước. Vào giờ sớm này, cũng đã có một vài khách du lịch tay mang máy ảnh lang thang tìm vị trí chụp ảnh dọc theo tay vịn của chiếc cầu, chụp đó chụp đây.
Gray vượt qua đoạn đường lát đá và đi dọc được nửa đoạn bờ đá của con kênh, rồi anh dừng lại, tựa vào bức tường lan can nhìn ra dòng nước. Dáng hình phản chiếu của anh trên mặt nước tĩnh lặng làm anh hơi giật mình một lát. Chỉ là nửa thân, khuôn mặt cha nhìn chằm chằm ngược lại; mái tóc đen màu than phất phơ qua đôi mắt xanh, cằm xẻ, những mảng phẳng trên khuôn mặt tạo ra những góc sắc cạnh như đặc tả di sản bằng đá của xứ Welsh. Anh đúng là con trai của cha mình. Một thực tế mà Gray gần đây cứ bám vớt lấy được chút nào hay chút ấy, làm anh thức nhiều đêm không ngủ.
Còn những gì mà anh được thừa hưởng từ cha mình nữa nhỉ?
Một đôi thiên nga đen lướt qua chỗ anh đứng, làm lay động mặt nước, rung rã rời mặt gương nước phản chiếu. Lũ thiên nga bay về phía cầu, cổ dài vươn ra, mắt ngóng nhìn vào khoảng không gian hò hững.
Gray bắt chước chúng. Dóng thẳng người, anh giả vờ chăm chú chụp một kiểu ảnh dãy tàu, trong khi kỳ tình anh đang quan sát rất kỹ chiếc cầu mà mình vừa đi qua. Anh theo dõi những người đi qua xem có khuôn mặt nào quen hay không, có ai khả nghi hay không. Ở gần kênh đào này chính là một lợi thế. Những chiếc cầu là điểm chốt để quan sát bất cứ ai theo dõi anh. Chỉ cần vượt qua mấy nhịp cầu đá, bất cứ cái đuôi nào cũng phải lộ ra. Anh quan sát hết một phút cho tới lúc hài lòng nhớ lại những khuôn mặt và dáng đi, rồi anh lại tiếp tục.
Với nhiệm vụ nhỏ như thế, thì thói quen có xu hướng hoang tưởng hơn là cần thiết, song anh đeo quanh cổ mình một vật nhắc nhở tầm quan trọng của tính mẫn cán: một vòng nhỏ treo một con rồng bạc. Đó là món quà trong lần hoạt động cho phía bên kia. Anh đeo nó để nhắc nhở mình. Phải cảnh giác.
Khi anh lại bắt đầu đi, thứ rung động quen thuộc rung trong túi. Anh rút chiếc điện thoại di động ra và bật nắp. Ai lại có thể gọi anh vào giờ sớm thế này nhỉ?
— Pierce nghe đây. - Anh trả lời.
— Gray. Tốt lắm, anh tóm được em rồi.
Giọng quen thuộc mượt mà như lụa làm ấm lên buổi sáng lạnh lẽo của anh. Một nụ cười mỉm làm giãn bớt nét căng thẳng.
— Rachel đấy…à? - Bước chân anh đi hẫng lệch vì quan tâm. - Có chuyện à?
Rachel Verona là lý do chính mà Gray đề nghị nhận làm điệp vụ này, tung cánh ngang Đại Tây Dương đến Đan Mạch. Trong khi cuộc điều tra hiện nay có thể do trợ lý cấp thấp hơn tại Sigma đảm nhiệm, nhiệm vụ này cho anh một cơ hội hoàn hảo để nối lại liên lạc với cô thiếu úy xinh đẹp tóc sẫm màu của vùng Carabinieri nước Ý. Hai người đã quen nhau trong khi cùng làm một vụ hồi năm ngoái ở Rome. Từ bấy đến nay họ đã bày ra đủ có để gặp nhau. Việc này tỏ ra vẫn khó. Cương vị của cô giữ chân cô ở châu Âu, trong khi đó chức vụ của anh với Lực lượng Sigma lại hạn chế thời gian của anh không ra xa khỏi Washington. Đã gần tám tuần kể từ lần cuối họ bên nhau.
Quá là lâu.
Gray hình dung lại lần hẹn hò cuối cùng, tại một biệt thư ở Venice, hình bóng của Rachel tựa bên lan can cửa ra ao làn da bắt ánh nắng chiều, cả đêm đó họ ngủ bên nhau Ký ức dội qua tâm trí: môi nàng có vị quế và sôcôla, hương thơm đậm từ mái tóc mát của nàng, hơi thở nồng nàn của nàng phả vào gáy anh, tiếng rên nhẹ của nàng, nhịp điệu đều đều của hai cơ thể xoắn xít vào nhau, vuốt ve của nhung lụa….
Anh ước ao nàng nhớ mang theo con gấu nhồi bông màu đen.
— Chuyến bay của em bị chậm giờ bay rồi. - Rachel nói, cắt ngang giấc mộng ngày của anh bằng một thực tế.
— Cái gì? - Anh đứng thẳng người bên kênh, không sao kìm được vẻ thất vọng trong giọng nói của mình.
— Em đổi chuyến bay sang hãng KLM. Em sẽ hạ cánh lúc 22 giờ đêm.
Tức là mười giờ đêm. Anh chau mày. Điều này có nghĩa là phải hoãn bữa tiệc tối đã đặt trước tại quán Gertruds Kloster, một quán ăn nằm lọt thỏm trong một kho của tu viện thời trung cổ. Mà anh đã phải đặt chỗ trước cả một tuần.
— Em xin lỗi, - Rachel nói, lấp vào khoảng yên lặng.
— Không… khỏi lo đi. Chừng nào em đến đây. Chừng ấy là được rồi.
— Em biết. Em nhớ anh nhiều lắm.
— Anh cũng vậy.
Gray lắc đầu lúc trả lời yếu ớt. Trong con tim anh có nhiều điều muốn nói hơn, nhưng lời không chịu bật ra. Tại sao lúc nào cũng như thế nhỉ? Ngày đầu tiên của bất cứ cuộc hẹn hò nào cũng cần phải vượt qua một thứ hình thức nhất định giữa hai người, một vẻ bẽn lẽn đến ngớ ngẩn, khi chuyện thi vị hóa rất dễ, họ chỉ cần đơn giản ngả vào lòng nhau ngay lập tức và dễ dàng, thực tế lại khác vậy. những giờ đầu, họ đơn thuần là những người xa lạ có chung một quá khứ. Đương nhiên là họ ôm ghì lấy nhau, hôn nhau, nói những điều hay, nhưng trong thâm tâm họ lại cần có một lúc, vài giờ cần thiết để cập nhật thông tin cuộc đời của mỗi người cách nhau cả biển Đại Tây Dương. Nhưng quan trọng hơn họ tìm cách lấy lại nhịp điệu, thứ làn điệu ấm áp thường âm ỉ thành tình cảm yêu đương đắm say hơn. Và mỗi lần như thế Gray lại thấy sợ hai người không tìm ra nổi.
— Bố anh dạo này thế nào? - Rachel hỏi, bắt đầu những bước vũ điệu đầu tiên.
Anh hân hoan với mọi hướng hội thoại, trong khi không cần thiết chủ đề là gì. Nhưng ít ra thì anh đã có tin vui.
— Thực ra bố anh rất khỏe. Những triệu chứng của cụ đã ổn định nhiều, tuy chậm. Chỉ bị vài cơn lú lẫn. Mẹ anh tin rằng bố anh khá lên là nhờ ăn cà - ri.
— Cà - ri? Như trong gia vị ấy à?
— Chính vậy. Mẹ anh đọc một bài báo trong chuyên mục, thứ sắc tố màu vàng trong cà - ri đóng vai trò như một chất chống ô - xy hóa, chống sưng tấy. Có thể thậm chí nó còn phá hủy các mảng bựa gây ra bệnh gút.
— Nghe ra có chiều hứa hẹn nhỉ.
— Thế là mẹ anh cho cà - ri vào mọi món. Thậm chí cả món trứng đánh trộn bơ sữa rán buổi sáng của bố anh. Cả nhà có mùi như một nhà hàng Ấn Độ.
Tiếng cười vui của Rachel làm bừng buổi sáng ảm đạm.
— Ít ra thì mẹ anh còn biết nấu nướng.
Gray mỉm cười mở rộng câu chuyện riêng của gia đình anh. Mẹ anh, một giáo sư thường trực dạy môn sinh vật tại Đại học tổng hợp George Washington, chẳng bao giờ ai thấy bà trổ tài chăm sóc gia đình. Bà quá bận rộn với sự nghiệp của mình, một việc phải làm, sau một tai nạn công nghiệp làm cho bố của Gray tàn tật khoảng hai mươi năm trước đây. Bây giờ gia đình anh lại phải vật lộn với một vấn đề mới: giai đoạn đầu của bệnh gút của bố anh. Mới đây, mẹ anh xin nghỉ phép không lên giảng đường để chăm sóc chồng nhưng họ có nói là bà sẽ phải quay lại lớp. Mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp, chứng tỏ là thời điểm tốt cho Gray trốn khỏi Washington đi chuyến ngắn ngày này.
Trước khi anh có thể đáp lời, điện thoại của anh reo lên một cú gọi khác. Anh kiểm tra mã tên người gọi đến. Chết tiệt.
— Rachel này, anh vừa nhận cú gọi từ chỉ huy trung tâm. Anh cần xử lý công việc. Anh xin lỗi em nhé.
— Ô được mà, em sẽ để anh đi.
— Gượm đã, Rachel. Số chuyển bay mới của em là…
— Chuyến KLM 403.
— Anh nhớ rồi. Hẹn gặp em đêm nay nhé.
— Đêm nay. - Cô nói như vọng lại và dập máy.
Gray nhấn vào nút nhấp nháy và kích hoạt cú gọi kia.
— Pierce đây.
— Thưa chỉ huy Pierce.
Người nói bên kia đầu dây có chất giọng vùng New England, anh nhận ngay ra lập tức là Logan Gregory, phó chỉ huy Lực lượng Sigma, trực tiếp dưới quyền Giám đốc Painter Crowe. Theo phong cách tác vụ của mình, Logan không để phí lời nào.
— Chúng ta có điệp báo mới, có thể liên quan đến điệp vụ tìm kiếm của anh tại Copenhagen. Interpol báo cáo rằng người ta đột ngột quan tâm đến phiên đấu giá ngày hôm nay.
Gray đã vượt qua một chiếc cầu nữa. Anh lại đứng lại. Cách đây mười ngày, một cơ sở dữ liệu tại Cơ quan An ninh Quốc gia đã đánh dấu một loạt giao dịch chợ đen, tất cả đều chứa những tài liệu lịch sử đã từng thuộc về các nhà khoa học thời Victoria. Có người đang sưu tầm những văn bản viết tay, văn bản phiên âm, tài liệu pháp lý, thư từ, nhật ký của thời đó, nhiều vụ mua bán rất lờ mờ về quyền sở hữu. Trong khi, bình thường thì việc này, Lực lượng Sigma Force ít quan tâm đến, chỉ chuyên chú ý tới những vấn đề an ninh toàn cầu, cơ sở dữ liệu của Cơ quan An ninh Quốc gia đã kết nối một vài vụ mua bán này với những bè cánh trong các tổ chức khủng bố. Và dòng tiền của các tổ chức này luôn được phân tích nghiên cứu tỉ mỉ.
Ấy vậy, nó vẫn chưa có ý nghĩa gì hết. Trong khi một số tài liệu lịch sử đã tỏ ra thị trường đang phát triển theo kiểu đầu cơ kiếm lời, nó không phải là sân chơi của phần lớn các tổ chức khủng bố. Nhưng rồi lại một lần nữa, thời thế đã thay đổi.
Hoặc bằng cách này hay cách khác, Lực lượng Sigma đã sờ tay vào điều tra các khoản tiền gốc có liên quan. Nhiệm vụ của Gray là thu thập càng nhiều thông tin cơ bản về vụ bán hàng có mời chào xảy ra lúc chiều nay, bao gồm cả nghiên cứu các hạng mục được quan tâm đặc biệt, một số hạng mục được các nhà sưu tập địa phương và các cửa hiệu trong vùng chào bán. Đó là lý do vì sao anh đã dành hai ngày qua để đến các quầy sách, cửa hàng đồ cổ trong những dãy phố hẹp của Copenhagen. Anh tìm được sự giúp đỡ nhiều nhất tại một cửa hàng trên phố Hojbro Plads, do một cựu luật sư người ở bang Georgia làm chủ. Với sự giúp đỡ này, Gray cảm thấy mình đã sẵn sàng. Kế hoạch của anh sáng nay là rà soát lại khu vực đấu giá và gắn mấy chiếc máy ghi hình loại cúc áo bé tí xíu gần những lối vào và lối ra của khu đấu giá. Vào thời điểm đấu giá, Gray chỉ việc quan sát các nhà đầu tư chính và bấm mấy kiểu chân dung khi có thể. Một nhiệm vụ nhỏ, song nếu nó mở rộng được cơ sở dữ liệu của mấy phần tử ngoại vi trong trận chiến khủng bố, tất cả những thứ đó đều tốt hơn nhiều.
— Chuyện gì mà khuấy đảo lên thế? - Gray hỏi.
— Một hạng mục hàng mới. Nó đã thu hút mấy tướng đầu tư mà chúng tôi đang điều tra. Một cuốn Kinh thánh cổ. Vừa mới được phía tư nhân đưa ra chào bán.
— Nhưng sao lại sôi động lên thế?
— Theo như mô tả hạng mục hàng mới này thì cuốn sách gốc gác là của Darwin.
— Charles Darwin, cha đẻ của thuyết tiến hóa ư?
— Chính vậy.
Gray gõ khớp ngón tay vào thành gạch chắn. Lại một nhà khoa học thời Victoria khác nữa đây. Anh ngẫm nghĩ về chuyện này, anh quan sát kỹ chiếc cầu gần đó.
Anh dán mắt vào một thiếu nữ mặc bộ áo khoác thể thao màu xanh sẫm, kéo phéc-mơ-tuya cổ cao. Mười bảy… mười tám tuổi. Da mặt mịn, da màu nâu nhạt. Người Ấn Độ? Người Pakistan? Thứ mà anh có thể nhìn thấy là mớ tóc đen dài tràn ra từ một bên bím tóc dày duy nhất. Cô bé đeo một chiếc ba lô xanh lá cây nhàu nhĩ trên vai trái, giống như bất cứ sinh viên đại học đeo ba lô nào khác.
Ngoại trừ việc Gray đã trông thấy cô gái trẻ này trước khi… anh vượt cây cầu đầu tiên, Mắt cô gái bắt gặp ánh mắt anh một lát ở khoảng cách bốn mươi lăm mét. Cô gái quay mặt đi quá nhanh. Hừ, gian trá.
Cô gái đang theo dõi anh.
Logan tiếp tục nói:
— Tớ đã đưa địa chỉ người bán vào cơ sở dữ liệu điện thoại của cậu rồi đó. Cậu sẽ có đủ thời gian để phỏng vấn chủ hàng trước phiên đấu giá.
Gray liếc nhìn vào địa chỉ xuất hiện trên màn hình điện thoại, đánh dấu vào bản đồ thành phố. Cách tám khối nhà nữa, ngay cuối phố Stroget, dãy phố đi bộ chạy xuyên qua trung tâm Copenhagen. Không xa.
Nhưng trước hết…
Từ góc đáy mắt, Gray tiếp tục theo dõi chiếc cầu qua bóng hình phản chiếu trên mặt nước phía dưới. Trong ánh sương lay động, anh theo dõi cô gái đeo ba lô trên vai, cô kéo chiếc ba lô cao lên hòng che giấu sự nhận dạng của mình.
Cô bé này có biết trò che giấu của mình đã bị lộ tẩy chưa nhỉ?
— Chỉ huy Pierce? - Logan nói.
Cô gái đi đến cuối cầu, nhảy chân sáo và biến vào phố bên. Anh chờ xem cô có quay lại lần nữa không.
— Chỉ huy Pierce, anh đã thấy địa chỉ đó chưa?
— Rồi. Tớ sẽ kiểm tra ngay.
— Tốt lắm. - Logan thoát máy.
Từ lan can kênh đào, Gray quan sát kỹ vùng quanh mình, theo dõi cô gái có quay lại hoặc tìm xem có kẻ đồng lõa nào của cô ta xuất hiện không. Anh thấy ân hận là đã để khẩu 9 - mm Glock của mình ở lại két sắt khách sạn. Song những hướng dẫn từ khu đấu giá báo rằng khách mời sẽ bị kiểm tra qua cổng dò kim loại. Vũ khí duy nhất của Gray là con dao nhựa cứng trong bao. Tất cả là thế.
Gray chờ đợi.
Những bước chân người đi lại trải quanh anh khi thành phố tỉnh giấc. Đằng sau anh, một ông chủ nhà hàng mặt nhợt nhạt đang cậy băng từ thùng hàng bên hè phố, xả ra một mẻ cá tươi: cá bơn, cá tuyết, lươn và những con cá trích đâu đâu cũng có mặt.
Mùi cá tanh cuối cùng cũng đẩy anh khỏi vị trí bên bờ kênh. Anh đi hướng về phía ngoài kênh, chú ý thêm phía sau lưng mình.
Có lẽ anh đã quá hoang tưởng, nhưng trong nghề của anh, cái chứng loạn thần kinh ấy lại là khỏe. Anh lần ngón tay vào sợi dây tòng teng hình con rồng đeo quanh cổ và tiếp tục đi vào thành phố.
Sau khi đi thêm vài khối nhà nữa, anh cảm thấy an tâm lôi cuốn sổ tay nhỏ ra. Viết trên trang đầu tiên là danh mục hàng quan tâm, chào bán đấu giá buổi chiều hôm đó.
1. Bản photo bản viết tay của Gregor Menclel từ năm 1865 về gien di truyền.

2. Sách của Max Planck viết về vật lý học:
Thermodynamik từ năm 1897 và cuốn Theorie der Warmestrahlung từ năm 1906. cả hai cuốn đều có chữ ký của tác giả.

3. Nhật ký của nhà thực vật Học Hugo De Vries năm 1901 về đột biến gien thực vật.

Gray đã chú giải nhiều thông tin về những hạng mục này từ việc nghiên cứu ngày hôm qua của mình. Anh đánh dấu hạng mục quan tâm cuối cùng.
4. Cuốn Kinh thánh của gia đình Charles Darwin.

Lật gấp cuốn sổ tay lại, anh tự hỏi, có lẽ đến lần thứ một trăm từ lúc bay tới đây: Mối liên hệ ở đây là gì?
Có lẽ đây là bài toán đố để lại cho ai đó tại Sigma giải. Anh nghĩ đến chuyện để Logan chuyển một số chi tiết cho các bạn đồng nghiệp của mình, như Monk Kokkalis và Kathryn Bryant chẳng hạn. Đôi này đã chứng tỏ là những chuyên gia cùng nhau mổ xẻ chi tiết và dựng lên những mẫu hình nơi mà chẳng có gì từng tồn tại. Vậy, có thể thực ra chẳng có mẫu hình nào ở đây. Quá sớm để nói lên điều gì. Gray cần thu thập thêm một chút tin tình báo, một vài sự thật nữa, đặc biệt về hạng mục cuối cùng này.
Tới lúc ấy, anh sẽ để đôi uyên ương tự làm việc với nhau.

• 9 giờ 32 phút tối. EST
Washington, DC
— Có thật thế không?
Monk đặt một bàn tay lên da bụng người phụ nữ anh yêu. Anh quỳ xuống bên cạnh chiếc giường trong bộ quần đùi Nike màu da cam và đen. Chiếc áo sơ mi của anh ướt đẫm sau lần chạy buổi tối, ném trên sàn gỗ cứng. Lông mày, nơi duy nhất có lông trên cái đầu đã cạo nhẵn của anh, rướn lên đầy vẻ mong đợi.
— Đúng vậy. - Kat khẳng định. Cô từ từ gỡ tay anh ra và trở mình về phía bên kia giường.
Monk càng cười rạng rỡ hơn. Anh không thể tin được.
— Em có chắc như vậy không?
Kat sải bước chạy về phía nhà tắm, mặc bộ đồ lót màu trắng và chiếc áo sơ mi quá khổ kiểu Georgia Tech. Mái tóc nâu thẳng buông thả trên vai.
— Em chậm kinh năm ngày rồi. - Cô cau có trả lòi. - Hôm qua em đã thử kiểm tra thai.
Monk đứng dậy:
— Hôm qua à? Vì sao em không nói cho anh?
Kat đi vào buồng tắm, khép hờ cánh cửa.
— Kat?
Anh nghe thấy tiếng nước chảy ở vòi hoa sen. Anh đi vòng quanh chiếc giường và đi tối chỗ đường vào nhà tắm. Anh muốn biết nhiều hơn. Cô đã thả một quả bom khi anh quay trở lại sau lần chạy bộ buổi tối và thấy cô nằm còng queo trên giường. Đôi mắt sưng lên, mặt nặng trịch. Cô đã khóc, anh đã dỗ dành đế phát hiện ra điều gì làm cô khó chịu cả ngày.
Anh gõ vào cửa. Tiếng ồn nghe to hơn, cương quyết hơn mức anh định làm. Anh cau có vì bàn tay không theo ý mình. Bàn tay giả năm ngón, được chêm đầy trong bộ đồ DARPA. Anh đã nhận được bàn tay giả này sau khi bị mất một bàn tay trong một lần công tác. Nhưng nhựa và sắt không phải là da thịt, vỗ tay lên chiếc cửa gỗ nghe cứ như đang đập vỡ cửa ra.
— Kat, kể cho anh nghe đi. - Anh nói nhẹ nhàng.
— Em chỉ tắm nhanh thôi mà.
Mặc dù cô nói vậy, Monk vẫn nghe thấy được vẻ căng thẳng. Anh lén nhìn vào nhà tắm. Mặc dầu họ biết nhau gần một năm nay anh vẫn có một ngăn kéo riêng trong căn phòng của cô ở đây, vẫn có những giới hạn tài sản.
Kat ngồi trên toa - lét, hai tay ôm đầu.
— Kathryn
Cô liếc mắt nhìn lên, hơi giật mình vì sự đường đột.
— Kìa anh Monk! - Cô vươn người về phía cửa ra vào rồi đẩy cửa đóng lại.
Anh chặn cửa bằng chân.
— Có vẻ như em không tắm.
— Em đang đợi cho nước nóng lên.
Monk nhận thấy mặt gương ẩm hơi nước khi anh bước vào. Căn buồng tắm có mùi hoa nhài. Một hương vị dễ chịu. Anh bước vào và lại quỳ xuống trước mặt cô.
Cô tựa mình lui lại.
Anh đặt tay, một bàn tay bằng xương thịt, một bàn tay bằng nhựa tổng hợp lên đầu gối cô.
Cô không nhìn vào mắt anh, đầu óc vẫn lâng lâng.
Anh đẩy hai đầu gối cô sang hai bên, tựa vào đó, lướt bàn tay dọc vế đùi cô và ôm ngang mông. Anh kéo cô về phía mình
— Em phải… - Cô bắt đầu nói.
— Em phải tới đây với anh. - Anh nâng bổng cô lên, từ từ đặt lên đùi mình, giạng hai chân ra. Khuôn mặt anh chỉ cách khuôn mặt cô một hơi thở.
Cuối cùng cô nhìn vào mắt anh:
— Em… Em xin lỗi.
Anh tựa sát gần hơn.
— Xin lỗi về cái gì? - Môi họ cọ vào nhau.
— Đáng ra em nên cẩn thận hơn.
— Anh không nhớ là mình có phàn nàn gì không.
— Nhưng cái loại lỗi lầm này…
— Không bao giờ. - Anh hôn cô mãnh liệt không cáu giận chỉ để khẳng định chắc chắn. Anh thì thào qua làn môi:
— Không bao giờ nhắc lại điều đó nữa nhé.
— Chúng ta sẽ làm gì?
— Anh có thể không biết mọi điều, nhưng anh biết câu trả lời đó.
Anh lăn qua một phía và đặt cô xuống bồn tắm ngay dưới mình.
— Ồ. - Cô nói.

• 6 giờ 55 phút sáng
Copenhagen, Đan Mạch
Gray ngồi trong quán cà phê đối diện với một cửa hàng đồ cổ nhỏ. Anh quan sát tòa nhà bên kia phố.
Dòng chữ Sjelden Boger viết bằng chì sáp trên cửa sổ. Sách hiếm , cửa hàng sách chiếm tầng một của dãy nhà hai tầng có mái đỏ. cửa hàng giống như các tòa nhà kề cận, nối tiếp nhau xuống hết phố. Và cũng giống như những căn nhà khác trong khu kém thịnh vượng của thành phố này, nó đã bị ọp ẹp lắm rồi. Phần trên các cửa sổ đã phải ghép tấm ván. Thậm chí cửa hàng tầng một cũng đã phải chằng chống đằng sau một chiếc cổng sắt cuốn.
Lúc này đang đóng cửa.
Khi Gray chờ đợi cửa hàng mở cửa, anh nhìn vào tòa nhà với đôi mắt bao quát hơn, nhâm nhi cái thứ mà họ gọi là sôcôla nóng ở đây, ở nước Đan Mạch, đặc đến nỗi nó có vị như một thanh Hersheys nóng chảy. Anh đưa mắt tìm kiếm đằng sau những cánh cửa sổ ghép ván. Mặc dầu tòa nhà đã phai màu, vẻ hấp dẫn cổ xưa của nó vẫn tồn tại: những cánh cửa sổ hình mắt cú chìa ra từ các phòng áp mái, những đầu rầm nặng trịch giằng chéo trên tầng trên, và một dóng trụ của dầm ngang mái nhà đứng mãi mãi, sẵn sàng rũ bỏ những trận mưa tuyết của một mùa đông dài. Gray thậm chí còn phát hiện ra những vết sướt dưới những cánh cửa sổ, chỗ đã từng bị người ta siết ốc vào để treo các hộp đựng hoa.
Gray ngẫm nghĩ đến những cách thức phục chế lại ngôi nhà cho trở lại cái thời huy hoàng của nó, xây lại ngôi nhà trong đầu óc anh, một bài tập trí tuệ để cân bằng công nghiệp xây dựng với thẩm mỹ.
Anh thậm chí còn có thể ngửi thấy mùi mùn cưa.
Ý nghĩ cuối cùng này bất chợt làm thức giấc mơ ban ngày. Những hoài niệm khác xen vào, không mong đợi, không muốn có: xưởng cơ khí của cha anh trong nhà để xe, làm việc bên người sau giờ học. Những gì thường bắt đầu đơn giản như một dự án sáng tạo lại thường kết thúc bằng cuộc cãi vã và những lời xỉ vả khó mà lấy lại được. Cuộc đấu khẩu thực tế đã đẩy Gray khỏi trường trung học và vào quân đội. Mãi sau này cha con mới tìm ra những cách thức mới giao tiếp với nhau, tìm ra nền tảng chung và chấp nhận những khác biệt.
Ấy vậy mà, Gray vẫn bị ám ảnh vì những lời nhận xét bâng quơ của mẹ anh. Cha và con có nhiều điểm giống nhau nhiều hơn là khác biệt. Tại sao cái chuyện ấy cứ làm anh phiền lòng suốt mãi vậy? Gray đẩy bỏ ý nghĩ đó đi và lắc mạnh đầu.
Mất tập trung, anh kiểm tra lại đồng hồ, sốt ruột mong cho ngày trôi đi. Anh đã rà soát kỹ khu vực đấu giá, gắn hai chiếc máy ghi hình ở đường vào trước và cửa hậu khu đấu giá. Tất cả những gì anh cần làm tiếp là phỏng vấn người chủ cửa hàng ở đây về cuốn Kinh thánh và chụp vài kiểu ảnh của những người mua tham gia sau đó là xong, mở ra Cả cuộc nghỉ cuối tuần vui thú với Rachel.
Cái ý nghĩ về nụ cười của nàng làm dãn bớt cái nút u khó chịu mới nổi lên trên bả vai anh. Cuối cùng, một tiếng chuông ngân dài ngang qua phố. Cánh cửa vào cửa hiệu mở ra và cổng cuốn an ninh cũng kéo lên.
Gray ngồi dựng người dậy, ngạc nhiên nhìn người mở cửa hiệu. Tóc đen búi tó, nước da màu nâu cà phê, đôi mắt bồ câu mở to. Cái cô bé này chính là người đã theo dõi anh sáng sớm nay. Cô bé vẫn còn mặc chiếc áo thun thể thao có phéc-mơ-tuya và đeo cái ba lô nhàu nhĩ.
Gray rút ra một nắm hóa đơn và để bó hóa đơn trên bàn, vui sướng thoát khỏi ý tưởng ám ảnh mình và trở về với công việc trước mắt.
Anh bước ngang qua dãy phố hẹp lúc cô bé mở xong cánh cổng. Cô bé liếc nhìn qua chỗ anh, không tỏ vẻ ngạc nhiên.
— Để tôi đoán nhé. - Cô gái nói giọng tiếng Anh giòn tan, có âm sắc Anh quốc, mắt nhìn anh từ đầu đến chân. - Người Mỹ.
Anh chau mày vì thái độ đường đột của cô gái. Anh đã nói lời nào đâu. Nhưng anh vẫn giữ bộ mặt hơi tò mò, để không lộ dấu vết nào là anh đã phát hiện ra cô gái đeo bám anh sáng sớm nay.
— Làm sao mà cô biết vậy?
— Kiểu đi của anh. Mông vểnh lên. Làm cả người trôi đi.
— Có thế thôi á?
Cô gái khóa cổng lại. Anh để ý thấy cô bé đeo mấy khuy ghim trên áo thun: một lá cờ của nhóm Hòa Bình xanh hình cầu vồng, một biểu tượng Celtic bằng bạc, một chiếc chìa khóa chữ thập kiểu Ai Cập, một bộ sưu tập phân loại các khuy áo cùng với những khẩu hiểu bằng tiếng Đan Mạch, có một khẩu hiệu bằng tiếng Anh: TIẾN LÊN, CÁC CHÚ CHUỘT LEM - MÚT, TIẾN LÊN
. Cô bé cũng đeo một vòng tay bằng cao su trắng có một từ HY VỌNG
khắc chìm trên vòng.
Cô bé khua tay bảo anh tránh ra, nhưng lại va vào anh khi anh không chuyển động nhanh. Cô bước lùi ngang qua phố.
— Một tiếng nữa cửa hàng mới mở cửa. Xin lỗi anh nhé.
Gray đứng khom người xuống, liếc mắt nhìn khoảng giữa chỗ cửa ra vào và cô gái. Cô gái đi ngang qua phố và hướng tới cửa hàng cà phê. Đi ngang qua chỗ cái bàn mà anh vừa đứng dậy, cô gái nhặt một tờ hóa đơn mà Gray vừa bỏ đó và đi vào trong. Gray chờ đợi. Xuyên qua cửa sổ anh thấy cô gái gọi hai ly cà phê lớn và trả tiền bằng tờ hóa đơn nhặt trộm được.
Cô bé quay trở lại, mỗi tay một cốc cà phê đầy bọt.
— Anh vẫn còn ở đây à? - Cô hỏi.
— Chẳng có chỗ nào khác vào lúc này.
— Chán nhỉ. - Cô gái gật đầu hướng về chiếc cửa ra vào và giơ cả hai tay lên. - Thế hả?
— Ồ. - Gray quay lại và mỏ cửa ra vào giúp cô.
Cô chạy nhanh vào trong.
— Bertal! - Cô gái gọi ầm lên và liếc nhìn lại anh. - Anh có vào không đây?
— Tôi nghĩ cô đã nói là…
— Bollocks. - Mắt cô gái long lên. - Đóng kịch thế đủ rồi. Cứ như thể là anh đã không trông thấy em sáng sớm nay ấy.
Gray cảm thấy căng căng. Vậy không phải là chuyện tình cờ. Cô bé này đã theo dõi anh.
Cô gái gọi với vào trong cửa hiệu.
— Bertal! Tóm được cái đuôi của mày đây này!
Bối rối và lo lắng, Gray cứ thế theo cô gái vào trong cửa hàng. Anh đứng bên cửa ra vào, sẵn sàng chạy đi nếu cần thiết.
Cửa hàng hẹp như một cái ngõ nhỏ. cả hai bên lối đi có những dãy giá sách cao từ sàn đến trần nhà, xếp chặt cứng sách, tệp, văn bản và sổ nhỏ. Vài bước chân vào bên trong, Có hai cái tủ kính kê hai bên lối đi, khóa chặt. Bên trong là sách bìa bọc da để lộn xộn và mấy cuộn giấy cuốn trong những chiếc ống màu trắng chống a - xít.
Gray lùng vào sâu hơn.
Vẩn bụi lơ lửng trong không gian hiện lên qua những tia nắng xiên chéo của buổi sáng. Không khí trong cửa hàng sách có mùi ải như mùi kho giấy. Nó cũng giống mùi vị cũ kỹ của châu Âu. Già cỗi và cổ điển là một phần của cuộc sống hàng ngày ở đây.
Dẫu vậy, bất chấp vẻ hom hem còm cõi của ngôi nhà cửa hàng sách này vẫn toát lên cái duyên chào đón khách từ những chân nến trên tường bằng kính màu cho đến những cái thang nhỏ tựa vào các tủ sách. Thậm chí có cả hai chiếc ghế đệm căng phồng kê gần cửa sổ trước.
Và hay nhất trong tất cả là…
Gray hít một hơi thật sâu.
Không có mèo.
Và lý do vì sao lại trở lên rõ ràng như vậy.
Xung quanh những kệ sách, một mớ những đống ngổn ngang đập vào tầm mắt. Trông như con Saint Bernard đi qua, một con chó già với đôi mắt phì nộn. Con chó lấc cấc chạy lóng cóng đến chỗ họ, cà nhắc, thọt chân trước bên trái. Móng vuốt bên phía đó là móng treo huyền đề.
— Đứng đó, Bertal. - Cô gái cúi nghiêng xuống đổ thứ nước từ một chiếc cốc Styroíoam vào cái bát trên sàn. - Cho cái đồ ghẻ lở vô tích sự này trước khi uống sữa sáng. - Lời nói rõ ràng có vẻ cưng nựng.
Con Saint Bernard đến bên họ hăng hái vỗ vỗ vào cái bát.
— Tôi không nghĩ rằng cà phê có lợi cho chó. - Gray cảnh báo.
Cô gái đứng thẳng người dậy, hất búi tóc qua vai.
— Đừng lo. Cà phê này đã trung hòa chất caffeine rồi. - Cô gái tiếp tục đi vào bên trong cửa hàng.
— Cái móng nó bị sao đấy? - Gray hỏi, cố tạo ra những câu trao đổi nhỏ trong khi anh thích nghi tình huống. Anh vỗ tay nhẹ vào bên sườn con chó lúc anh đi ngang qua nó, nhưng chỉ chạm được vào cái đuôi.
— Sương muối cắn đấy. Bà Mutti chữa được cho nó lâu rồi.
— Mutti gì cơ?
— Bà em ấy mà. Bà đang đợi anh đó.
Có tiếng gọi từ phía sau cửa hàng.
— Đấy có phải là Kobe không, cháu Fiona?

— Dạ bà Mutti! Khách mua hàng người Mỹ. Bà nói tiếng Anh đi.
— Đưa anh ta vào văn phòng.
— Bà Mutti sẽ tiếp anh trong văn phòng. - Cô gái, tên là Fiona dẫn anh đến phía cuối phòng. Con chó đã xơi xong món cà phê sáng và bám sát gót Gray.
Ở giữa cửa hàng, họ đi qua một bàn đăng ký trả tiền nhỏ, trên bàn có một chiếc máy vi tính hiệu Sony và một máy in. Có vẻ như thời hiện đại đã tìm được nơi cắm chân ở đây.
— Chúng em có trang chủ riêng. - Fiona nói khi thoáng thấy anh để ý.
Họ đi qua chỗ bàn đăng ký và vào một căn phòng phía sau qua một cánh cửa để mở. Không gian ở đây giống một phòng khách hơn là một văn phòng. Có một cái ghế bành, một cái bàn thấp và hai cái ghế tựa. Thậm chí bàn làm việc trong góc nhà trông hợp với chỗ để một cái đĩa đựng chén và am trà hơn là làm bàn giấy. Một bức tường được lát bằng một dãy hộp tài liệu màu đen. Trên đó là cửa sổ có chấn song để lọt ánh nắng tươi vui của buổi sáng, chiếu rọi vào người duy nhất ngồi trong văn phòng.
Bà đứng lên và chìa tay ra.
— Chào Tiến sĩ Sawyer. - Bà nói, sử dụng tên mà anh dung cho điệp vụ này. Rõ ràng bà đã rà soát một số thông cơ bản về anh. - Tên tôi là Grette Neal.
Cái nắm bắt tay của người phụ nữ chắc nịch. Bà gầy gò, và dù da trông xanh tái nhưng sức khỏe kiên cường của thôn quê vẫn hiện lên qua ánh mắt nhìn xăm xoi của bà. Bà vẫy tay mời Gray đến ngồi trên một chiếc ghế. Toàn bộ phong thái của bà rất xuềnh xoàng, thậm chí cả cách ăn mặc: quần bò xanh nước biển, áo sơ mi màu ngọc lam, đôi giày màu đen khiêm tốn. Mái tóc bạc dài được chải thẳng, làm tăng vẻ long trọng, song trong ánh mắt lại lóe lên vẻ khoái trá tinh quái.
— Cậu vừa gặp cháu gái tôi. - Thứ tiếng Anh trôi chảy của bà Grette Neal nghe rất nuột, nhưng rõ ràng vẫn có chất giọng Đan Mạch. Không như cô cháu gái của bà.
Gray liếc nhìn giữa người phụ nữ luống tuổi xanh xao và cô gái da nâu. Không có nét giống nhau của người cùng gia đình, Gray giữ im lặng về vấn đề này. Anh có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần làm sáng tỏ.
— Vâng, chúng cháu vừa gặp nhau. - Gray nói. - Thực ra, có vẻ như cháu đã gặp cháu gái bà hai lần hôm nay rồi.
— À, cái kiểu tò mò của Fiona sẽ gây rắc rối cho chính nó mất thôi. - Vẻ trách cứ của bà Grette đối với cô cháu gái dịu đi cùng một nụ cười. - Nó đã trả lại ví cho cháu chưa?
Gray rướn lông mày lên. Anh vỗ tay vào túi sau chỗ để ví. Rỗng tuyếch.
Fiona thò tay vào túi bên của chiếc ba lô và chìa ra chiếc ví da nâu của anh.
Gray chộp lại chiếc ví. Anh nhớ ra khi cô bé chạy va vào người anh lúc đi lấy cà phê. Cách thức chỉ hơn kiểu cư xử thô lỗ vì sốt ruột.
— Xin anh đừng tự ái. - Grette bảo đảm. - Đó chẳng qua là cách chào hỏi của cháu tôi thôi.
— Đã kiểm tra tất cả thông tin cá nhân của anh này. - Fiona nhún vai nói.
— Thế thì trả hộ chiếu cho anh chàng đi, Fiona.
Gray kiểm tra túi quần kia. Mọi thứ trong túi cũng biến. Vì Chúa lòng thành!
Fiona ném qua cuốn sổ màu xanh nước biển nhỏ có hình con đại bàng của Hoa Kỳ trên bìa.
— Hết chưa, còn gì không? - Gray hỏi, tự vỗ về mình ngồi xuống.
Fiona nhún vai.
— Lại lần nữa xin lỗi về chuyện rườm rà của cháu gái tôi. Đôi lúc nó tự vệ quá mức.
Gray nhìn chằm chằm vào cả hai người họ.
— Liệu một trong hai người có thể giải thích chuyện gì đang diễn ra với cháu được không?
— Anh đến đây vì cuốn Kinh thánh của Darwin. - Grette nói.
— Cuốn Kinh thánh. - Fiona dịch lại.
Grette gật đầu với cô cháu gái. Việc nói líu lưỡi đơn giản là thể hiện sự lo lắng.
— Cháu đại diện cho một người mua quan tâm đến cuốn sách. - Gray nói.
— Vâng. Chúng tôi biết. Và anh dành cả ngày hôm qua để hỏi han những người khác về những hạng mục bổ sung cho cuộc bán đấu giá tại khu đấu giá Ergenschein chứ gì?
Lông mày Gray rướn lên ngạc nhiên.
— Chúng tôi chỉ là một cộng đồng thư mục nhỏ ở đây, trong thành phố Copenhagen. Nên tin tức lan rất nhanh trong giới chúng tôi.
Gray chau mày. Trước đó anh đã nghĩ mình cần phải cẩn thận hơn.
— Chính mối quan tâm của anh đã giúp tôi quyết định đệ trình cuốn Kinh thánh của Darwin cho cuộc đấu giá. Toàn bộ cộng đồng chúng tôi bị khuấy đảo vì ngày càng có nhiều người quan tâm đến những luận án khoa học thời Victoria.
— Cho đây là một dịp tốt để bán hàng, - Fiona nói, hơi quá khẳng định, cứ như thể đó là kết cục lòng thòng của một cuộc tranh luận gần đây. - Hợp đồng thuê phòng đã qua một tháng.
Lời nói của cô bé lạc đi.
— Đó là một quyết định khó khăn. Cuốn Kinh thánh được cha tôi mua trong năm 1949. Ông ấy giữ cuốn sách như một thứ tài sản. Có tên viết tay của gia đình Darwin, tới mười thế hệ, trước khi Charles Darwin vinh hiển. Nhưng cuốn Kinh thánh này cũng có mối quan tâm lịch sử khác: Cuốn sách đã cùng đi với ông một chuyến đi vòng quanh thế giới trên boong tàu HMS Beagle. Và tôi không rõ liệu anh có biết không, nhưng chính Charles Darwin đã có lần nghĩ đến vào học trong một trường dòng. Và trong chính cuốn Kinh thánh này, anh sẽ thấy sự cặp kè bên nhau của một con người sùng đạo và một nhà khoa học.
Gray gật đầu. Đơn giản là người phụ nữ này đang cố thuyết phục anh. Tất cả những cái đó liệu có phải là mánh khóe thêu dệt để lùa anh vào cuộc đấu giá hay không? Để có được giá hời nhất? Bất kể là kiểu này hay kiểu kia thì Gray vẫn có thể sử dụng việc này sao có lợi cho mình.
— Thế thì vì lý do gì mà Fiona lại theo dõi cháu? - Anh hỏi.
Thái độ của bà Grette tỏ ra mệt mỏi.
— Tôi đã xin lỗi nhiều lần về chuyện can thiệp. Như tôi nêu trước rồi, có quá nhiều mối quan tâm đến những đồ của thời Victoria, và đây lại là một cộng đồng buôn bán ít người. Chúng tôi được biết đã có một số giao dịch… nói thế nào nhỉ… nếu như không qua chợ đen thì cũng là qua chợ xám.
— Vậy nên cháu có nghe người ta đồn đại. - Anh nói một cách bẽn lẽn, hy vọng nặn thêm một ít thông tin.
— Có một số người mua đã đưa ra giá đấu đểu hoặc trả tiền lậu, lập séc khống vân vân và vân vân. Fiona chỉ tìm cách bảo vệ tốt nhất lợi ích của tôi. Đôi lúc con bé đi quá xa, sa ngã vào cái tài đáng ra phải từ bỏ từ lâu. - Người phụ nữ rướn mày trách cứ cô cháu gái.
Fiona bỗng chốc tìm ra cơ sở cho mối quan tâm đặc biệt của mình.
— Có một quý ông cách đây một năm dành trọn cả tháng trời lùng sục hồ sơ lý lịch hàng của em, những hồ sơ ghi chép quyền sở hữu. - Cô gái hất hàm về phía những tủ tài liệu kê sát tường. - Thế mà chỉ trả tiền cho dịch vụ đó bằng thẻ tín dụng đánh cắp. Quý ông ấy tỏ vẻ chú ý đặc biệt đến cuốn Kinh thánh của Darwin. - Vậy nên, hai bà cháu em không thể không cẩn thận. - Fiona nói, lại một lần nữa nhấn mạnh.
— Cô có biết người ấy là ai không? - Gray dò hỏi.
— Không, nhưng em nhố mặt người đó nếu gặp lại. Anh chàng trông ngồ ngộ, xanh tái. - Fiona lại khuấy động lên: - Nhưng rồi, cuộc điều tra gian lận do ngân hàng tiến hành đã lần ra tuyến đi của anh chàng, xuyên qua Nigeria đến Nam Phi. Có thể xa đến mức đó. Thằng chó đểu đã che đậy hành tung của mình.
Grette nhăn mặt:
— Cháu gái ơi, chú ý cách nói năng đi.
— Tại sao lại phải điều tra tỉ mỉ đến thế vì một món nợ? - Anh hỏi.
Fiona lại tìm ra cơ sở cho câu chuyện hấp dẫn.
Grette nhìn chằm chằm vào cô cháu gái.
— Anh này có quyền được biết.
— Bà Mutti… - Fiona lắc đầu.
— Biết cái gì đây?
Fiona trợn mắt nhìn anh. rồi quay đi.
— Anh này sẽ kể cho người khác, và chúng ta sẽ lấy nửa giá cho chuyện đó.
Gray giơ tay lên.
— Tôi có thể kín tiếng.
Grette nhìn chăm chú vào anh, một mắt nheo nheo lại.
— Nhưng anh có chân thật không đã, thưa tiến sĩ Sawyer.
Gray cảm thấy mình đang bị cả hai người phụ nữ xăm xoi. Cải trang của anh có chắc chắn như anh hy vọng không nhỉ? Cái nặng của những ánh mắt nhìn của cả hai người phụ nữ làm lưng anh cứng đơ lại.
Grette cuối cùng nói.
— Anh cũng nên biết. Sau khi anh chàng da xanh tái bỏ trốn cùng với những kiến thức thu thập được ở đây, có một vụ đột nhập. Không mất gì cả, nhưng hộp trưng bày chỗ chúng tôi thường bày cuốn Kinh thánh của Darwin đã bị nhấc ra và mở. May thay, cuốn Kinh thánh và những đồ đắt tiền nhất của chúng tôi đã được giấu dưới kho ngầm vào ban đêm. Cũng nhờ cảnh sát phản ứng ngay với tín hiệu báo động đã đuổi được bọn trộm đi. Vụ trộm đột nhập này vẫn chưa giải quyết được. Nhưng chúng tôi đã biết ai đứng đằng sau vụ đó.
— Đồ hèn. - Fiona lầu bầu.
— Từ đêm đó trở đi, chúng tôi phải cất giữ cuốn Kinh thánh vào két sắt ngân hàng gần đây. Ấy vậy mà chúng tôi vẫn bị cướp hai lần trong năm nay. Thủ phạm qua mặt hệ thống cảnh báo, mỗi lần chúng đều lục lọi tanh bành lên.
— Có kẻ đang lùng tìm cuốn Kinh thánh. - Gray nói.
— Chúng tôi cho là thế.
Gray bắt đầu hiểu ra. Không phải tiền bạc là nhân tố quyết định trong việc bán đi cuốn Kinh thánh, mà còn là đỡ gánh lo cho họ. Có kẻ nào đó muốn có bằng được cuốn kinh thánh, và thế là cuộc săn lùng này có thể leo thang thành biện pháp bạo lực hơn là để giành quyền sở hữu cuốn sách. Và như vậy, mối đe dọa đó có thể chuyển sang người mua mới.
Từ đáy mắt mình, Gray chú ý quan sát Fiona. Tất cả hành động của cô bé đã làm là để bảo vệ bà mình, để bảo vệ an ninh tài chính của họ. Anh để ý thấy lúc này có cả ánh lửa trong mắt cô gái. Cô gái đơn giản chỉ mong bà mình kín đáo hơn.
— Cuốn Kinh thánh có thể an toàn hơn trong một bộ sưu tập tại Hoa Kỳ. - Grette nói. - Những chuyện phiền toái như thế có thể không sang đến bên kia biển rộng.
Gray gật đầu, đọc vị được tông giọng đằng sau những ngôn từ.
— Bà đã tìm ra lý do gì mà người lạ lại say sưa mưu cầu có cuốn Kinh thánh đến thế? - Anh hỏi.
Bây giờ đến lượt Grette sục sạo suy nghĩ.
— Thông tin như vậy chỉ có thể làm cho cuốn Kinh thánh thêm giá trị đối với khách hàng của cháu mà thôi. - Gray nhấn mạnh.
Ánh mắt Grette bật lại anh. Phần nào, bà đã hiểu sự dối trá đằng sau lời anh nói. Bà nhìn kỹ lại anh lần nữa, cân nhắc gì đó hơn là sự thật lời nói của anh, nhìn sâu hơn vào đáy mắt.
Vào lúc này, con Bertal chạy liêu xiêu vào văn phòng, mũi hít hà mấy cái bánh bích quy cạnh chiếc ấm trên bàn, rồi chạy ngang sang phía Gray đang ngồi phịch xuống sàn với tiếng thở dài. Cái mõm của nó kê lên mũi giày của Gray, đơn giản tỏ vẻ thoái mái với anh chàng người lạ mới vào cửa hàng.
Như thể sự việc thế là đủ, bà Grette thở dài và nhắm mắt lại, tất cả những nét căng thẳng dịu đi.
— Tôi không biết chắc đâu. Tôi chỉ có một vài giả định.
— Cháu sẽ nhận những gì bà có thể cho.
— Người lạ ấy đến đây tìm kiếm thông tin liên quan đến một thư viện bị bán vụn sau chiến tranh. Thực tế, chiều nay người ta đã đem bán đấu giá bốn vật. Cuốn nhật ký của Vries, một bản sao các bài báo của Mendel và hai bài viết của nhà vật lý học Max Planck.
Gray quá biết về danh mục đó trong cuốn sổ tay của mình. Đấy chính là những hạng mục gợi lên mối quan tâm đặc biệt trong số những pháp nhân có vấn đề. Ai đang mua những hạng mục này và vì sao lại mua?
— Bà có thể kể cho cháu hay bất cứ điểu gì bà biết về bộ sưu tập thư viện cũ ấy không? Có lai lịch nào quan trọng không?
Grette đứng dậy bước về phía dãy hồ sơ của bà.
— Tôi có biên lai gốc của những phần cha tôi mua từ năm 1949. Nó ghi tên của một ngôi làng và một khu bất động sản nhỏ. Để xem nào, tôi sẽ tìm.
Bà đi thẳng vào chỗ có luồng ánh sáng bên dưới một cửa sổ sau và giật một ngăn kéo ở giữa ra.
— Tôi không thể trao cho anh bản gốc được, nhưng tôi có thể để Fiona sao chụp một bản cho anh.
Lúc bà già lục sột soạt đám tài liệu, Bertal nhấc mũi khỏi giày bên chân phải của Gray, kéo lê theo một dòng nước dãi. Tiếng gầm gừ của con chó nghe như tiếng làu bàu.
Nhưng nó không nhằm vào Gray.
— Đây rồi. - Grette quay lại và chìa ra một mảnh giấy đã ô vàng kẹp trong vỏ bảo vệ bằng nhựa.
Gray phớt lờ cánh tay của người phụ nữ mà tập trung vào ngón chân của bà. Một bóng đen thoáng chuyển ngang qua dải nắng chỗ bà Grette đứng.
— Nằm xuống ngay!
Gray nhảy về phía chiếc ghế bành, vươn tay về phía bà già.
Đằng sau anh, con Bertal sủa đanh, gần như át cả tiếng kính vỡ.
Gray vẫn cố vươn tay, nhưng quá muộn. Tất cả những gì anh có thể làm được là đỡ lấy thân thể bà Grette Neal lúc khuôn mặt bà tan ra trong mưa máu và xương do một phát đạn của một kẻ bắn tỉa từ phía sau ngoài cửa sổ.
Gray đỡ được thân thể của bà và đặt ngay xuống chiếc ghế bành.
Fiona thét váng lên.
Xuyên qua cửa sổ hậu đã bị vỡ, hai tiếng pọp nghe rõ ràng cùng với tiếng kính vỡ. Hai cái hộp nhỏ lao vút vào trong văn phòng, đập vào bức tường phía xa đối diện, nghe loảng xoảng nẩy lên tưng tưng.
Gray nhảy phắt ra khỏi ghế bành, tựa vai vào Fiona. Anh hất cô bé ra khỏi văn phòng, đẩy xoay mình vào góc.
Con chó toài người phía sau họ.
Gray đang lúc đẩy Fiona ra đằng sau một chiếc tủ sách thì hai tiếng nổ song song xé toang văn phòng, phá tung bức tường trong một tiếng nổ chung dữ dội, bắn tung tóe vữa và gỗ.
Cái tủ sách lộn tùng phèo, va vào tủ bên cạnh, tựa vào đó nằm chênh vênh. Gray che chắn cho Fiona phía dưới người mình.
Trên đầu, giấy tờ bắt lửa và tro bụi bay như mưa.
Gray thoáng thấy con chó già. Nó đã chạy quá chậm, lại cà nhắc vì cái móng bị đau. Sức ép của vụ nổ ném con chó tội nghiệp bay đập vào tường đối diện. Nó không động đậy. Lông dựng đứng cả lên.
Gray che chắn kín Fiona.
— Ta phải thoát ngay.
Anh kéo cô bé đang phát hoảng ra từ chiếc tủ sách kênh nghiêng. Lửa và khói đã lan đầy phần nửa hậu của cửa hàng. Trên đầu họ những đầu phun cứu hỏa tự động đang xịt ra những dòng nước hững hờ. Quá ít, quá muộn. Không đấu được bùi nhùi kiểu này.
— Chạy ra ngoài theo lối cửa trước. - Anh thúc giục.
Anh loạng choạng chạy tới cùng cô bé.
Quá chậm.
Trước mặt họ, cánh cổng an ninh phía ngoài đã sụp đổ, bịt kín cửa trước và cửa sổ. Gray nhận thấy có những bóng người lờ mò biến đi sau phía bên kia chiếc cổng sọc. Có thêm bọn cầm súng.
Gray liếc nhìn phía sau anh. Một bức tường lửa khói lem lém lấp kín phía sau cửa hàng.
Họ bị mắc kẹt rồi.

• 11 giờ 57 phút tối
Washington, D.C
Monk mơ màng trong cái nơi hạnh phúc giữa cảm giác sung sướng mãn nguyện và giấc ngủ ngon lành. Anh và Kat đã chuyển từ sàn nhà tắm đến cái giường yêu đương, hòa tan mình vào những lời thì thào êm ái và những cái vuốt ve thậm chí còn êm ái hơn. Khăn trải giường và chăn đắp người vẫn còn quấn quanh thân thể khỏa trần của hai người; chẳng ai định gỡ cởi mình ra, không gỡ cởi thể xác, không thể dù thế nào đi nữa.
Ngón tay của Monk lần lần theo nét đường cong của ngực Kat, lười nhác, với vẻ khẳng định lại nhiều hơn là khơi gợi. Gan bàn chân mượt mà của cô vuốt ve nhẹ lên bắp chân anh.
Hoàn hảo.
Chẳng có gì có thể làm hỏng chuyện này…
Một tiếng chuông ré lên trong phòng, làm cả hai người đều chú ý.
Âm thanh bật lên từ một phía của giường ngủ, chỗ Monk đã ném cái quần đùi xuống… đúng ra là đã giật phắt quần xuống. Cái máy nhắn tin vẫn kẹp vào chun quần. Anh nhớ là mình đã chuyển sang chê độ rung khi chạy bộ buổi tối về. Chỉ có một kiểu gọi phá xuyên qua được chế độ rung đó.
Trường hợp khẩn cấp.
Bên phía kia chiếc giường, chỗ giá treo quần áo, một máy nhắn tin thứ hai đổ tiếng chuông lanh lảnh.
Máy của Kat.
Cả hai đều chống tay ngồi dậy, mắt nhìn vào nhau lo lắng.
— Lệnh gọi của trung tâm chỉ huy đấy. - Kat nói.
Monk cúi xuống và vồ lấy máy nhắn tin của mình, kéo chiếc quần đùi lên. Anh khẳng định lời nhận định của cô.
Anh lăn người xuống sàn nhà và vớ lấy chiếc máy điện thoại. Kat ngồi dậy ngay cạnh anh, kéo tấm vải trải giường che đôi vú trần trụi của mình cứ như thể cần thiết phải đoan trang lúc gọi điện về trung tâm chỉ huy. Anh quay số đường dây trực tiếp đến Lực lượng Sigma. Người ta nhấc máy ngay lập tức.
— Đại úy Bryant đấy à? - Logan Gregory trả lời máy.
— Không thưa ngài. Monk Kokkalis đây. Nhưng Kat…Đại úy Bryant có mặt ở đây với tôi.
— Tôi cần cả hai người đến sở chỉ huy ngay lập tức.
Logan nói cụt lủn.
Monk lắng nghe, gập đầu.
— Chúng tôi đi ngay bây giờ đây. - Anh kết thúc và dập máy.
Kat bắt gặp cái nhìn của anh, hai lông mày nhíu vào nhau.
— Chuyện gì đấy?
— Gay go rồi.
— Xảy ra với Gray à?
— Không. Anh chắc là anh ấy khỏe thôi. - Monk chui mình vào áo may ô.
— Có thể anh ta còn đang vui thú với Rachel ấy chứ.
— Vậy thì?
— Chuyện của Giám đốc Crowe. Có chuyện đã xảy ra tại Nepal. Chi tiết còn sơ sài lắm. Chuyện gì đó về một nạn dịch bệnh.
— Giám đốc Crowe đã gửi báo cáo về à?
— Chính thế. Báo cáo của ông ấy về cách đây ba ngày rồi, nhưng một cơn bão đã cắt đứt liên lạc. Nên đã không quan tâm nhiều. Hôm nay lại có bão và vẫn không thấy liên lạc. Thế là bây giờ có tin đồn về dịch bệnh, chết chóc, và có chuyện nổi loạn ở vùng đó. Có thể là một cuộc tấn công của quân phiến loạn.
Đôi mắt Kat mở to.
— Logan đang gọi mọi người đến nhận lệnh.
Kat trượt người ra khỏi giường và với tay lấy quần áo.
— Liệu có chuyện gì ngoài ấy cơ chứ?
— Chẳng có gì hay ho đâu, chắc chắn là điều đáng buồn.

• 9 giờ 22 phút sáng
Copenhagen, Đan Mạch
— Có đường lên gác không? - Gray hỏi.
Fiona nhìn chằm chằm vào cái cổng đã đóng, đứng chôn chân một chỗ, mắt mở to không chớp. Gray đọc được những dấu hiệu kinh hoàng ở cô bé này.
— Fiona… - Gray bước quanh và tựa vào gần hơn, mũi sát mũi, che hẳn tầm nhìn của cô bé. - Fiona này, chúng ta phải ra khỏi đám cháy.
Đằng sau cô bé, đám cháy lan rất nhanh, được nhồi thêm bằng những tập sách khô và những giá sách bằng gỗ thông. Khói luồn và cuộn dọc theo mái nhà. Đầu vòi phun cứu hỏa tiếp tục phun nước uế oải vào đám cháy, bổ sung thêm hơi nước vào làn khói sương độc hại.
Cái nóng càng tăng theo từng hơi thở. Ấy vậy, lúc Gray cầm tay Fiona, cô gái run rẩy, toàn thân cô bé run lẩy bẩy. Nhưng ít ra thì cái chạm của anh cuối cùng cũng đưa ánh mắt cô bé nhìn vào anh.
— Có đường lên gác không? Lên tầng khác ấy?
Fiona liếc nhìn lên. Một làn khói hơi nước làm mờ mái trần bằng thiếc.
— Có mấy phòng cũ. Một phòng áp mái.
— Được đấy. Tốt rồi. Chúng ta leo lên đó chứ?
Cô bé lúc đầu chậm chậm lắc đầu, rồi quả quyết hơn, bừng tỉnh lại trước nguy hiểm.
— Không được. Cầu thang duy nhất là… - cô bé vẫy tay yếu ớt về phía đám lửa - ở sau tòa nhà.
— Phía ngoài à.
Cô bé gật đầu. Tro bụi cuốn thành lốc dữ dội quanh người họ khi bức tường lửa cứ từ từ tiến lên.
Gray thầm chửi thề. Chắc hẳn phải có một cầu thang bên trong, trước khi tòa nhà bị chia làm hai phần, phần cửa hàng và những căn buồng phía trên. Nhưng không còn nữa. Anh phải ứng biến.
— Có cái rìu nào không? - Anh hỏi.
Fiona lắc đầu.
— Xà beng móc vậy? Thanh sắt để bẩy các thùng hàng ấy mà?
Fiona cứng rắn lại và gật đầu.
— Ngay chỗ bàn đăng ký trả tiền ấy.
— Đứng đây nhé. - Gray lần dọc theo bức tường phía tay trái. Theo đó là lối quang đãng nhất trở lại phía bàn kê giữa nhà. Lửa chưa bén hẳn đến chỗ này.
Fiona đi theo.
— Tôi đã bảo cô ở lại cơ mà.
— Em biết chỗ để xà beng. - Cô gái đốp lại.
Gray nhận ra vẻ hoảng sợ đằng sau vẻ giận dữ của cô gái, nhưng đã khá hơn nỗi kinh hoàng đến tê cứng người trước đấy một lát. Cộng vào đó, nó phù hợp với sự tức giận của chính anh. Với chính anh. Thật là tồi tệ để trước đó cô gái này bám đuôi anh, nhưng đến bây giờ anh lại để mình bị bẫy của bọn ám sát chẳng biết từ đâu đến. Anh đã bị quá sao nhãng bởi những ý nghĩ về Rachel, quá ư là tùy tiện đối với điệp vụ này và những chỉ số của nó, và giờ đây không chỉ có tính mạng của anh nằm trong cơn nguy hiểm.
Fiona chạy vượt qua trước anh, mắt đỏ ngầu và ho khù khụ vì khói.
— Nó ở đây. - Cô gái tựa bò ngang chiếc bàn, với tay ra đăng sau bàn và lôi ra một thanh sắt sơn màu xanh lá cây.
— Ta đi thôi. - Anh dẫn đường quay lại về hướng ngọn lửa đang bén đến. Anh kéo tuột chiếc áo len của mình và đổi lấy chiếc xà beng.
— Dấp nước vào chiếc áo đi. Lấy nước ở cái vòi phun kia kìa. - Anh trỏ xà beng về phía vòi nước. - Và thấm cả vào người cô nữa.
— Anh sắp làm gì?
— Làm cầu thang riêng cho ta.
Gray dựng một thang giá sách trèo lên. Khói lan trên mặt anh. Không khí nóng hừng hực. Gray chọc xà beng vào một tấm lót trần bằng thiếc mỏng. Rất dễ cậy nó ra và gạt tấm lót trần sang một bên. Như anh hy vọng, mái cửa hàng là một tấm lót trần treo. Nó che lấp sàn ván của tầng trên.
Gray trèo lên đỉnh thang và cậy bật vài kệ sách của tủ sách. Anh đứng chênh vênh trên đó. sử dụng lợi thế này, anh xọc xà beng vào giữa hai tấm ván. Nó ngập sâu vào trong. Anh kê vai và bẩy xà beng. Thanh sắt cắt xuyên vào gỗ mục. Ấy nhưng, anh chỉ có thể chọc được một lỗ nhỏ như lỗ chuột.
Mắt chảy nước, cay xè, Gray tựa xuống. Anh ho rũ rượi. Không hay rồi. Đó sẽ là cuộc đua giữa thanh xà beng và làn khói. Gray liếc nhìn lại đám cháy. Đám cháy dữ dội hơn. Khói cuồn cuộn dày đặc hơn.
Anh sẽ không thành công với tốc độ cậy này.
Một cử động khác lôi ánh mắt anh nhìn xuống. Fiona đã leo lên thang. Cô đã tìm thấy một chiếc khăn, ngấm nước vào khăn, và quấn quanh mặt trông như một tên cướp, rất hợp với kiểu ngụy trang trong trường hợp của cô.
Cô giơ chiếc áo len sũng nước cho anh. Bản thân cô cũng đã sũng nước, trông có vẻ nhỏ con hơn, giống một chú cún con bị ướt. Gray thấy cô bé trẻ hơn tuổi mười bảy như anh đã phán đoán trước đó. Cô bé không thể hơn tuổi mười lăm. Mắt cô bé mang một vành đỏ vì hoảng loạn, nhưng cũng thể hiện ánh hy vọng, đặt niềm tin mù quáng vào anh.
Gray không thích chút nào khi người ta lại làm như vậy… bởi vì luôn được việc.
Gray buộc cánh tay của chiếc áo len quanh cổ và để thân áo áp vào lưng. Anh lôi ra một mảng len để che mũi và mồm, để chừa độ thẩm thấu cho không khí đặc sệt tro bụi chui qua.
Để nước ngấm qua lưng áo sơ mi, Gray lại quỳ gối, sẵn sàng đạp vào những thanh gỗ bướng bỉnh. Anh cảm nhận được là Fiona đang ở phía dưới. Và trách nhiệm.
Gray sục tìm khoảng trống giữa mảng lót trần với các tấm sàn tầng trên để tìm biện pháp thoát thân. Xung quanh, đường ống, đường dây đan xen vào nhau lằng nhằng, đơn giản chỉ bổ sung vào sự chắp vá sau khi căn nhà hai tầng này bị chia thành hai phần, phần cửa hàng ở phía tầng dưới và phần căn hộ tầng trên. Những lần sửa sang mới đây có vẻ rất xoàng, sự khác biệt giữa tay nghề của thế giới xưa và kỹ thuật xây dựng cẩu thả thời hiện đại.
Lúc đang sục sạo, Gray phát hiện một tấm ghép giữa những thanh rầm gỗ và ván lót trông đều một mảng. Một mảng hình hộp, diện tích khoảng ba mét vuông, có khung bằng những thanh giằng dày dặn hơn. Gray nhận ra nó ngay lập tức. Anh trước đó đã suy đoán đúng. Thanh giằng đánh dấu lỗ cửa mở trước đây từng là hốc cầu thang trong nhà để đi lên tầng trên.
Nhưng nó đã bị bịt lại chắc đến mức nào?
Chỉ có một cách để tìm ra.
Gray kiễng gót chân, đứng trên đỉnh tủ sách và lần theo nó giống thanh rầm cân bằng theo hướng mảng có khung. Chỉ vài mét thôi, nhưng nó dẫn sâu hơn vào cửa hàng, về phía đám cháy.
— Anh đang đi đâu đấy? - Fiona hỏi như ra lệnh trên đỉnh chiếc thang.
Gray không còn hơi sức mà lý giải. Khói phun sặc sụa dày đặc hơn trên mỗi bước đi. Sức nóng phả ra như cửa lò nung rừng rực. Cuối cùng anh cũng đến được chỗ giá sách ngay bên dưới cầu thang đã bị bịt.
Liếc nhìn xuống dưới, Gray thấy giá phía dưới của tủ sách đã bắt lửa. Anh vừa đến được rìa đám cháy.
Không được lãng phí giây phút nào nữa.
Đứng thật vững, anh đạp mạnh xà beng lên phía trên.
Đầu xà beng lao ngọt vào ván sàn mỏng. Nó không hơn gì mấy tấm ván lót ép và tấm lợp bằng vải vinyl; Làm ăn gian dối, đúng như anh hy vọng. Lạy Chúa bởi người ta thiếu đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp trong công việc thời hiện đại này.
Gray cậy bẩy chiếc xà beng, choang choang như một cái máy khi không khí nóng cháy lên và hơi nóng rộp phồng. Chẳng mấy chốc anh đã cậy được một cửa mở đủ rộng để trèo qua.
Gray phi chiếc xà beng qua lỗ mở. Nó kêu loảng xoảng phía trên.
Anh quay sang Fiona và vẫy cô bé về phía mình.
— Cô có thể leo lên nóc các giá sách không?
— Em đã thấy anh leo lên đó thế nào rồi. - Cô gái leo lên tủ sách.
Một vật làm Gray chú ý phía dưới. Cái tủ sách rung chuyển dưới chân anh.
Ôi chao.
Sức nặng của anh và những bậc đang cháy phía dưới đang làm cho chỗ anh đứng chênh vênh yếu hẳn đi. Anh bám được vào lỗ mở và đu người lên, chuyển trọng lực khỏi tủ sách.
— Nhanh lên. - Anh giục cô gái.
Tay cô gái vươn ra lấy thăng bằng, Fiona đi bám dọc theo rìa tủ sách. Chỉ còn cách khoảng một mét thôi.
— Nhanh lên. - Anh nhắc lại.
— Em đã nghe thấy anh nói lúc đầu rồi.
Một tiếng rắc vang rền, phần tủ sách phía dưới Gray gục đổ. Anh bám chặt hơn vào gờ miệng lỗ vừa mở khi tủ sách võ lả tả trong ngọn lửa. Một luồng hơi nóng, tro bụi và lửa mới bốc lên cao.
Fiona thét lên khi phần dưới chân cô rung chuyển, nhưng vẫn giữ được.
Treo người trên hai cánh tay mình, Gray gọi cô gái:
— Nhảy vào người tôi đi. Bám quanh vai ấy.
Fiona không cần phải thúc giục thêm khi tủ sách cô đứng chao đảo, cô nhảy và bám chặt lấy anh, cánh tay ôm quanh cổ anh, chân co quắp lấy ngang hông anh. Anh suýt nữa thì bị bật khỏi chỗ bám. Người anh đung đưa tại chỗ.
— Cô trèo lên người tôi rồi vào lỗ thoát này đi được không? - Anh hỏi vẻ căng thẳng.
— Em… em nghĩ là được.
Cô treo người một lát, lâu hơn, không lắc lư.
Gờ miệng lỗ mỏ thô ráp tã ra dưới những ngón tay của anh.
— Fiona…
Cô run run tựa vào người anh, sau đó tự leo lên lưng anh. Một khi đã chuyển mình, cô leo rất nhanh, móc một ngón chân vào vành thắt lưng của anh, rồi nhún mạnh vượt qua vai. Cô gái vụt qua lỗ mỏ bằng tất cả sự nhanh nhẹn của một chú khỉ nhện.
Bên dưới, một đống lửa to ngốn sách, ngốn các thanh gỗ giá sách phần phật cháy.
Gray đu mình lên theo cô gái, trườn như con sâu qua lỗ mở và nằm phơi lên sàn. Anh đang ở chính giữa lối đi vào sảnh. Các căn phòng trải ra cả hai hướng.
— Lửa cũng sẽ lên đến đây đó. - Fiona thì thào, cứ như thể sợ rằng nói to sẽ làm những ngọn lửa chú ý.
Lăn mình đứng dậy, Gray trông thấy ánh lửa bập bùng từ phía nửa sau của căn phòng. Khói đã xông nghẹt những phòng này, thậm chí còn dày đặc hơn ở phía dưới.
— Đi thôi. - Anh nói. vẫn còn đang trong cuộc chạy đua.
Gray chạy nhanh xuống cuối phòng tránh xa chỗ cháy. Anh dừng lại ở một cửa sổ mái. Anh nhìn nhanh qua hai thanh gỗ chống cửa. Xa xa nghe có tiếng còi xe cấp cứu. Người ta đã tụ tập dưới phố: chỉ là những người đứng xem và những kẻ nhút nhát. Và chắc chắn nấp trong số đó là một tên bắn người, có thể là hai tên.
Gray và cô gái sẽ bị phơi ra nếu họ trèo qua cửa sổ.
Fiona cũng nhìn xuống đám đông.
— Họ sẽ không để chúng ta thoát ra à?
— Thì chúng ta tìm lối thoát riêng vậy.
Gray lùi lại và tìm kiếm phía trên. Anh thấy rõ cửa sổ phòng ngủ áp mái mà trước đó ánh đã phát hiện ra lúc đi trên phố. Họ cần phải leo lên mái nhà.
Fiona hiểu dự định của anh.
— Có một cái thang trượt ở phòng bên. - Cô dẫn đường. - Em hay lên đây để đọc sách khi bà Mutti.. - giọng Fiona vỡ tan ra và lời nói chết lịm trong cổ họng.
Gray biết rằng cô bé sẽ còn bị ám ảnh rất lâu về cái chết vừa rồi của bà. Anh đặt tay lên vai cô bé, nhưng cô bé lắc mình vằng cánh tay ra một cách giận dữ và bước đi.
— Ở đây này. - Cô bé nói và chui vào căn phòng chắc hẳn trước đây là một phòng khách. Bây giờ chỉ còn vài chiếc thùng gỗ và một chiếc ghế bành rách đã phai màu.
Fiona chỉ tay vào một chiếc dây thừng xơ xác treo lủng lẳng từ trần nhà xuống, buộc vào một cánh cửa lật trên mái nhà.
Gray kéo lôi chiếc dây thừng xuống và một chiếc thang gỗ xếp trượt xuống sàn nhà. Anh leo lên thang trước, theo sau là Fiona.
Căn phòng áp mái chưa hoàn tất: mới chỉ chống thấm, dựng rui xà và cứt chuột khắp phòng. Ánh sáng duy nhất qua hai chiếc cửa sổ mái. Một cửa sổ chiếu xuống phố trước nhà, cửa sổ kia quay hướng hậu. Khói đã lấp đầy không gian trong phòng nhưng tới giờ thì chưa thấy lửa.
Gray quyết định thử chiếc cửa sổ mặt sau. Cửa quay sang hướng Tây, để mái có bóng râm vào giờ này trong ngày. Phía đó của dãy nhà cũng đang cháy. Những kẻ tấn công có thể ít chú ý đến hướng này.
Gray nhảy từ rui xà này sang rui xà kia. Anh có thể cảm thấy hơi nóng phả lên từ phía dưới. Một phần chống thấm của căn phòng chắc là đang cháy âm ỉ, sợi thủy tinh chắc là đang chảy ra.
Đến cửa sổ, Gray kiểm tra phía dưới. Đỉnh mái xây theo kiểu mà anh không thể nhìn vào sân sau của cửa hàng. Và nếu anh không thể nhìn thấy mọi người thì mọi người cũng không thể nhìn thấy anh. Thêm vào đó, khói khuấy lên từ những cửa sổ phía dưới, giúp che khuất thêm.
Duy chỉ mục đích này là đám cháy mang lại lợi thế cho họ.
Vẫn thế, Gray đứng ở bên cạnh và mở chốt cửa sổ, đẩy cửa mở ra. Anh chờ đợi. Không có tiếng súng. Tiếng còi báo động giờ đây có thể nghe rõ tập trung vào dãy phố phía ngoài.
— Để tôi đi trước. - Gray thì thào vào tai Fiona. - Nếu thông đường.
Một tiếng gào nghe trầm trầm bật lên phía sau lưng họ.
Cả hai người quay lại. Một lưỡi lửa thè ra từ chính giữa tấm chống thấm, liếm lên cao, nổ lách tách và phun ra khói. Họ hết thời gian rồi.
— Theo tôi đi. - Gray nói.
Anh nhảy ra ngoài cửa sổ, cúi lom khom. Bên ngoài, trên mái nhà mát tuyệt vời, không khí khô lạnh sau lúc ngột ngạt lâu.
Phấn chấn vì đã thoát ra, Gray thử độ chắc của những tấm ngói lát mái nhà. Mái nhà dốc, nhưng anh bám chắc chân lên mái vì có đôi giày, cẩn thận, có thể đi vững được. Anh bước khỏi chỗ hốc cửa sổ và đi theo mái hướng bắc. Trước mặt anh, khoảng hở giữa mái các dãy nhà không quá ba mét. Họ có thể nhảy qua khoảng cách đó.
Hài lòng, anh quay lại cửa sổ.
— Được rồi, Fiona… cẩn thận nhé.
Cô bé thò đầu ra, nhìn quanh, rồi trườn lên mái. Cô bé ngồi rúm ró, bò bằng cả chân và tay.
Gray đợi cô bé.
— Cô đi như thế là được đấy.
Cô bé liếc nhìn anh. Bị phân tâm, cô bé đã không phát hiện ra một viên ngói nứt. Ngón chân cô bé cắm xuyên qua tấm ngói. Ngói vỡ ra, làm cô bé mất thăng bằng. Cô ngã úp bụng xuống… và bắt đầu trượt xuống.
Ngón tay và ngón chân cô bé cào cấu bấu víu, nhưng không có gì để móc vào được.
Gray vươn tay đỡ. Ngón tay anh chỉ quơ vào không khí.
Cô bé cuống quít lên khi cô trượt trên ngói mái nhà. Thêm mấy viên ngói nữa vổ ra trong cố gắng điên cuồng của cô để giữ mình khỏi ngã xuống đất. Những mảnh ngói vỡ kêu lách cách và nảy lên phía trước cô bé, biến thành một trận lở ngói mái nhà.
Gray nằm bẹp bụng xuống mái nhà. Anh chẳng làm được gì để giúp cô bé.
— Máng nước. - Anh gọi với theo cô bé, quên luôn cả sự cẩn trọng. - Bám vào máng nước.
Cô bé dường như điếc không nghe thấy lời anh nói, các ngón tay cào bám, ngón chân cày bung thêm mấy hòn ngói nữa. Cô bé lộn một vòng và bắt đầu lăn tròn. Một tiếng hét thất thanh vang lên từ phía cô bé.
Một vài viên ngói võ đổ như mưa xuống rìa nhà. Gray nghe thấy tiếng ngói vỡ tan trên sân lát đá phía dưới như tiếng pháo lộp bộp.
Rồi đến lượt Fiona lăn theo, nảy người qua rìa mái nhà, hai cánh tay níu kéo vung lên.
Thế là cô bé đi.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Trật Tự Đen (A Sigma Force #3).