• 195

Phần I - Chương 3: Ukufa


Số từ: 8689
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 9 giờ 20 phút sáng
Khu bảo tồn Hluhluwe - Umfolozi
Zululand, Nam Phi.
Sáu nghìn dặm là cả một thế giới tính từ Copenhagen, một chiếc xe Jeep mui trần đang nặng nề lăn bánh xuyên qua vùng hoang dã chưa từng có vết xe qua của Nam Phi.
Cái nóng ngột ngạt như muốn thiêu cháy cả vùng hoang mạc, hất tung lên những ảo ảnh lung linh. Nhìn vào gương sau, cả vùng đồng bằng như đóng bánh lại dưới ánh nắng mặt trời, lác đác những bụi cây gai và những khóm liễu đỏ đơn độc. Ngay ở phía trước nhô lên một mô đất lè tè, lốm đốm mọc dày những cây xiêm gai và những cây gỗ chì khẳng khiu.
— Có phải chỗ đấy không, thưa tiến sĩ? - Khamisi Taylor hỏi, tay bẻ bánh lái cho xe nhảy chồm qua một lạch nước cạn. Bụi tung lên mù mịt phía sau. Anh liếc nhìn sang người đàn bà ngồi cạnh anh.
Tiến sĩ Marcia Fairfield nhổm người trên ghế, tay bám vào mép kính chắn gió để lấy thăng bằng. Bà giơ tay chỉ:
— Vòng về phía rìa tây. ở đấy có một cái hố sâu.
Khamisi về số rồi vòng sang bên phải. Là một người giám sát đang phiên trực bảo vệ khu bảo tồn thú hoang Hluhluwe - Umfolozi anh phải tuân thủ những quy định. Săn bắn thú rừng là một vi phạm nghiêm trọng, song đó cũng là một chuyện thực tế ở đây. Đặc biệt ở những vùng hẻo lánh của công viên.
Thậm chí những người trong bộ lạc của anh, những người dân Zulu anh em, đôi khi cũng chỉ biết làm theo những phong tục tập quán truyền thống cũ. Công việc đòi hỏi còn phải phạt cả những người bạn già của ông nội anh. Những người có tuổi còn gán cho anh một biệt danh, mà theo tiếng Zulu, có nghĩa là Thằng Béo. Nghe có vẻ không mấy khinh miệt lắm, nhưng anh biết họ ghét anh. Họ coi anh không đáng làm người vì đã nhận cái công việc của người da trắng, sông béo nhờ vào người khác. Với lại, ở đầy anh vẫn còn là người xa lạ. Sau khi mẹ chết, bố anh đã đưa anh đi Úc khi anh mới mười hai tuổi. Anh đã sống một quãng thời gian khá dài của cuộc đời mình ở ngoại ô thành phố Darwin nằm trên bò biển bắc của nước Úc, thậm chí còn có hai năm học ở trường đại học ở Queensland. Giờ anh đã hai mươi tám tuổi, anh trở về và được bảo đảm một công việc giám sát thú, một phần cũng là vì anh có học, phần khác cũng là do những mối quan hệ của anh với những bộ lạc ở nơi đây.
Sống béo dựa vào người khác.
— Anh đi nhanh hơn được nữa không? - Người hành khách của anh nói.
Tiến sĩ Marcia Fairfield là một nhà sinh vật học, tóc đã hoa râm, đến từ Cambridge. Một người đáng kính, đang thực hiện một phần của Chương trình Hành động tê giác, thường gọi là Jane Điềm lành cho tê giác. Khamisi rất thích làm việc với bà. Có thể vì bà không giả tạo, từ cái áo khoác đi đường vải ka - ki đã ngả màu của bà tới bộ tóc bạc hoa râm hất ra phía sau kiểu đuôi ngựa giản dị.
Hoặc cũng có thể do tình cảm của bà. Như chính lúc này đây.
— Nếu con mẹ chết khi đang sinh, con của nó có thể còn sống. Nhưng được bao lâu cơ chứ? - Bà đấm mạnh nắm đấm vào mép kính chắn gió. - Chúng ta không thể để mất cả hai được.
Là người bảo vệ thú, anh hiểu. Kể từ năm 1970 số lượng tê giác đen đã giảm tới chín mươi sáu phần trăm ở Nam Phi. Khu bảo tồn Hluhluwe - Umfolozi đang cố gắng để bù đắp lại số lượng đó như đã từng làm với tê giác trắng. Đây là cố gắng bảo tồn chính của công viên.
Con tê giác đen nào cũng đều quan trọng.
— Lí do duy nhất ta có thể tìm thấy nó là nhờ con chíp theo dõi đã cấy vào người nó. - Tiến sĩ Fairfield nói tiếp. - Phát hiện ra nó từ máy bay. Nhưng nếu nó sinh con, ta không có cách nào tìm ra con của nó được.
— Thế con nó không ở gần mẹ à? - Khamisi hỏi. Anh đã từng biết một trường hợp tương tự. Cách đây hai năm một cặp sư tử con đã được tìm thấy nằm túm tụm trên cái bụng lạnh cóng của mẹ chúng do một kẻ săn trộm bắn chết.
— Cậu biết số phận của con non rồi đấy. Dã thú bị xác chết thu hút. Nếu con con còn luẩn quất quanh đó, mình đầy máu me vừa sinh ra thì …
Khamisi gật gật đầu. Anh rồ ga cho xe chồm qua một đoạn dốc đá. Sau xe tung lên những mảnh đá dăm. Anh tiếp tục cho xe chạy. Khi họ đã đi hết quả đồi, địa hình phía trước vỡ ra thành những khe núi sâu, cắt ngang bởi những dòng suối róc rách chảy, ở đây cây cỏ mọc dày hơn: loài sung dâu, cây dái ngựa, và loài nyala. Đây là một trong số ít vùng ẩm ướt của công viên, cũng là một trong những vùng xa xôi, cách xa tuyến di chuyển thường xuyên của thú và đường đi của khách du lịch. Chỉ những người có giấy phép mới được đi qua nơi đây với những hạn chế nghiêm ngặt: chỉ vào ban ngày và không được ở lại vào ban đêm. Lãnh địa này kéo dài suốt tới tận đường biên giới phía tây.
Khamisi phóng mắt về phía chân trời khi anh cho xe nhích dần xuống dốc. Cách chừng một dặm, một dải bờ rào ngăn thú chia cắt địa hình. Bò rào đen cao mười feet đã chia đôi công viên với khu bảo tồn tư nhân bên cạnh. Những khu bảo tồn như thế thường có chung đường biên, tạo cho khách du lịch thấy phong phú hơn, có điều kiện gần gũi, thân thiết hơn.
Nhưng đây không phải là công viên tư nhân bình thường.
Công viên Hluhluwe - Umfolozi được thành lập năm 1895, là khu bảo tồn lâu đời nhất trên toàn châu Phi. Tương tự, khu bảo tồn tư nhân bên cạnh cũng là khu lâu đời nhất. Khu đất do một đại gia sở hữu, thậm chí có niên đại còn trước Công viên, do một triều đại đương đại của Nam Phi, dòng họ Waalenberg, một trong những gia đình Nam Phi gốc Hà Lan mà các thế hệ có từ thế kỉ XVII. Khu bảo tồn đặc biệt này chỉ bằng một phần tư công viên, nhưng theo người ta nói có rất nhiều động vật hoang dã. Không chỉ có giống thú ngũ đại như: voi, tê giác, báo, sư tử, và trâu rừng, mà còn có cả dã thú và mồi đủ loại như: cá sấu .vùng sông Nin, hà mã, báo đen, linh cẩu, chó rừng, hươu cao cổ, ngựa vằn, linh dương, kudu, lợn rừng, hoẵng các loại, khỉ đầu chó, linh dương châu Phi… Nghe nói khu bảo tồn Waalenberg còn giữ được cả bầy loại hươu cao cổ khổng lồ mà không biết, mãi tới tận năm 1901 họ hàng của loài hươu cao cổ này mới được phát hiện.
Nhưng luôn luôn có những lời đồn đại và những câu chuyện gắn liền với khu bảo tồn Waalenberg. Công viên chỉ có thể đến được bằng máy bay lên thẳng và loại máy bay nhỏ. Những con đường dẫn đến đó đã từ lâu bỏ hoang. Những người khách duy nhất, dù là đôi khi thôi, là những người có vai vế lớn từ khắp nơi trên thế giới. Nghe nói Teddy Roosevelt đã có lần đến săn ở khu bảo tồn này và thậm chí còn cải cách cả hệ thống bảo tồn quốc gia của Mỹ theo kiểu của khu bảo tồn Waalenberg.
Khamisi rất muốn được dành một ngày đến thăm khu này.
Nhưng niềm vinh dự ấy chỉ dành cho trưởng ban bảo vệ của Hluhluwe. Một tua thăm quan khu Waalenberg là một trong những bổng lộc chỉ sau khi đã có được vị trí đó, thậm chí còn đòi hỏi phải có giấy chứng nhận thân tín, có chữ kí xác nhận hẳn hoi. Khamisi hy vọng một ngày nào đó anh sẽ giành được vị trí cao quí này.
Nhưng anh có rất ít hy vọng.
Không phải vì da anh đen.
Di sản Zulu và học hành của anh có thể đã giúp anh có được vị trí ấy. Nhưng ngay cả sau khi hết thời phân biệt chủng tộc, vẫn còn có những giới hạn. Lối sống truyền thống vẫn dai dẳng đeo bám, cho cả người da đen và người da trắng. Song, con đường anh đang đi là con đường đang dẫn tới đó. Một trong những di sản đau buồn nhất của thời kì phân biệt chủng tộc là cả một thế hệ con em bộ lạc đã lớn lên không hoặc rất ít được học hành, chịu đựng những năm tháng trừng phạt, chia rẽ, và biến động. Một thế hệ bỏ đi. Do đó, anh đã làm tất cả những gì có thể: mở mọi cánh cửa có thể và giúp cho những người sẽ đến sau.
Anh nguyện đóng vai Thằng Béo, nếu như đấy là con đường cần thiết.
Trong thời gian chờ đợi…
— Kia rồi! - Tiến sĩ Fairfield kêu lên làm Khamisi giật mình quay trở về với con đường lần mò vất vả. - Rẽ trái ở ngay cạnh cây bao - bap ở chân đồi.
Khamisi phát hiện ra cái cây khổng lồ có từ thời tiền sử. Những cánh hoa màu trắng to rủ xuống buồn bã từ đầu cành của nó. về phía trái, đất như sụp xuống chạy đổ vào một vũng sâu hình bát. Khamisi bắt được tia sáng loé lên của một vũng nước gần đấy.
Hố nước.
Những con suối rải rác trong công viên, tự nhiên có, tự tạo có. Đấy là những nơi tốt nhất cho cuộc sống hoang dã, nhưng cũng đồng thời là những nơi nguy hiểm nhất nếu đi bộ qua. Khamisi phanh xe dừng lại bên cạnh cây.
— Chúng ta phải đi bộ từ đây.
Tiến SĨ Fairfield gật đầu. cả hai đều với lấy súng. Dù cả hai đểu là nhân viên bảo tồn, nhưng họ cũng quen với mối nguy hiểm luôn luôn thường trực của thảo nguyên này.
Khi leo ra, Khamisi vác trên vai khẩu hai nòng rãnh xoắn to, loại 465 Ntro Holland & Holland Hoàng gia. Nó có thể chặn đứng cuộc tấn công của một con voi đang lao tới. Trong lúc nguy hiểm, anh vẫn thích nó hơn loại súng trường tấn công khác.
Họ hướng xuống dốc, cỏ thúng và cỏ liềm mọc thành bụi châm vào da. Trên đầu, tán mây cao chắn họ khỏi ánh nắng mặt trời, nhưng lại tạo nên những bóng râm đậm ở dưới. Khi anh bước đi Khamisi nhận thấy một sự im lặng nặng nề. Không tiếng chim. Không tiếng ríu tít của loài khỉ. Chỉ nghe có tiếng vo vo, ù ù của loài côn trùng. Sự im lặng làm anh rờn rợn.
Bên cạnh anh, tiến sĩ Fairfield kiểm tra chiếc máy định vị cầm tay.
Bà giơ cánh tay chỉ.
Khamisi đi theo hướng bà chỉ, vòng qua một cái hố bùn. Khi anh thẳng người lách qua đám lau sậy, anh được hưởng cái mùi nồng nặc của thịt rữa. Cũng không mất nhiều thời gian khi luồn qua bụi cây phủ bóng râm và tìm ra nguồn phát mùi.
Con tê giác cái phải nặng đến ba nghìn pao [2] , không kém. Một loại quái vật khổng lồ.
( Đơn vị đo trọng lượng của Anh, tương đương với 0,454 kilôgam.)

— Chúa ơi! - Tiến sĩ Fairfield kêu lên qua chiếc khăn mùi xoa che miệng và mũi. - Khi Roberto định vị từ trên máy bay xác của nó…
— Thì trên mặt đất bao giờ cũng tồi tệ hơn. - Khamisi nói.
Anh tiến về cái xác con tê giác đã trương phềnh. Nó nằm nghiêng. Ruồi nhặng bay từng đàn như đám mây đen kịt khi họ đến gần. Bụng đã bị rạch tung. Nội tạng lòi ra, phình lên. Dường như tất cả những cái gì từng đã nằm vừa khít trong cái bụng đó bây giờ không thể có được nữa. Những cơ quan nội tạng khác trải trên mặt đất. Một vệt máu cho thấy một miếng mồi ngon nào đó đã được lôi vào trong đám cây lá dày đặc vây quanh.
Ruồi lại ập đến.
Khamisi bước qua lá gan đỏ bị ngoạm. Cái chân sau hầu như bị xé tụt ra khỏi mông. Sức mạnh của bộ hàm để làm được việc đó thật ghê gớm…
Thậm chí một con sư tử đã trưởng thành cũng phải rất vất vả
Khamisi đi vòng tới khi lên đến đầu
Cái tai to mập của con tê giác bị cắn đứt, họng của nó bị rách toạc dã man. Đôi mắt vô hồn nhìn anh, mở to, cứng đơ vi sợ hãi. Môi cũng bị xé ngược như rất đau đớn và hoảng sợ. Cái lưỡi thè ra, máu tụ thành vũng ở dưới. Nhưng những thứ này không quan trọng.
Anh biết anh cần phải kiểm tra cái gì.
Trên hai lỗ mũi sủi váng, cuộn cong một cái sừng dài giơ lên, trông rất hoàn hảo.
— Rõ ràng là không phải do người săn trộm. - Khamisi nói.
Cái sừng phải được lấy đi chứ. Đấy là lí do chính làm số lượng tê giác đang suy giảm rất nhanh. Bột sừng bán ở thị trường châu Á như là cái được gọi là thuốc chữa bệnh loạn cường dương, một loại Viagra. Một cái sừng cũng kiếm được giá rất cao.
Khamisi thẳng người.
Tiến sĩ Fairfield ngồi xổm gần cuối cái xác. Bà đã đeo găng tay, súng dựa lên mình nó. - Chẳng chứng tỏ là nó vừa sinh con.
— Tức là không có con con.
Nhà sinh vật học bước quanh cái xác trở về phía bụng. Bà cúi xuống và, không ngần ngại, bà kéo miếng bụng lên, thọc tay vào.
Anh quay mặt đi.
— Tại sao cái xác lại không bị dọn sạch bởi loại ăn xác thối? - Tiến sĩ Fairfield hỏi khi bà vẫn tiếp tục làm.
— Nhiều thịt quá. - Anh lẩm bẩm. Khamisi quay vòng lại. Sự im lặng tiếp tục đè nặng trên người anh, vắt hơi nóng lên cả hai người.
Người phụ nữ tiếp tục khám.
— Tôi không nghĩ như vậy. Cái xác đã ở đây từ đêm qua, lại gần hố nước. Nếu không vì cái gì khác, cái bụng chắc chắn đã bị dọn sạch bởi loài chó rừng.
Khamisi xem xét lại cơ thể con vật. Anh nhìn chăm chú cái chân sau bị xé, cái cổ họng bị rạch. Cái gì đó to lớn đã quật đổ con tê giác. Rất nhanh.
Cảm giác gai gai cộm lên sau gáy anh.
Những con ăn xác thối ở đâu?
Anh chưa kịp suy nghĩ về điều bí hiểm này thì tiến sĩ Fairfield đã nói:
— Con con đã mất.
— Sao? - Anh xoay người. - Tôi nghĩ bà nói là nó không sinh con.
Tiến sĩ Fairfield đứng lên, tụt găng tay và lấy súng. Súng trong tay, nhà sinh vật học bước đi, mắt dán xuống mặt đất. Khamisi thấy bà lần theo vết máu; có cái gì đó đã được kéo ra khỏi cái bụng để ăn riêng.
Ôi! Chúa….
Anh theo sau bà.
Tại mép bụi cây, tiến sĩ Fairfield dùng mũi súng, rẽ rẽ đám lá rủ thấp, để lộ ra vật đã bị kéo ra khỏi bụng.
Con tê giác con.
Thân hình gầy nhẵng đã bị xé ra từng mảnh, như thể bị tranh giành.
— Tôi nghĩ con con vẫn còn sống khi nó được lôi ra. - Tiến sĩ Fairfield chỉ vào vết máu, nói. - Tội nghiệp con vật…
Khamisi bước lùi lại, đầu nghĩ tới câu hỏi mới rồi của nhà sinh vật học. Tại sao những con ăn xác thối khác lại không dọn sạch cái xác này? Kền kền, chó rừng, linh cẩu, thậm chí sư tử nữa. Tiến sĩ Fairfield đã đúng. Lượng thịt lớn thế này dứt khoát không thể bỏ lại cho ruồi nhặng được.
Vô lí.
Trừ khi…
Tim Khamisi đập thình thịch
Trừ khi kẻ săn mồi vẫn còn ở quanh đây.
Khamisi nâng súng lên. Sâu trong bụi cây anh lại thấy sự im lặng nặng nề. Dường như cả khu rừng đang bị đe dọa bởi chính kẻ đã giết con tê giác.
Anh bất giác kiểm tra không khí, lắng nghe, mắt căng ra, đứng như trời trồng. Bóng râm như đổ nặng trên người anh.
Đã từng sống và lớn lên ở Nam Phi, Khamisi rất quen với những mê tín, những lời đồn thổi về quái vật luẩn quất, săn mồi trong khu rừng: như loài Đalavô, quái vật ăn thịt người gầm rú của rừng Uganda; loài Bilintô, loại hà mã to như con voi ở vùng đầm lầy Công - gô; loài Mơ-gua, kẻ luẩn quất hung dữ trong những rừng dừa ven biển.
Nhưng đôi khi huyền thoại lại trở thành hiện thực ở châu Phi. Như loài Suifisi, một loài quài vật ăn thịt người có sọc vằn của vùng Rhodesia, đã từ lâu được người dân định cư da trắng coi như truyện ngụ ngôn…. ấy vậy mà mãi mấy chục năm sau, nó được phát hiện là một dạng mới của loài báo đen, và được phân loài là Acinonyx rex.
Khamisi lục lọi khu rừng, anh nhớ lại một con quái vật nữa của truyền thuyết đã từng được cả châu Phi nhắc tới. Nó có nhiều tên như: dubu, lumbwa, kerit, hay getet. Chỉ cần nhắc tới tên thôi đã làm dân địa phương phải kêu lên run sợ. Đã nhiều thế kỉ nay, những thợ săn, cả da đen và da trắng, tự nhận là đã thoáng nhìn thấy nó. Trẻ con học cách nhận ra nó qua tiếng kêu. Vùng .Zululand này không phải là ngoại lệ.
— Ukufa… - Khamisi lẩm bẩm.
— Cậu vừa nói gì thế? - Tiến sĩ Fairfield hỏi. Bà vẫn đang cúi bên cạnh con tê giác con.
Đấy là tiếng Zulu để gọi con quái vật mà thường được người ta đồn thổi quanh đống lửa hay trong những túp lều trong khu làng có hàng rào bao quanh.
Ukufa
Sự chết chóc.
Anh biết tại sao con thú vật đó lại xuất hiện trong đầu anh lúc này. Cách đây năm tháng một người dân trong bộ lạc tự nhận là đã nhìn thấy ukufa ở gần đây. Nửa thú, nửa ma, có đôi mắt như lửa; người đàn ông đã thề chắc chắn như vậy. Chỉ những ông già da đã sạm nâu còn cẩn thận. Còn những người khác như Khamisi thì giả vờ trêu chọc ông cho vui.
Nhưng ở đây, trong những bóng râm của rừng rậm…
— Ta phải đi thôi. - Khamisi nói.
— Nhưng chúng ta còn chưa biết kẻ nào đã giết nó.
— Không phải là săn trộm. - Đấy là tất cả những gì Khamisi muốn và cần phải biết. Anh hất hướng súng vế phía xe. Anh sẽ gọi cho giám sát trưởng, coi như sự việc đã được giải quyết và kí xác nhận. Dã thú đã giết. Không có săn trộm. Họ sẽ để xác lại cho loài ăn xác thối. Vòng quay của cuộc sống là thê mà.
Tiến sĩ Fairfield miễn cưỡng đứng dậy.
Đột nhiên từ bên phải, một tiếng gọi kéo dài xé tan khu rừng tối. - Ooo eeee ooo - ngắt quãng bởi tiếng kêu the thé.
Khamisi run lên, đứng sững lại. Anh nhận ra tiếng kêu, không phải bằng lí trí mà bằng chính thứ cốt tuỷ trong con người anh. Nó dội lại những đống lửa trong đêm, những câu chuyện hãi hùng và đẫm máu, thậm chí xa hơn, tới cái gì đó từ thời nguyên thủy, cái thời mà còn chưa có tiếng nói khi sự sống vẫn chỉ là bản năng.
Ukufa
Sự chết chóc
Khi tiếng kêu nhoà đi, sự im lặng lại đổ về nặng nề lên người họ
Khamisi nhẩm tính khoảng cách từ chỗ họ tới chiếc xe. Họ cần phải rút, nhưng không được hoảng sợ. Hoảng sợ bỏ chạy chỉ khêu gợi lòng khát máu của kẻ săn mồi.
Ngoài phía bìa rừng lại một tiếng kêu nữa dội tới
Lại một tiếng nữa
Tất cả từ nhiều hướng khác nhau
Trong sự tĩnh mịch đột nhiên sau đó, Khamisi biết họ chỉ còn có một cơ hội
— Chạy đi.

• 9 giờ 31 phút sáng
Copenhagen, Đan Mạch
Gray nằm xấp, chéo người qua mái ngói, đầu chúi xuống, chân tay xoãi ra ngay chính nơi mà anh tóm hụt Fiona. Cái hình ảnh cô lộn nhào qua mép mái sặc khói cứa vào tâm trí anh. Tim anh đập thình thịch
Ôi, Chúa ơi…. Con đã làm gì chứ….
Còi báo động từ ngoài phố đưa vào và lắng xuống khi tới được toà nhà đang bốc cháy.
Phía trên vai anh, một vệt lửa bùng lên từ cửa sổ trên căn phòng áp mái, kéo theo là tiếng rít của khí nóng và khói. Kiệt sức, anh vẫn cố di chuyển.
Gray lấy hết sức nâng mình lên bằng khuỷu tay, rồi tay, nhích đi.
Ở một phía ngọn lửa phả ra rồi lại giật lại. Trong lúc im lặng anh nghe có tiếng nói phía dưới, giục giã, lén lút
— Fiona đấy à…?
Gray nằm sụp xuống rồi trượt theo tấm ván tới mép mái. Khói cuộn đặc từ những cửa sổ bị vỡ ngay phía dưới. Anh dùng tấm vải để chắn khói và tiến vào.
Tới mép máng nước anh nhìn xuống.
Ngay phía dưới anh trải dài một tấm ban công bằng thép….không, không phải một tấm ban công. Nó là cái chiếu nghỉ cầu thang. Cái cầu thang trong nhà mà Fiona đã nhắc tới.
Nằm sóng soài trên chiếu nghỉ là chính cô gái.
với một tiếng rên nhẹ, Fiona lăn người vá bắt đầu nâng mình lên, tay vịn vào cột lan can.
Những người khác nhận thấy sự chuyển động của cô.
Ngoài sân phía dưới Gray nhận ra có hai bóng người. Một đang đứng ở giữa phiến đá, súng nâng trên vai, đang tìm điểm bắn. Khói đen phả ra từ ô cửa sổ bị vỡ của căn phòng, che khuất Fiona. Kẻ bắn tỉa chỉ đợi cho cô gái nhô đầu lên khỏi thanh chắn của lan can
— Đừng nhô lên. - Anh suỵt ra hiệu cho Fioria
Cô ngước lên. Máu tươi đang rí ra ngang trán cô bé.
Kẻ cầm súng thứ hai lượn vòng, hai tay nắm chặt khẩu súng lục. Hắn nhắm hướng cầu thang, định khoá mọi đường tẩu thoát.
Gray ra hiệu cho Fiona nằm yên, sau đó anh lăn dọc theo đường mái cho tới khi anh ở ngay trên đầu kẻ có súng thứ hai. Khói tuôn ra tiếp tục che khuất anh. Kẻ ám sát chỉ tập trung chú ý về phía cầu thang. Khi đã vào đúng chỗ, Gray bắt đầu đợi. Anh cầm chắc một viên ngói nặng trong tay phải, hòn ngói mà Fiona đã làm long ra khi cô ngã lộn
Hắn chỉ còn có một viên đạn.
Bên dưới, hắn giương súng sẵn sàng và đã đặt một chân lên bậc thứ nhất của cầu thang.
Gray đưa người ra khỏi mép mái, giơ tay lên.
Anh đột ngột huýt sáo
Kẻ cầm súng ngước lên, vung súng và quỳ ngay xuống gối. Rất nhanh….
Nhưng trọng lực còn nhanh hơn.
Gray vung tấm ngói.
Viên ngói quay trong không khí như một cái rìu và đập vào giữa mặt kẻ cầm súng. Máu tuôn ra từ mũi. Hắn ngã ngửa ra đằng sau. Đầu đập vào phiến đá, nẩy lên và nằm bất động.
Gray lại lăn, trở về phía Fionà.
Một tiếng kêu cất lên từ phía người cầm súng bắn tỉa.
Gray dõi mắt theo hắn. Anh đã hy vọng đánh gục được một kẻ, kẻ khác sẽ sợ mà bỏ chạy. Không có được cái may mắn đó. Kẻ có súng chạy sang phía đối diện, náu mình bên cạnh thùng rác, nhưng vẫn tìm được đường ngắm thuận tiện. Vị trí của hắn rất gần với phía sau đang bốc cháy của cửa hiệu, lợi dụng khói đang cuộn ra từ cửa sổ nhà hàng xóm.
Gray lại quay về phía Fiona. Anh vẫy tay ra hiệu cho cô thấp xuống. Nếu kéo Fiona lên chắc chắn cả hai cùng chết. Cả hai đều bị phơi ra.
Như vậy chỉ còn một sự lựa chọn.
Nắm chắc máng nước, anh lăng người nhảy xuống. Anh rơi xuống chiếu nghỉ của lan can rồi thụp xuống.
Một hòn gạch trên đầu anh vỡ ra.
Súng nổ.
Gray đưa tay rút dao găm trong bao đeo ở cổ chân , Fiona thấy thế, hỏi:
— Chúng ta đang….?
— Cô sẽ ở lại đây. - Anh ra lệnh
Gray đưa tay bám vào thanh lan can phía trên. Tất cả anh có được bây giờ là yếu tố bất ngờ. Không có áo chắn đạn, không vũ khí, ngoài một con dao.
— Khi nào tôi hô chạy, thì cô chạy. - Anh nói. - Xuôi theo cầu thang, vượt qua bờ rào nhà hàng xóm. Rồi tìm lấy một cảnh sát hay lính cứu hoả. Cô làm được chứ?
Fiona nhìn vào mắt anh. Dường như cô định tranh luận cái gì đó, nhưng môi cô bậm lại và cô gật đầu.
Cô bé ngoan
Gray cầm chắc dao trong tay. Lại chỉ có một cơ hội. Lấy một hơi dài, anh nhảy lên, bỏ tay, bay qua cầu thang. Khi anh đổ về phía phiến đá anh làm hai việc cùng một lúc.
— Chạy. - Anh hô lên và tung dao vào chỗ của kẻ bắn tỉa. Anh không hy vọng giết được hắn, mà chỉ để làm sao nhãng đủ để áp sát. Khẩu súng trở nên lóng ngóng trong tình huống cấp bách đó.
Khi anh rơi xuống, anh nhận thấy hai điều
Một tốt, một xấu
Anh nghe tiếng chân của Fiona long cong xuôi theo cầu thang.
Cô ấy đang chạy.
Tốt.
Đồng thời, Gray nhìn thấy dao găm của anh vung lên trong khói, đập vào thùng rác, và nẩy đi. Cú nhảy của anh cũng không áp sát lắm
Đấy là điều xấu
Kẻ bắn tỉa đứng lên, bình tĩnh, súng sẵn sàng, chĩa vào ngực của Gray
— Không! - Fiona hét lên khi cô đã tối chân cầu thang
Kẻ cầm súng thậm chí không phí một nụ cười khi hắn kéo cò.
• 9 giờ 5 phút sáng
Khu bảo tồn Hluhluwe - Umfolozi
Zululand, Nam Phi
— Chạy. - Khamisi nhắc lại
Tiến sĩ Fairfield không cần giục thêm. Họ chạy theo hướng xe của họ. Tới hố nước, Khamisi ra hiệu cho tiến sĩ Fairfield chạy lên trước. Bà lách trong đám lau sậy. Đôi mắt bà bắt gặp cái nhìn của anh. Nỗi khiếp đảm ánh lên trong đôi mắt của bà, anh cũng thế.
Bất cứ con vật nào đã kêu lên trong rừng sâu đều cho thấy nó to lớn, đồ sộ, và đang bị kích động bởi cú giết vừa rồi. Khamisi ngoái nhìn lại xác con tê giác đã bị mềm nhũn. Quái vật hay không, anh không cần biết thêm gì nữa về vật đang náu mình trong khu rừng rậm, giữa những dòng suối đang róc rách chảy, và những mương máng đã được che khuất
Quay người lại Khamisi đuổi theo nhà sinh vật học. Thỉnh thoảng anh lại ngoái lại, tai căng ra cố phát hiện xem có âm thanh đuổi theo không. Có cái gì đó làm tung nước trong vùng nước bên cạnh. Khamisi lờ đi. Nhỏ lắm. Quá nhỏ. Đầu óc anh cố lọc từ những chi tiết bên ngoài, sàng qua cái âm thanh vù vù của côn trùng và tiếng lao xao của lau sậy. Anh tập trung vào những tín hiệu thực sự nguy hiểm. Cha của Khamisi dã dạy anh đi săn từ khi anh mới có sáu tuổi, huấn luyện cho anh nhận ra những tín hiệu cần tìm kiếm khi đi săn mồi.
Có điều, lúc này anh là kẻ bị săn lùng.
Tiếng vỗ cánh hốt hoảng thu hút sự chú ý của tai và mắt anh.
Một chuyển động nhỏ.
Phát ra từ bên trái.
Trên trời.
Một con chim bách thanh cất cánh.
Có cái gì đó đã làm nó hoảng sợ.
Có cái gì đó đang chuyển động.
Khamisi đuổi kịp tiến sĩ Fairfield khi họ đang rẽ đám lau sậy.
— Nhanh. - Anh nói nhỏ, các giác quan căng ra.
Tiến sĩ Fairfield nghển cổ, xoay khẩu súng. Bà đang thở mạnh, mặt bệch ra. Khamisi nhìn theo hướng bà nhìn. Chiếc xe đứng ở đầu dốc, dưới bóng râm của cây bao - bap, ngay mép chỗ đất trũng. Con dốc như dốc hơn, và dài hơn khi đi xuống.
— Chạy nhanh. - Anh giục
Ngước nhìn lại, Khamisi phát hiện một con sơn dương màu xám nhảy ra từ trong mép rừng, chồm lên ngược dốc, hất tung bụi phía sau.
Rồi biến mất.
Họ cần phải chú ý đến cách chạy của nó.
Tiến sĩ Fairfield hướng lên dốc. Khamisi theo sau, chạy nghiêng, khẩu súng hai nòng luôn luôn hướng về rừng phía sau.
— Chúng không giết để ăn. - Tiến sĩ Fairfield nói trong hơi thở trước mặt anh.
Khamisi xem xét màu sẫm tối của khu rừng. Tại sao anh biết là bà đã đúng.
— Cái đói không phải đã thúc giục chúng. - Nhà sinh vật học nói tiếp, dường như cố để che đi sự sợ hãi của mình. - Hầu như không ăn gì cả. Dường như chúng giết cho vui. Như mèo nhà săn chuột vậy.
Khamisi đã từng bên cạnh nhiều dã thú. Đây đúng không phải là cách bình thường. Sư tử sau khi đã ăn xong, hiếm khi trở thành mối nguy hiểm, mà thường lởn vởn nghỉ ngơi, và thậm chí có thể tiếp cận được ở một khoảng cách nhất định. Một con dã thú đã chán chê không thể xé đôi con tê giác, lôi con con từ bụng ra, chỉ để cho vui thôi.
Tiến sĩ Fairfield vẫn tiếp tục điều thắc mắc của bà, dường như mối nguy hiểm hiện hữu là một bí ẩn chưa giải đáp được. - Trong thế giới đã thuần hoá, chính con mèo nhà sau khi đã no nê thường săn nhiều hơn. Nó có thêm năng lượng và thời gian cho việc đó.
Chơi?
Khamisi rùng mình
— Chạy đi. - Anh nói, không muốn nghe nữa
Tiến sĩ Fairfield gật đầu, nhưng lòi nói của nhà sinh vật học vẫn cứ vang lên trong tai Khamisi. Loại dã thú nào đã giết như thế để chơi thôi? Tất nhiên, có một câu trả lời rất rõ ràng
Con người
Nhưng đây lại không phải là công việc của bất cứ bàn tay con người nào cả.
Sự chuyển động lại thu hút sự chú ý của anh. Trong chớp nhoáng, một bóng hình nhờ nhờ phía sau bìa rừng tối ập vào khoé mắt. Nó thoảng qua như một làn khói khi anh tập trung vào đó.
Anh nhớ lại lời nói của ông già thuộc bộ lạc Zulu
Nửa thú, nửa ma
Trời nóng mà người anh ớn lạnh.
Anh bước vội,như muốn lấy vai đẩy nhà sinh vật học leo lên. Đá phiến sét bong ra và đất cát trượt dưới chân như cố tình phản lại. Họ đã gần tới đỉnh. Chiếc xe Jeep chỉ còn cách họ khoảng ba mươi mét.
Thế rồi tiến sĩ trượt chân.
Bà ngã khuỵu gối, ngả ra đằng sau, đập vào Khamisi
Anh bước lùi, hụt, và rơi xuống sau rất đau. Độ dốc và quán tính làm anh ngã lộn nhào. Anh lăn đến nửa dốc thì anh dùng chân và báng súng dừng lại được
Tiến sĩ Fairfield vẫn ngồi đúng nơi bà ngã, mắt mở to sợ hãi, nhìn quay xuống.
Không phải vào cậu ta.
Ngay mé rừng.
Khamisi xoay người, co gối; mắt cá chân đau nhói, bị trẹo, có thể đã bị gãy. Anh lại dõi tìm, nhưng không thấy gì cả
— Đi! - Anh kêu lên. Anh đã để chìa khoá ở ổ đánh lửa. - Đi nhanh.
Anh nghe thấy tiến sĩ Fairfield vặn người để đứng lên giậm chân trên đá lạo xạo
Từ mé rừng, một tiếng rú cất lên, khàn khàn, man rợ.
Khamisi giương súng và bóp cò. Tiếng nổ của khẩu súng làm vỡ tan không gian trống rỗng. Tiến sĩ Fairfield giật mình kêu lên ở phía sau. Khamisi hy vọng tiếng động cũng làm giật mình bất cứ kẻ nào đang luẩn quất đâu đây.
— Chạy đến chỗ xe! - Anh kêu lên. - Chạy. Đừng đợi!
Anh đứng, nghiêng người tránh cái chân đau. Anh vẫn giương súng lên cao. Khu rừng lại trở nên tĩnh mịch.
Anh nghe tiếng tiến sĩ Fairfield đã lên tới đỉnh dốc.
— Khamisi… - Bà gọi với lại.
— Lên xe.
Anh liều ngước nhìn lại
Tiến sĩ Fairfield quay lại từ mép dốc và bước về phía xe. Trên đầu bà, sự chuyển động trên cành cây bao - bap thu hút sự chú ý của anh. Một vài cánh hoa trắng rủ xuống đung đưa nhè nhẹ.
Không có gió
— Marcia! - Anh kêu lên. - Đừng!
Một tiếng kêu man rợ phát ra phía sau anh, nhấn chìm đi lời cảnh báo tiếp theo của anh. Tiến sĩ Fairfield chưa kịp ngoái lại
Không…
Nó lao xuống, từ sâu trong bóng râm của cái cây khổng lồ, một dáng hình lờ mờ. Nó đập vào người nhà sinh vật học và cả hai mất hút. Khamisi nghe thấy tiếng kêu như cứng lại của người phụ nữ, rồi tắt ngấm trong nháy mắt.
Sự im lặng lại ập đến.
Khamisi quay về mép rừng.
Cái chết ở cả trên trời và dưới đất.
Anh chỉ còn có một cơ hội.
Quên hết đau đớn, Khamisi cắm đầu chạy.
Xuôi xuống dốc.
Anh đơn thuần để cho trọng lượng lôi anh xuống. Nó là sự rơi tự do đúng hơn là chạy. Anh lao về phía chân đồi, hai chân líu ríu. Tới chân đồi, anh giương súng về phía rừng, kéo cò bắn một phát nữa từ khẩu súng hai nòng của mình
Đoàng
Anh không hy vọng đuổi được kẻ săn mồi. Anh tìm kiếm một chút mảnh sống còn sót lại cho riêng mình. Tiếng vọng của phát đạn cũng giúp anh giữ được thăng bằng khi dốc đã thoải. Anh chạy tiếp, cổ chân như bốc lửa, tim đập thình thịch.
Anh phát hiện, hoặc đơn thuần là cảm nhận thấy sự vận động của một cái gì đó rất lớn, ngay ở mép rừng. Một bóng hình hơi nhạt một chút.
Nửa thú, nửa ma
Dù vô hình, nhưng anh biết
Ukufa
Sự chết chóc
Không, không phải hôm nay…. Anh cầu nguyện để không phải hôm nay.
Khamisi lao xuyên qua đám lau sậy và lao đầu xuống hố nước.

• 9 giờ 32 phút sáng
Copenhagen, Đan Mạch
Tiếng kêu của Fiona đã chặn đứng tiếng súng nổ của kẻ bắn tỉa.
Gray xoay người, hy vọng thoát được cú giáng chết người ấy. Khi anh quay, bóng mờ của một cái gì đó rất lớn lao ra qua phần còn lại của cửa sổ cửa hàng đầy khói
Kẻ cầm súng phát hiện ra chuyển động này trước Gray một li cũng đủ để quật ngã mục tiêu của mình trong chốc lát
Gray cảm thấy cú siết của đường đi của viên đạn xuyên qua cánh tay trái của anh
Anh tiếp tục xoay người ra khỏi tầm ngắm
Từ trong cửa sổ, một vật to đập vào đỉnh thùng rác và cuộn ngược lại đập vào người cầm súng
— Bertal! - Fiona kêu lên
Con Saint Bernard lông xù, ướt sũng, ngoạm chặt .đôi hàm của mình vào cánh tay của người cầm súng. Cuộc tấn công đột ngột và không ngờ ấy làm cho hắn mất cảnh giác. Hắn ngã vào phía sau thùng rác. Súng đập vào phiến đá lát.
Gray lao với lấy khẩu súng
Tiếng kêu của con chó vang lên ngay sát cạnh. Trước khi Gray kịp phản ứng, kẻ ám sát đã nhảy ra, rất cao. Hắn giáng gót giày vào vai của Gray, đẩy anh va vào bờ đá, rồi nhảy chồm qua anh. Gray lật sang bên, giương súng ngắm. Nhưng hắn đã nhanh như cắt. Khoác trên mình chiếc áo choàng đen, hắn lao qua bờ rào vườn bằng đá, và lặn tăm. Gray vẫn còn nghe tiếng bước chân của hắn sâu dần trong ngõ.
— Đồ chó…
Fiona chạy đến chỗ Gray. Tay cô cầm khẩu súng. - Người đàn ông kia… - Cô chỉ về phía sau. - Em nghĩ hắn đã chết
Gray vác khẩu súng bắn tỉa lên vai, và đưa tay nhận khẩu súng từ tay cô. Cô không phản đối, mà bận tâm vào việc khác
— Bertal.
Con chó bước ra, tập tễnh, yếu ốt; một bên bị cháy xém.
Gray liếc nhìn về phía cửa hiệu đang cháy. Làm thế nào mà nó lại sống được nhỉ? Anh cố nhớ lại nơi anh nhìn thấy con chó lần cuối: Bị ngay những trái bom nổ đầu tiên đẩy đập vào tường sau, bất tỉnh.
Fiona ôm lấy con vật bị ướt sũng.
Con chó chắc đã rơi vào một cái bình tưới.
Fiona nâng mặt con Saint Bernard, nhìn từ mũi tới mõm. - Con chó rất giỏi.
Gray đồng ý. Anh mang ơn Bertal. - Tất cả số nai mà cậu thích, anh bạn ạ - Anh hứa trong hơi thở.
Bertal run lên. Nó ngồi trên hai chân sau, rồi nằm xuống phiến đá. Bất cứ chất Ađrenalin nào đã giúp con vật chống chọi được bây giờ đã cạn kiệt.
Từ phía trái, họ nghe thấy có tiếng nói cất lên, gọi nhau bằng tiếng Đan Mạch. Một tia nước phun áp lực vút lên. Những người lính cứu hoả đang chạy đi chạy lại ở phía bên kia của cửa hiệu.
Gray không thể ở lâu hơn được nữa
— Tôi phải đi.
Fiona đứng dậy. Cô liếc nhìn Gray và con chó
— Hãy ở lại cùng Bertal. - Lùi một bước, anh nói. - Đưa nó đến bác sĩ.
Đôi mắt của Fiona như mờ đi. - Thế anh định đi luôn…
— Tôi rất tiếc. - Đấy là một phản ứng gượng gạo chứa đựng sự khiếp sợ: sát hại người bà của cô, thiêu trụi cửa hiệu, và một cú suýt chết. Nhưng anh không biết nói gì hơn, và cũng không có thời gian để giải thích thêm nữa.
Anh quay và đi thẳng về phía bức tường cuối vườn
— Vậy thì cứ đi đi. Cút đi! - Fiona hét lên ở phía sau anh
Gray nhảy qua bò rào, mặt nóng bừng.
— Hãy đợi đã!
Anh đi vội vào trong ngõ. Anh không muốn bỏ cô; nhưng không còn cách nào khác. Cô ấy khá hơn rồi. Trong vòng tay của những nhân viên cứu hộ, cô ấy sẽ được bảo vệ và che chở. Còn nơi Gray đến sẽ không phải là nơi cho một cô gái mới mười lăm tuổi. Mặt anh vẫn nóng bừng bừng. Sâu thẳm trong anh, anh không thể phủ nhận một động cơ ích kỉ: anh đang vui vì đã bỏ được cô, đã rũ được trách nhiệm
Không sao…coi như đã xong.
Anh thẳng người và bước nhanh vào ngõ. Anh nhét khẩu súng ngắn vào cạp quần và tháo hết đạn trong khẩu súng trường. Khi làm xong, anh lùa khẩu súng sau đống gỗ. Mang nó dễ bị người ta chú ý. Anh vừa đi, vừa kéo áo len lên. Anh cần phải từ bỏ khách sạn và thay đổi nhận dạng. Những cái chết ở đây sẽ được điều tra. Đã đến lúc phải để cho tính cách của bác sĩ Sawyer chết đi.
Nhưng trước khi làm việc đó anh cần phải hoàn thành một việc nữa
Anh móc lấy chiếc điện thoại pin từ túi quần sau và bấm số nhanh gọi về chỉ huy trung tâm. Vài giây sau anh được nối mạch với Logan Gregory, người lãnh đạo sứ mệnh hoạt động của anh.
— Chúng tôi gặp rắc rối ở đây. - Anh nói
— Có chuyện gì?
— Những điều xảy ra ở đây nghiêm trọng hơn ta nghĩ lúc đầu. Đủ để đảo lộn tất cả. - Gray tóm lại công việc sáng nay của anh. Sau đó là một khoảng im lặng kéo dài.
Cuối cùng Logan đã lên tiếng, giọng nói khá cảng thẳng. - Thế thì tốt nhất ta huỷ nhiệm vụ này, đợi đến khi nào cậu có thêm tiềm năng trong thường dân.
— Nếu tôi phải đợi có được sự ủng hộ sẽ muộn mất. Cuộc đấu giá sẽ xảy ra chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ nữa.
— Cái vỏ của anh bị mất rồi, thưa chỉ huy Pieree.
— Tôi không chắc đã thế, ở mức độ người đứng đầu biết được thì tôi là một người mua người Mỹ hỏi quá nhiều. Họ không thử cái gì công khai cả. Sẽ có rất nhiều người có mặt trong cuộc bán đấu giá, và căn nhà sẽ được canh gác rất chặt. Tôi vẫn có thể vận động trong khu vực và có thể xác minh được một số manh mối để tìm ra xem ai hoặc cái gì thực sự ở sau tất cả những điều này. Sau đó tôi sẽ biến ngay, lặn cho tới khi tôi có thêm trợ giúp.
Gray cũng muốn đặt được bàn tay của mình trên cuốn Kinh thánh đó, dù chỉ là để xem xét nó.
Logan nói: - Tôi không cho như thế là khôn ngoan. Mạo hiểm hơn là thu được cái gì. Đặc biệt đối với một hoạt động thuộc lĩnh vực riêng biệt.
Phản ứng của Gray trỏ nên gay gắt hơn. - Chết tiệt, định đốt lửa rồi bắt tôi ngồi lên à?
— Thưa chỉ huy.
Các ngón tay của Gray kẹp chặt ống nghe điện thoại. Logan đã ngồi ở vị trí thúc việc bàn giấy ở Sigma lâu rồi. Với nhiệm vụ nghiên cứu Logan đủ khả năng làm một lãnh đạo hoạt động. Nhưng đây không còn là một công việc thu thập cứ liệu nữa. Nó đã và đang trở thành một hoạt động được phát triển đầy đủ. Và nếu đúng như vậy, Gray cần một người nào đó với khả năng lãnh đạo thực sự để ủng hộ anh.
— Có thể chúng ta phải kéo giám đốc Crowe vào cuộc. - Gray nói.
Lại một hồi lâu nữa. Có thể anh đã nói điều này không đúng lúc. Anh không có ý xúc phạm Logan, nhưng đôi khi đơn giản ta muốn biết khi nào cần phải rẽ ngang.
— Tôi e lúc này thì không thể được, thưa chỉ huy Pierce.
— Tại sao?
— Giám đốc Crowe hiện đang bị mất liên lạc ở Nê - pan.
Gray cau mày. - Ở Nê - pan? Ông ấy đang làm gì ở Nê -
pan?
— Chỉ huy, anh cử ông ta đi mà.
— Cái gì?
Rồi Gray vỡ lẽ ra.
Có một cú điện thoại cách đây một tuần.
Từ một người bạn.
Đầu óc của Gray lui về quá khứ, tới những ngày đầu tiên cùng với Lực lượng Sigma. Giống như tất cả các điệp viên khác của Sigma, Gray đã có một lai lịch với Lực lượng Đặc biệt: tham gia quân đội lúc mười tám tuổi, vào đội biệt động lúc hai mươi mốt. Nhưng sau khi bị toà án quân sự xét xử do đã đánh một sĩ quan cấp trên, Gray đã được Lực lượng Sigma tuyển dụng, ngay sau khi ra khỏi Leavenworth. Tuy nhiên, anh đã là người thận trọng. Có đầy đủ lý do để anh đã đánh viên sĩ quan đó. Sự yếu kém về khả năng của ông ta đã dẫn đến những cái chết không cần thiết ở Bosnia - những cái chết của trẻ em. Song sự tức giận của Gray có những nguyên nhân sâu xa hơn. Những vấn đề rối rắm có liên quan tới quan chức trở lại từ thời của bố anh. Và trong lúc những vấn đề chưa được giải quyết hoàn toàn thì có một người khôn ngoan đã chỉ đường cho Gray.
Người đó là Ang Gelu
— Có phải anh nói giám đốc Crowe ở Nê - pan là do người bạn của tôi, vị tăng đồ Phật giáo.
— Painter biết rất rõ người đàn ông đó có tầm quan trọng đối với anh như thế nào.
Gray đứng lại và bước vào bóng râm.
Anh đã dành bốn tháng học cùng với vị tăng đồ ở Nê - pan, trong khi ông đang huấn luyện cho Sigma. Thực tế, chính qua Ang Gelu, Gray đã lập được một chương trình độc đáo riêng của mình ở Sigma. Gray đã cấp tốc theo học sinh học và vật lí, rồi nhận bằng kép, nhưng sau đó Ang Gelu đã nâng cấp học của Gray, huấn thị cho anh nghiên cứu tìm sự cân bằng của mọi thứ. Sự hài hoà của những cái đối lập. Cái âm dương của đạo Lão. Cái sắc sắc, không không.
Tất cả những kiến thức đó cuối cùng đã giúp Gray đối mặt được với quá khứ của mình.
Lớn lên, anh luôn như thấy mình ở giữa những cái đối lập. Trong khi mẹ anh giảng dạy ở một trường trung học Cơ đốc giáo, bà đồng thời là một nhà sinh vật học tài năng, một đồ đệ sùng kính của tiến hoá và lí trí. Bà đặt niềm tin và sự trung thành vào phương pháp khoa học cũng như vào tôn giáo của mình.
Và sau đó đến bố anh: một người xứ Wales sống ở Texas, một công nhân dầu khí cứng đầu cứng cổ bị tàn tật ở tuổi trung niên và phải giữ vai trò nội trợ. Kết quả là, cuộc đời của anh bị ngự trị bởi sự bù đắp quá mức và sự tức giận.
Cha nào, con ấy.
Cho tới khi Ang Gelu đã chỉ cho anh một con đường đi khác.
Một con đường giữa những cái đối lập. Nó không phải là một con đường ngắn ngủi. Nó trải dài vào quá khứ cũng như vào tương lai. Gray vẫn đang vật lộn với nó.
Nhưng Ang Gelu đã giúp Gray thực hiện bước đi đầu tiên. Anh mang ơn vị tăng đồ vì điều đó. Cho nên khi có cú điện thoại nhờ giúp đỡ cách đây một tuần, anh không muốn bỏ qua. Ang Gelu đã báo cáo lại những biến mất kì lạ, những căn bệnh khác thường, tất cả đều ở trong một khu vực gần biên giới Trung Quốc.
Vị tăng đồ không biết nhờ cậy đến ai. Chính phủ của ông ở Nê - pan đang quá tập trung vào việc dẹp bọn nổi loạn. Ang Gelu biết Gray đang tham gia vào một chuỗi mù mịt chỉ huy những hoạt động bí mật. Và Ang Gelu đã xin anh giúp đỡ. Nhưng vì đã được giao nhiệm vụ hiện nay Gray chuyển vấn đề đó cho Painter Growe.
Một dạng gạt trách nhiệm…
— Tôi chỉ có ý là để Painter cử một điệp viên cấp dưới. - Gray lắp bắp, không thể tin được. - Để kiểm tra. Nhất định có những người khác, những người mà…
Logan ngắt lời anh. - Ở đây chậm lắm.
Gray rên lên. Anh biết Logan có ý gì. Sự lắng dịu tương tự trong mối đe dọa toàn cầu đã đưa Gray tới Đan Mạch.
— Thế là ông ấy đi?
— Anh biết giám đốc rồi đấy. Luôn luôn dính tay vào mọi việc. - Logan thở dài. - Và bây giờ đã có chuyện. Một trận bão đã cắt đứt liên lạc mất mấy ngày, bây giờ đã thông, nhưng chúng tôi vẫn chưa có tin tức gì mới từ giám đốc. Trong khi đó chúng tôi nghe được từ nhiều kênh những lời đồn thổi. Cũng những câu chuyện mà người bạn của anh đã báo cáo. Ốm đau, dịch bệnh, chết chóc, thậm chí có khả năng bạo loạn trong khu vực. Có điều sự việc đang gia tăng.
Gray lúc này mới hiểu cái căng thẳng trong giọng nói của Logan.
Hình như không chỉ có sứ mệnh của Gray là bị đảo lộn.
Trời không chỉ mưa mà đổ nước
— Tôi có thể điều Monk đến với anh được. - Logan nói. - Cậu ấy và Đại uý Bryan đang trên đường tới đây. Monk có thể có mặt tại đấy trong mười tiếng nữa. Vậy hãy nằm im đợi đến khi đó nhé.
— Thế thì cuộc đấu giá sẽ kết thúc mất.
— Chỉ huy Pierce, anh có những mệnh lệnh phải tuân thủ.
Gray nói nhanh, giọng nói của anh như rít lại. - Thưa ngài, tôi đã đặt sẵn sàng các camera ở lối vào và các điểm ra quanh nhà đấu giá. Bỏ chúng thì phí quá.
— Thôi được. Hãy kiểm soát các camera từ một điểm an toàn. Ghi lại tất cả. Nhưng không hơn. Rõ chứ, thưa chỉ huy?
Gray tức, nhưng Logan cũng đã ngập đầu rồi. Tất cả là vì thiên vị đối với Gray rồi. Nên anh không còn lí do để phản đối.
— Rất tốt, thưa ngài.
— Sau cuộc đấu giá báo cáo lại ngay nhé. - Logan nói.
— Vâng, thưa ngài.
Đường dây bị cắt.
Gray tiếp tục đi theo những ngõ phố của Copenhagen, luôn luôn cảnh giác xung quanh. Nhưng nỗi lo vẫn đeo đẳng anh.
Cho Painter, cho Ang Gelu.
Cái quái gì đang xảy ra ở Nê - pan vậy?
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Trật Tự Đen (A Sigma Force #3).