• 198

Phần I - Chương 4: Ánh sáng ma quái


Số từ: 10494
Dịch giả: Đỗ Trọng Tân
Nhà xuất bản Văn Học
• 11 giờ 18 phút sáng
Himalayas .
— Và cô chắc là Ang Gelu đã bị giết? - Painter ngoái lại hỏi.
Cô gật đầu trả lời anh.
Lisa Cummings đã kể xong câu chuyện cô đã được tuyển dụng như thế nào, từ một đội leo đỉnh Everest rồi lại tham gia điều tra một thứ bệnh tại tu viện. Cô kể rất nhanh về những nỗi kinh hoàng xảy ra sau đó: sự điên loạn, những tiếng nổ, và người bắn tỉa.
Painter lật lại câu chuyện trong đầu khi cả hai đang len sâu vào trong hầm bí mật của tu viện. Đường hầm ngoắt ngoéo, hẹp không hợp với kích cỡ người như anh. Anh phải gập người xuống. Vậy mà đầu anh vẫn cọ vào mớ những cành cây bách xù héo treo lơ lửng. Những bình xịt hương được sử dụng để làm các cây hương trầm theo nghi lễ cho cái miếu ở phía trên, cái miếu mà lúc này đây chỉ còn có một cây hương trầm đang cháy và toả khói lên bầu trời buổi trưa.
Không có vũ khí, họ chạy vào trong hầm để tránh ngọn lửa. Painter dừng lại kịp để chộp được một cái áo poncho [3] nặng trịch và một đôi giày viền lông thú trong một phòng thay đồ. Trong bộ đồ này, anh trông giống như một thổ dân da đỏ Pê - cốt, cho dù anh chỉ là một người mang dòng máu lai. Anh không còn nhớ là bộ quần áo của anh và túi đồ đã được lấy từ đâu nữa.
(Loại áo mưa dệt bằng vải gai, không có ống tay áo, dệt trang trí đẹp ỏ mảng vai và lưng)

Đã ba ngày trôi qua.
Sút mất mười pao.
Khi đang mặc chiếc áo choàng buổi sớm, anh nhận thấy xương sườn lồi ra. Ngay cả vai anh cũng dơ xương. Anh vẫn chưa thoát hẳn bệnh ở đây. Tuy vậy, sức khoẻ của anh vẫn đang tiếp tục hồi phục.
Nó phải hồi phục.
Đặc biệt là khi kẻ ám sát vẫn đang luẩn quất đâu đây.
Painter đã nghe thấy những tiếng nổ súng đùng đoàng khi họ đang chạy ở dưới. Kẻ bắn tỉa giết bất cứ ai chạy khỏi tu viện đang cháy. Bác sĩ Cummings miêu tả kẻ tấn công. Chỉ có một người. Chắc chắn có cả những người khác nữa. Có phải họ là những kẻ bạo loạn không? Thật vô nghĩa. Họ tàn sát như thế nhằm mục đích gì?
Cầm ngọn đèn pin nhỏ xíu, Painter dẫn lối.
Bác sĩ Cummings theo sát phía sau.
Painter được biết cô là một bác sĩ người Mỹ và là một thành viên của đội leo đỉnh Everest. Anh liếc thăm dò cô, đánh giá cô. Cô có đôi chân dài, có thân hình của một vận động viên, bộ tóc màu vàng nhạt, tết hình đuôi ngựa, và đôi má ửng hồng nắng gió. Cô cũng rất hoảng sợ. Cô bám sát anh, chốc chốc lại nhảy lên khi nghe tiếng súng bòm bọp ở trên đầu. Tuy vậy, cô vẫn tiếp tục đi, không khóc lóc, không một lòi phàn nàn. Dường như cô đã ngăn chặn được những cú sốc bằng chính ý chí mạnh mẽ của mình.
Nhưng liệu được bao lâu?
Ngón tay của cô run run khi cô đưa tay gạt búi cỏ tranh khô trước mặt. Họ tiếp tục tiến. Khi họ tiến sâu hơn vào trong hầm, không khí sặc mùi hương của các cành cây: cây hương thảo, cây đỗ quyên núi, cây artemisia và cây khenpa.
Tất cả được sẵn sàng để chế thành những que hương các loại.
Lama Khemsar, người đứng đầu tu viện, đã từng dạy cho Painter biết mục đích sử dụng của hàng trăm loại thảo mộc: để làm thanh khiết, để làm tăng lực, để làm tiêu tan những tư tưởng đập phá, và thậm chí để chữa bệnh hen, bệnh cảm lạnh. Nhưng còn bây giờ, điều mà Painter muốn nhớ duy nhất là làm cách nào để đến được cửa hậu của hầm rượu. Căn hầm kết nối tất cả các toà nhà trong tu viện. Các vị tăng đồ sử dụng đường hầm trong những ngày đông tuyết rơi nặng hạt để di chuyển từ nhà này tới nhà nọ.
Kể cả việc tới được nhà kho nằm ở mé ngoài khu đất. Nó đứng cách xa ngọn lửa và ở ngoài tầm nhìn.
Nếu đến được đó…họ sẽ thoát ra được tới ngôi làng dưới núi…
Anh cần phải liên hệ với chỉ huy Sigma.
Khi đầu óc anh đang xoay quanh những khả năng có thể xảy ra, thì lối đi dường như cũng vậy.
Painter dựa tay vào tường hầm cố giữ người cho vững.
Chóng mặt.
— Anh không sao chứ? - Bác sĩ hỏi, bước tới gần vai anh.
Anh hít hít vài hơi rồi gật đầu. Từ lúc tỉnh, những cơn chóng mặt luôn luôn hành hạ anh. Nhưng chúng xuất hiện thưa dần; hay đó chỉ là do những suy nghĩ ước ao?
— Cái gì đang xảy ra trên ấy thế nhỉ? - Bác sĩ hỏi. Cô cầm chiếc đèn từ tay anh, thực tế nó là của cô, lấy ra từ trong bộ đô nghề y tế của cô, và rọi vào mắt anh.
— Tôi không…Tôi không chắc chắn…Nhưng chúng ta phải tiếp tục đi.
Painter cố gắng buông người ra khỏi bức tường, song ngay lúc ấy cô ép một bàn tay lên ngực anh, xem xét đôi mắt anh.
— Anh có biểu hiện giật cầu mắt rất rõ. - Cô thì thầm, hạ thấp chiếc đèn, mày cau lại.
— Gì Cơ?
Cô đưa cho anh bình tông nước lạnh, ra hiệu cho anh ngồi trên kiện cỏ khô. Anh không phản đối. Kiện cỏ cứng như xi măng.
— Mắt anh có biểu hiện giật cầu mắt ngang, co con ngươi. Anh có bị đập đầu vào đâu không?
— Tôi không nghĩ thế. Có nghiêm trọng không?
— Khó nói lắm. Có thể đó là kết quả của tổn thương ở mắt và não. Một cú đòn, bị một cú đánh vào đầu. Nếu thấy hoa mắt chóng mặt, tôi có thể nói anh đã bị tổn thương bộ máy tiền đình. Có thể ở tai trong. Có thể hệ thông thần kinh trung ương. Rất có thể nó không phải là mãi mãi. - Giọng nói của cô trong câu cuối tỏ ra rất lúng túng.
— Cô nói rất có thể, ý cô là gì, bác sĩ Cummings?
— Hãy gọi tôi là Lisa. - Cô nói như cố để đánh lạc sự chú ý.
— Thôi được. Lisa. Thế điều này cũng có thể là mãi mãi?
Cô nhìn đi chỗ khác.
— Tôi cần có thêm thử nghiệm nữa. Thêm cơ sở. - Cô nói.
— Có thể trước hết anh hãy cho tôi biết sự việc xảy ra như thế nào.
Anh tợp một ngụm rượu. Anh cố nhớ. Anh thấy đau ở tròng mắt khi anh cố nhớ lại. Những ngày qua chỉ còn lại lơ mơ.
— Tôi đang ở trong một khu làng nằm xa trung tâm. Giữa đêm, những ánh sáng kì lạ xuất hiện trên đỉnh núi. Tôi không thấy có pháo hoa gì cả. Đến khi tôi dậy được những ánh sáng đã lụi. Sáng dậy mọi người trong làng kêu ca đau đầu, buồn nôn. Cả tôi nữa. Tôi hỏi một người có tuổi về những ánh sáng đó. Ông ta nói những ánh sáng như thế vẫn thường thỉnh thoảng xuất hiện đã nhiều thế hệ nay rồi. Những ánh sáng ma quái. Và cho đấy là do tà ma của núi rừng sâu thẳm,
— Tà ma?
— Ông ta chỉ về phía những ánh sáng xuất hiện. Trên một vùng xa xôi của núi rừng, một vùng của những hẻm sâu, những thác nước đá, kéo dài suốt cho tới tận biên giới Trung Quốc. Đi lại rất khó khăn. Tu viện nằm trên vai của quả núi nhìn ra mảnh đất không người này.
— Thế tu viện ở gần những ánh sáng hơn?
Painter gật đầu.
— Cừu chết hết trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Một số lăn ra chết ngay chỗ chúng đứng. Số khác cứ đập đầu vào đá. Hôm sau tôi lại đến, đầu đau và buồn nôn. Lama Khemsar đưa cho tôi ít trà. Đấy là thứ cuối cùng mà tôi có thể còn nhớ được. - Anh uống thêm một ngụm nước nữa ở bình tông và thở dài.
— Đấy là chuyện cách đây đã ba ngày. Tôi tỉnh dậy, thấy bị giam trong phòng. Tôi phải phá cửa để ra.
— Anh may đấy. - Thu lại cái bình tông, người phụ nữ nói.
— Nghĩa là thế nào?
Cô đặt tay chéo lên ngực, ép chặt như thể bảo vệ.
— May là đã thoát ra khỏi tu viện. Trạng thái ở gần ánh sáng tương quan với tính nghiêm trọng của triệu chứng. - Cô nhìn lên và quay đi, dường như để nhìn xuyên thấu bức tường ở dưới. - Có thể nó là một dạng của bức xạ. Có phải anh nói là biên giới Trung Quốc cách không xa? Có thể nó là một hình thức thử tên lửa gì đó.
Painter cũng đã tự hỏi về chính điều này mấy ngày trước đây.
— Tại sao anh lại lắc đầu? - Lisa hỏi
Painter không nhận ra là mình đang lắc đầu. Anh nâng bàn tay đặt lên trán.
Lisa cau mày:
— Anh chưa từng nói là anh làm việc gì ở mãi cái xứ sở này, ngài Crowe.
— Cứ gọi tôi là Painter thôi. - Anh nhìn cô, cười nhăn nhó.
Cô chưa thực sự được thuyết phục.
Anh đắn đo xem nên nói thêm gì nữa. Trong hoàn cảnh như thế này, trung thực có lẽ là khôn ngoan nhất. Hoặc ít nhất ở mức độ có thể được.
— Tôi làm việc cho chính phủ, một đơn vị được gọi là DARPA. Chúng tôi
Cô búng ngón tay ngắt lời anh, hai cánh tay vẫn ôm chéo trên ngực.
— Tôi có quen với DARPA. Một đơn vị phát triển và nghiên cứu quân sự Mỹ. Tôi đã có lần được trả kinh phí nghiên cứu ở đó. Mối quan tâm của họ ở đây là gì?
— Thế thì hình như cô không phải là người duy nhất mà Ang Gelu đã tuyển chọn. Ông ta có tiếp xúc với tổ chức của chúng tôi cách đây một tuần. Để điều tra về những tin đồn về những căn bệnh lạ ở đây. Tôi đang thu thập những thông tin địa hình của vùng, quyết định xem những loại chuyên gia nào cần đưa đến, bác sĩ, nhà địa chất, nhà quân sự, thì trận bão kéo đến. Tôi chưa có kế hoạch phòng khi bị mất liên lạc lâu thế này.
— Anh có loại trừ được khả năng gì không?
— Ngay từ những phỏng vấn đầu, tôi đã quan tâm đến việc bọn nổi loạn trong khu vực đã có trong tay một ít bụi hạt nhân và đang chuẩn bị một loại bom bẩn nào đó. Cùng với những điều mà cô phỏng đoán về người Trung Quốc. Do vậy, tôi đã thử nghiệm với nhiều hình thức cảm ứng trong thời gian tôi chờ cơn bão tan. Không ghi lại được điều gì bất thường cả.
Lisa nhìn anh chằm chằm như thể đang nghiên cứu một con gián kì cục vậy.
— Nếu chúng tôi có thể đưa anh vào một phòng thí nghiệm. - Cô nói như đang trong buồng bệnh. - Chúng ta có thể thu được một số câu trả lời.
Nên cô không coi anh như một con gián mà như một vật thí nghiệm.
Ít nhất thì anh cũng đang leo trên nấc thang tiến hoá.
— Trước hết chúng ta cần phải sống sót. - Painter nói, nhắc cô trở về với thực tại.
Cô liếc nhìn lên trần của đường hầm. Đã được một lúc họ không còn nghe thấy tiếng súng nữa.
— Có thể chúng nghĩ mọi người đã chết hết. Nếu chúng ta ở lại ngay dưới này…
Painter đẩy kiện cỏ để đứng lên.
— Theo lời miêu tả của cô thì cuộc tấn công ở đây có phương pháp. Được lên kế hoạch trước. Rồi chúng sẽ phát hiện ra những đường hầm này. Cuối cùng chúng sẽ lục lọi ở đây. Chúng ta chỉ có thể hy vọng là chúng sẽ đợi cho lửa dịu xuống.
Lisa gật đầu. - Thế ta phải tiếp tục đi.
— Và thoát ra khỏi đây. Chúng ta có thể làm được điều đó. - Anh an ủi cô. Anh đặt một tay lên tường để giữ cho vững. - Chúng ta có thể làm được điều đó. - Anh nhắc lại, lần này thì với chính mình hơn là nói với cô.
Họ bước đi.
Sau vài bước Painter cảm thấy vững hơn.
Tốt.
Cửa ra chắc hẳn không còn xa nữa.
Như để khẳng định điểu này, một làn gió nhẹ thốc xuống hành lang, làm đung đưa những bó lá thơm nghe xào xạc. Painter cảm thấy phớt lạnh trên mặt. Nó làm anh tê tê. Cái bản năng của người đi săn trổi dậy, một phần do huấn luyện hoạt động đặc biệt, một phần do gien đã có sẵn trong máu của anh. Anh ngoái lại, nắm lấy khuỷu tay của Lisa, ra hiệu cô im lặng.
Anh kéo tắt cây đèn.
Trên đầu, có cái gì đó đập mạnh vào cửa, âm thanh dội xuống đường hầm. ủng. Tiếng cánh cửa đóng mạnh. Luồng gió tắt ngấm.
Họ không còn một mình họ trong hầm nữa.

Kẻ ám sát đang náu mình ở trong hầm. Hắn biết còn có cả kẻ khác nữa. Có bao nhiêu? Hắn khoác khẩu bắn tỉa lên vai và rút ra khẩu súng ngắn Hecker & Koch MK23. Hắn đã đeo găng tay không ngón. Hắn đứng nguyên vị trí, lắng nghe.
Có tiếng xô đẩy nhẹ và cọ xát.
Rút lui vào.
Ít nhất có hai…có thể ba.
Với tay, hắn kéo cửa sập dẫn tới nhà kho phía trên đóng lại. Làn gió lạnh tắt ngấm, bóng tối ngập tràn lên người hắn. Hắn kéo cặp kính lồi đi đêm và bật ngọn đèn tia cực tím đặt ở vai. Lối đi phía trước lờ mờ sáng dưới ánh xanh bạc.
Ngay cạnh, một bức tường ngăn có nhiều giá đựng đầy những hàng hoá đóng hộp và những dãy bình đã đóng sáp đựng mật ong màu hổ phách. Hắn lướt qua, chuyển động chậm chạp, lặng lẽ. Không cần thiết phải vội. Những lối ra khác duy nhất thì dẫn tới đống đổ nát của đám cháy. Hắn đã bắn chết những vị tăng đồ khi trong đầu óc đã khôn quẫn của họ vẫn còn chút tỉnh táo tìm cách để thoát ngọn lửa
Việc giết chóc này giúp thoát khỏi đau đớn. Tất cả.
Vì hắn biết rất rõ.
Chuông báo động đã rung lên quá lớn.
Đấy là một tai nạn. Một trong số rất nhiều tai nạn đã xảy ra gần đây.
Trong tháng qua, hắn đã cảm thấy bị kích động trong số những người khác ở Granitscholoi. Thậm chí ngay trước khi có tai nạn. Có cái gì đó đã khuấy động cả lâu đài để đến nỗi tận sâu mãi phía trong nơi hắn ẩn náu một mình vẫn cảm thấy được. Hắn đã lờ đi. Tại sao hắn lại phải quan tâm đến nó nhỉ?
Thế rồi tai nạn xảy ra và nó đã biến thành vấn đề của hắn.
Để xoá lỗi cho chúng.
Là một trong những kẻ đã sống sót qua vụ Sonnekõnige thì đó là nhiệm vụ của hắn. Sự suy tàn của các Hiệp sĩ Mặt trời là như vậy - cả về số lượng và vị thế, bị kiệt sức, xa lánh, lỗi thời và lúng túng. Chẳng lâu nữa, kẻ cuối cùng của họ sẽ ra đi.
Và cũng là như thế.
Nhưng ít nhất, nhiệm vụ này hôm nay hầu như đã kết thúc. Hắn có thể trở về với túp lều của hắn sau khi hắn dọn sạch căn hầm. Bi kịch ở tu viện có thể đổ cho bọn bạo loạn. Thử hỏi còn ai khác ngoài bọn vô thần đó có thể tấn công một tu viện không có tầm quan trọng chiến lược này?
Để cho chắc chắn bị lừa, thì thậm chí đạn dược của hắn cũng phải phù hợp với bọn phiến loạn.
Kể cả khẩu súng ngắn của hắn.
Vũ khí đã sẵn sàng, hắn lách người theo hàng thùng gỗ sồi đã mở. Lúa, hạt mạch, bột mì, thậm chí cả táo khô nữa. Hắn bước thận trọng, cảnh giác có kẻ mai phục. Những tăng đồ có thể đã bị quẫn trí, nhưng thậm chí kẻ điên cũng trỏ nên láu lỉnh một khi bị dồn ép.
Phía trước lối đi rẽ sang bên trái. Hắn ôm lấy bức tường bên phải. Hắn dừng lại để nghe ngóng, tai vểnh lên cố chắt lọc từng tiếng cọ của gót giày. Hắn đẩy cặp kính lồi ngược lên.
Tối đen.
Hắn hạ thấp mái che trên mắt. Lối đi trải dài ra ở phía trước, lộ ra dưới ánh sáng xanh lờ mờ. Hắn sẽ nhìn thấy bất cứ kẻ lẩn quất nào trước khi hắn bị phát hiện. Không có lối thoát. Chúng phải đi qua hắn để tới được lối ra an toàn duy nhất.
Hắn trượt vòng qua góc hầm.
Một kiện cỏ khô nằm lỏng chỏng ngang lối đi cứ y như bị đẩy ra một cách vội vã. Hắn dò tìm dải đường hầm phía trước. Lại thùng. Trên mái treo lủng lẳng những bó cành cây khô.
Không có vật gì đó chuyển động. Không một chút âm thanh.
Hắn chạm phải chân của kiện cỏ và bước quá sang.
Dưới chân, một cành cây giòn gãy tách tách.
Mắt hắn cụp xuống. Toàn bộ sàn được phủ bằng cành cây.
Bẫy.
— Nào!
Hắn ngước mắt lên đúng lúc trên đầu hắn loé lên những tia chớp sáng nhòa. Được khuyếch đại bởi bộ phận cảm ứng của kính lồi, sao băng nổ tung, siết vào gáy hắn, tối sầm.
Camera nhấp nháy
Hắn bắn loạn xạ
Những tiếng nổ chói tai trong căn hầm kín.
Chắc chúng đã nằm đợi sẵn trong tối, lắng nghe, đợi cho tới khi hắn bước lên cành cây khô gãy, rồi phục kích hắn. Hắn lùi lại một bước. đứng hờ trên kiện cỏ.
Ngã ra phía sau, hắn bắn phát nữa lên cao.
Một sai lầm.
Lợi dụng cơ hội, kẻ nào đó đã lao vào hắn. Dưới thấp. Đánh hắn vào chân, đẩy hắn đổ lên kiện cỏ. Lưng hắn đập lên sàn đá. Có cái gì đó đâm vào đùi hắn. Hắn quỳ lên, nghe tiếng gằn của kẻ tấn công ở trên người hắn.
— Đi. - Kẻ tấn công kêu lên, ghì thấp cánh tay có súng của hắn xuống. - Nhanh!
Kẻ tấn công nói tiếng Anh. Không phải là một tăng đồ.
Một thân hình thứ hai nhảy qua cả hai, trông bóng mờ vì lúc này hắn đã lấy lại được thị lực. Hắn nghẹ tiếng chân lùi xa về phía cửa lật nhà kho.
— Mẹ kiếp. - Hắn chửi thề.
Hắn nâng người xoay lại, bật tung kẻ trên người hắn như đẩy một con búp bê. Sonnekõnige không như những người khác. Kẻ tấn công bị đập vào tường, nảy ra, và cố nhảy đuổi theo kẻ thoát trước. Nhưng thị lực trở lại rất nhanh, soi rõ bởi ánh sáng lui dần. Giận dữ, hắn tóm lấy cổ chân của kẻ tấn công và lôi lại.
Người đó đạp bằng chân kia trúng khuỷu tay của hắn.
Gầm lên, hắn chọc ngón tay cái vào huyệt phía sau gót chân Asin. Người đó kêu lên. Hắn biết cú chọc xỉa ấy đau thấu tim. Cứ như bị vỡ mắt cá chân. Hắn cầm chân kéo người đó lại.
Khi hắn cố thẳng người, một cú giáng xuống đầu hắn rất mạnh. Sức lực trong người hắn đột nhiên dụi xuống cứ như hắn chỉ là một quả bóng bay. Đùi trên của hắn đau rát. Hắn bị đâm dao. Không phải. Một chiếc xi - lanh thò ra ở chỗ đùi hắn, bị vướng ở chuôi.
Bị tiêm thuốc.
Kẻ tấn công vặn người, thoát ra khỏi nắm tay yếu dần của hắn, lăn lộn để thoát.
Hắn không thể để kẻ đó thoát.
Hắn nâng súng, lúc này nặng như búa, và bắn. Viên đạn nẩy bật khỏi sàn. Sức yếu đi rất nhanh, hắn bắn thêm phát nữa, nhưng kẻ đó đã biến mất.
Hắn nghe thấy cả tiếng chân chạy của kẻ tấn công hắn.
Tay chân nặng nề, hắn đổ sụp xuống gối. Tim đập thình thịch. Một trái tim gấp đôi mức bình thường. Nhưng lại là bình thường đối với một Sonnekõnige.
Hắn hít sâu nhiều lần trong khi sự chuyển hoá đang điều chỉnh.
Sonnekõnige không như những người khác.
Hắn từ từ đứng lên.
Hắn phải làm xong nhiệm vụ.
Chính vì thê mà hắn được sinh ra.
Là để phục vụ.

Painter đóng sập cánh cửa lật.
— Giúp tôi một tay. - Anh nói, tập tễnh bước sang một bên. Cơn đau nhột lên ở chân. Anh chỉ vào đông thùng hàng. - Chất chúng lên cánh cửa lật.
Anh kéo một thùng hàng nằm trên đỉnh. Nặng quá, nó lao xuống sàn, tiếng sắt thép loảng xoảng. Anh kéo nó về phía cửa. Anh không biết có gì bên trong, có điều nó rất nặng, nặng khủng khiếp.
Anh cố nâng cái thùng đặt lên nắp cánh cửa.
Lisa loay hoay với chiếc thứ hai. Anh cùng cô túm chiếc thứ ba.
Cùng nhau họ lôi được cả đống về phía cửa.
— Thêm một cái nữa. - Painter nói.
Lisa nhìn vào đống thùng hàng trên cửa lật. - Không ai có thể qua được đống ấy.
— Một cái nữa. - Painter khẩn khoản, mặt nhăn nhó, thở hổn hển. - Hãy tin tôi.
Hai người cùng kéo chiếc cuối cùng, và nâng nó đặt lên trên tất cả nhũng thùng khác đã xếp đống trên cánh cửa lật.
— Thuốc sẽ làm hắn phải nằm phơi lạnh hàng giờ. - Lisa nói.
Một tiếng súng nổ đáp lại lời nói của cô. Một viên đạn súng trường đã xuyên qua cánh cửa lật chất đầy thùng hàng rồi xuyên thủng mái nhà kho.
— Tôi nghĩ, tôi có một ý kiến nữa. - Painter nói và kéo cô đi.
— Cô cho được tất cả lượng thuốc midazolam…. thuốc an thần ấy vào người hắn chứ?
— Vâng, đúng.
— Thế, làm thế nào?
— Tôi không biết. Nhưng ngay bây giờ, không cần biết.
Painter dẫn cô tới cửa nhà kho đang mở. Xem xét thấy không có kẻ nào khác, họ chạy ra ngoài. Phía bên trái, tất cả chỉ là một đống tro tàn đang bốc khói. Những tàn lửa cuộn bay lên.
Những đám mây màu sám che khuất đỉnh trên đầu.
— Taski đã đúng. - Lisa lẩm bẩm, tay kéo mũ trùm đầu. - Ai?
— Người dẫn đường Sherpa. Cậu ta cảnh báo rằng sẽ có một trận bão nữa ngày hôm nay.
Painter nhìn theo làn khói xoắn bốc lên trời. Những bông tuyết trắng nặng bắt đầu rơi xuống hoà trộn cùng những hạt mưa màu đen của tàn lửa hồng. Lửa và nước đá. Một tượng đài thích hợp cho hàng chục những tăng đồ đã cùng chia sẻ tu viện này.
Khi Painter nhớ lại những con người dịu dàng đã cùng tạo gia đình ở đây, một nỗi giận dữ nổi lên trong người anh. Kẻ nào đã tàn sát các tăng đồ một cách nhẫn tâm như thế?
Anh không có câu trả lời là ai, nhưng anh biết tại sao.
Căn bệnh ở đây.
Có cái gì đó đã sai - và bây giờ có kẻ đang tìm cách để che đậy.
Một tiếng nổ cắt đứt mọi suy nghĩ. Lửa và khói bùng lên từ cửa nhà kho. Một nắp thùng hàng bay ra giữa sân.
Painter chộp lấy cánh tay của Lisa.
— Hắn tự nổ tung người hắn lên? - Lisa hỏi, hoảng hốt nhìn về phía nhà kho.
— Không. Chỉ là cửa sập thôi. Nhanh lên. Lửa sẽ kìm chân hắn.
Painter dẫn đường chạy tắt qua chỗ băng đóng tảng phủ trên mặt, cố tránh những xác dê và xác cừu đã đông cứng. Họ chọn đường dẫn ra cửa bờ rào.
Tuyết rơi dày hơn. May rủi lẫn lộn. Painter mặc mỗi chiếc áo choàng len dày và đi ủng viền lông. Như thế chưa đủ để chống lại trận bão tuyết dữ dội. Nhưng tuyết rơi sẽ giúp che lấp đường đi của họ để không bị phát hiện.
Anh dẫn đường tới một lối mòn đưa ra mặt dốc rồi lại trải xuống vào một khu làng dưới, khu làng mà anh đã tới cách đây mấy ngày.
— Nhìn kìa! - Lisa nói.
Phía dưới, một cột khói cuộn lên trời, một phiên bản nhỏ của cảnh phía sau họ.
— Khu làng… - Painter nắm chặt nắm đấm.
Như vậy, không chỉ có tu viện là đã bị xoá sổ. Cụm túp lều phía dưới kia cũng đã bị giội bom thiêu trụi. Kẻ tấn công không muốn đế lại một nhân chứng nào hết.
Painter lùi lại tránh lối mòn mặt dốc. Lối này lộ lắm.
Con đường chắc chắn đã bị theo dõi, và kẻ khác vẫn còn ở dưới.
Anh rút trở lại đống tàn tro của tu viên.
— Chúng ta phải đi đâu? - Lisa hỏi.
Painter chỉ về phía bên kia của ngọn lửa. - Đến nơi không có người.
— Nhưng, liệu đấy có phải là nơi….?
— Nơi những ánh sáng vừa mới được nhìn thấy. - Anh khẳng định. - Nhưng mảnh đất bị tàn phá cũng đồng thời là nơi ta bị mất. Để tìm chỗ trú. Để ẩn náu và đợi qua cơn bão. Chúng ta sẽ đợi tới khi họ đến điều tra về vụ cháy.
Painter nhìn cột khói đen dày đặc. Cách xa hàng dặm có thể nhìn thấy. Tín hiệu khói, giống như những ông cha người Mỹ xưa của anh đã từng dùng. Nhưng liệu có ai nhìn thấy không? Ánh mắt của anh ngước lên cao, theo những đám mây. Anh như cố nhìn xuyên qua đám mây che khuất kia lên trên nữa. Anh cầu nguyện, mong có ai đó nhận ra mối nguy hiểm này.
Để đến được lúc ấy….
Anh chỉ có một lựa chọn.
— Ta đi, đi.

• 1 giờ 25 phút sáng
Washington, D.C.
Monk đi tắt qua Capitol Plaza tối đen cùng với Kat bên cạnh. Họ cùng sải bước nhanh, bực tức đúng hơn là thông cảm.
— Em thấy mình đợi hơn. - Kat nói. - Còn sớm quá. Điều gì cũng có thể xảy ra.
Monk ngửi thấy mùi hương nhài toát ra từ cơ thể cô. Sau khi nhận được cuộc gọi của Logan Gregory, họ đã cùng tắm chung, vuốt ve nhau trong trong hơi nước và ôm ấp nhau, lần gần gũi cuối cùng. Nhưng sau đó, khi họ lau người và mặc đồ, thực tế lại len vào với từng đường kéo khoá và từng nốt khuy cài. Hiện thực làm nguội đi những dục vọng của họ, lạnh cóng như sương đêm vậy.
Monk liếc nhìn cô.
Kat mặc quần xanh hải quân, áo blouse trắng, và một áo gió có đính biểu tượng hải quân Mỹ. Chuyên nghiệp như bao giờ hết, và mọi thứ bóng lộn như chính đôi giày đen của cô vậy. Trong khi đó, Monk mặc áo Reeboks đen, quần gin sẫm, và một áo len cổ rùa màu cháo hạt mạch, trên đầu đội mũ chơi bóng chày kiểu sư tử con Chicago.
— Đợi đến khi nào em biết chắc chắn. - Kat nói. - Em thích mình giữ im lặng về chuyện có thai.
— Cho đến khi em biết chắc chắn là em có ý gì? Cho đến khi em biết chắc chắn là em có cần có con không à? Cho tới khi em chắc chắn về chúng ta?
Họ đã tranh luận với nhau suốt đường đi từ căn phòng của Kat ở mé Logan Circle, một nhà nghỉ từ thời Victoria chỉ phục vụ nghỉ đêm và ăn sáng, giờ đã được chuyển đổi thành condo, nằm trên đoạn đường đến Capitol. Đêm nay, đoạn đường cuốc bộ ngắn trở nên dài dằng dặc.
— Monk này…
Monk dừng lại. Anh đưa tay cho cô, rồi lại hạ tay xuống. Cô cũng dừng lại.
Anh nhìn thẳng vào mắt cô. - Hãy nói cho anh biết đi, Kat.
— Em muốn biết chắc là đúng có thai không. Em không biết…que thử. Em đợi biết chắc chắn trước khi nói với bất cứ ai. - Đôi mắt cô ánh lên dưới ánh trăng, ngân ngấn.
— Em yêu, chính vì thế ta cần phải cho mọi người biết. - Anh tiến lại gần hơn, đặt một tay lên bụng cô. - Để bảo vệ mầm sống đang lớn lên ở đây.
Cô quay đi, bàn tay anh để lại trên eo của cô. - Thế thì, có thể anh đúng. Công việc của em….có thể bây giờ chưa đúng lúc.
Monk thở dài. - Nếu tất cả bọn trẻ phải sinh ra đúng lúc thì chắc thế giới này đã trống rỗng hơn nhiều.
— Monk, anh không công bằng. Đó không phải là việc của anh.
— Không phải à! Em không nghĩ là nó cũng làm thay đổi cuộc đời của anh sao, những lựa chọn của anh ở đây nữa. Nó làm thay đổi tất cả.
— Chính xác. Đấy là điều làm em sợ nhất. - Cô tựa vào bàn tay anh. Anh ôm cô vào lòng.
— Chúng ta sẽ cùng vượt qua khó khăn này. - Anh thì thầm. - Anh hứa.
— Em vẫn cần phải giữ kín…ít nhất là vài ngày nữa. Em vẫn chưa gặp bác sĩ. Có thể thử nghiệm sẽ sai.
— Em phải cần bao nhiêu lần thử nghiệm?
Cô tựa người vào anh.
— Bao nhiêu?
— Năm. - Cô nói nhỏ. -
— Năm. - Anh không giấu nổi thích thú trong giọng nói.
Cô véo nhẹ vào mạng sườn của Monk. Đaú. - Đừng trêu anh nữa. - Anh nghe thấy tiếng cười dịu dàng trong giọng nói của cô.
Anh ôm cô chặt hơn trong vòng tay của mình. - Tốt. Từ nay nó sẽ là bí mật của em.
Cô quay và hôn anh, không thiết tha, không đằm thắm, chỉ là để cám ơn. Họ tách nhau ra, nhưng những ngón tay vẫn còn đan vào nhau khi họ tiếp tục đi qua khu hàng quán.
Phía trước, đèn sáng trưng, là điểm đến của họ: lâu đài Smithsonian. Những bức tường có lỗ châu mai làm bằng đá thạch anh màu đỏ, những tháp và đỉnh tháp nhọn, sáng lên trong đêm tối, một dấu hiệu lỗi thời cho một thành phố có trật tự vây quanh nó. Trong khi khu nhà trung tâm là cơ sở cho trung tâm thông tin của học viện Smithsonian, thì căn hầm tránh bom cũ đã bị bỏ rơi lại được chuyển đổi thành trung tâm chỉ huy của Sigma, che chở cho lực lượng bí mật những nhà khoa học quân sự của DARPA giữa hàng chục những bảo tàng và trung tâm nghiên cứu khác.
Kat nhẹ nhàng rút những ngón tay của cô ra khỏi những ngón tay của anh khi họ tới gần lâu đài.
Monk nhìn cô, lo lắng vẫn làm anh không yên.
Dù đã đồng ý với nhau, nhưng anh vẫn cảm thấy sự không an toàn dai dẳng trong cách cư xử của cô. Còn điều gì khác nữa ngoài đứa bé?
Tới khi em biết chắc đã.
Chắc cái gì chứ?
Lo lắng cứ làm Monk nôn nao suốt dọc đoạn đường tới những văn phòng bí mật của chỉ huy Sigma. Nhưng khi đã xuống tới nơi, trao đổi ngắn gọn với Logan Gregory, giám đốc tạm thời của Sigma, lại làm tăng thêm những mối lo lắng mới.
— Cơn bão vẫn còn phủ kín khu vực bằng những trận bão từ dội lên qua toàn bộ vịnh Bengal. - Logan giải thích từ sau một cái bàn được sắp xếp cẩn thận. Một dãy những màn hình vô tuyến LCD xếp dọc theo một bức tường. Số liệu vi tính đang hiện ra trên hai chiếc. Một chiếc đang cho biết những thông tin sống động từ một vệ tinh thời tiết trên khu vực châu Á.
Monk chuyển cho Kat một bức ảnh của một trong những hình ảnh mà vệ tinh gửi xuống.
— Hy vọng chúng ta sẽ có thêm những thông tin trước khi mặt trời mọc. - Logan nói tiếp. - Ang Gelu rời đi lúc bình minh ở Nê - pan để chuyển bằng máy bay lên thẳng một số nhân viên y tế lên tu viện. Họ đang có ý định chuyến bay cất cánh trong khoảng lắng giữa những trận bão. Bây giờ còn sớm, ở đấy bây giờ là buổi trưa. Do đó có thể hy vọng chúng ta sẽ sớm có thêm thông tin mới.
Monk liếc nhìn Kat và bắt gặp đôi mắt của cô. Họ đã được thông báo ngắn gọn về cuộc điều tra của giám đốc. Painter Crowe đã mất liên lạc mất ba ngày nay. Qua đôi mắt hốc hác của Logan Gregory người ta biết anh đã mất ngủ suốt thời gian qua. Anh đang mặc bộ cánh màu xanh mọi khi, nhưng khuỷu tay và đầu gối đã nhăn nheo. Thực tế đầu óc anh bù lên do cương vị là chỉ huy thứ hai của Sigma. Mớ tóc màu vàng rơm và thân hình sạm nắng luôn cho anh dáng vẻ trẻ trung, nhưng đêm nay dấu hiệu của bốn mươi năm có dư đã lộ rõ: đôi mắt sưng húp, vẻ xanh xao nhợt nhạt, và vài ba nếp nhăn giữa hai mắt đã hằn sâu như khe núi.
— Gray thế nào nhỉ? - Kat hỏi.
Logan đè phẳng đống tài liệu trên bàn, kẹp chặt, cứ như thể đã giải quyết xong vấn đề trước đó. Vẫn như bao giờ hết, anh thành thạo đảo tập tài liệu thứ hai lên trước và mở ra. - Có một ý định đối với cuộc đời của chỉ huy Pierce cách đây một giờ.
— Sao? - Monk đột ngột đưa người về phía trước. - Vậy, báo cáo thời tiết thế nào?
— Bình tĩnh. Anh ấy an toàn và đang đợi hỗ trợ. - Logan thông báo những điểm sự kiện chính ở Copenhagen, kể cả vụ thoát chết của Gray. - Monk này. Tôi đã thu xếp cho anh đến nhập cùng chỉ huy Pierce. Một máy bay phản lực đang đợi ở Dulles, lịch cất cánh trong vòng chín mươi phút nữa.
Monk phải thừa nhận sự chính xác của Logan. Anh ấy thậm chí không nhìn đồng hồ.
— Đại uý Bryant. - Logan quay về phía Kat. - Trong thời gian đó, tôi muốn giữ cô ở lại đây, chúng ta cùng điều hành tình hình ở Nê - pan. Tôi có những cú điện thoại vào đại sứ quán của ta ở Kathmandu. Tôi muốn sử dụng kinh nghiệm tình báo trong nước và ngoài nước của cô.
— Tất nhiên rồi, thưa anh.
Monk đột nhiên thấy vui. Kat đã vượt qua hàng ngũ lính thường trong ngành tình báo. Cô sẽ là cánh tay phải của Logan trong suốt cuộc khủng hoảng này. Anh rất muốn cô ở lại đây, bao bọc an toàn dưới lâu đài Smithsonian hơn là ra mặt trận. Đó là một điều bót đi nỗi lo lắng.
Anh thấy Kat nhìn anh chăm chú. Có biểu hiện bực bội trong đôi mắt cô, dường như cô đã đọc được suy nghĩ của anh. Anh cố giữ vẻ mặt bình thản, không thay đổi.
Logan đứng lên. - Còn bây giờ, tôi để hai người chuẩn bị. - Anh mở cánh cửa dẫn vào phòng làm việc của anh, và cho họ đi.
Cánh cửa vừa khép lại ở phía sau, Kat đã chộp lấy cánh tay phía trên khuỷu của anh, rất chặt. - Anh đi hướng Đan Mạch à?
— Ừ. Sao?
— Thế còn….? - Cô kéo anh vào phòng thay đồ của phụ nữ. Vào giờ này không có ai. - Thế còn con?
— Anh không hiểu. Thế….?
— Nếu có chuyện gì xảy ra với anh thì sao?
Anh nháy mắt nhìn cô. - Sẽ không có chuyện gì cả.
Cô nâng cánh tay khác của anh lên, để lộ bàn tay giả của anh. - Anh không phải là bất diệt.
Anh hạ cánh tay xuống, che che bàn tay ra sau. Mặt anh nóng lên. - Chỉ là hoạt động trông trẻ thôi mà. Anh sẽ giúp Gray kết thúc công việc ở đó. Ý anh là thậm chí cả việc Rachel về phố nữa. Rất có thể anh sẽ là bà bảo trợ rất nhiệt tình thôi. Sau đó bọn anh sẽ lên chuyến bay đầu tiên trở về đây.
— Nếu công việc thật không quan trọng, hãy để người khác đi thay. Em có thể nói với Logan là em rất cần anh giúp em ở đây.
— Liệu anh ấy có tin không.
— Monk…
— Anh đi đây, Kat. Em là người muốn giữ im lặng về cái thai. Anh muốn hô to lên cho cả thế giới biết. Trong hai cách ấy chúng ta đểu phải làm những nhiệm vụ của mình. Em làm của em. Anh làm của anh. Nhưng hãy tin anh, anh sẽ không phải là kẻ liều lĩnh. - Anh đặt một tay lên bụng cô. - Anh sẽ bảo vệ cái thân xác anh cho cả ba chúng ta.
Cô đặt bàn tay lên tay anh và thở dài. - Ừ, cái thân xác ấy cũng khá hay đấy.
Anh mỉm cười. Cô cũng cười, nhưng anh vẫn thấy mệt mỏi và lo lắng trong đôi mắt của cô. Anh chỉ còn một cách.
Anh cúi xuống, hôn lên môi cô và nói thầm: - Anh hứa.
— Hứa gì anh? - Cô hỏi, hơi kéo người trở lại.
— Mọi thứ. - Anh trả lời rồi hôn cô thắm thiết.
Anh khẳng định điều anh vừa nói.
— Anh có thể nói với Gray. - Cô nói khi cuối cùng hai người đã rời nhau. - Với điều kiện anh phải bắt anh ấy giữ bí mật.
— Thật không? - Đôi mắt anh sáng lên, rồi lại cụp xuống ngờ vực. - Tại sao?
Cô bước vòng qua anh để đến trước gương, bàn tay đập vào lưng anh. - Em muốn anh ấy cũng trông chừng cái thân xác của anh nữa.
— Thế thì được. Nhưng anh không nghĩ anh ấy làm được như thế.
Cô lắc đầu rồi kiểm tra mặt mình trong gương. - Em sẽ phải làm gì với anh nhỉ?
Anh bước lên phía sau cô rồi vòng tay ôm eo cô.
— Nhưng theo ông Gregory anh có những chín mươi phút cơ mà.

• 12 giờ 15 phút chiều
Himalayas
Lisa trườn theo Painter
Với kĩ năng của một con dê núi, anh dẫn đường xuống một cái hố dốc, hình cái mũ và rất nguy hiểm với những đá phiến xét cứng băng. Tuyết rơi dày trên đầu họ, mây vần vũ, đảo lộn đã làm giảm tầm nhìn xuống còn chỉ vài bộ, tạo nên một thứ hoàng hôn màu xám lạ kì. Nhưng ít nhất họ cũng đã qua được những trận gió băng tồi tệ nhất. Cái khe núi mà họ đang vất vả xuống lại theo hướng ngược lại với hướng gió.
Dù sao cũng không thể thoát được cái lạnh khắc nghiệt vì nhiệt độ tụt rất nhanh. Tuy đã mặc áo chống gió và đi găng tay, cô cứ run lên cầm cập. Dù họ mới đi chưa đầy một tiếng đồng hồ, cái nóng của tu viện cháy chỉ còn lại là một ki niệm xa xôi mà thôi. Chút da mặt lộ trần có cảm giác bị gió quất rộp và chà xát tê buốt.
Painter còn tồi tệ hơn nhiều. Anh đã mặc một chiếc quần dày và một cái áo len lấy được của một tăng đổ đã chết. Nhưng anh không có mũ, mà lại chỉ có một cái khăn quấn che mặt. Hơi thở của anh trắng xoá không gian khắc nghiệt
Họ phải tìm chỗ náu.
Và phải khẩn trương.
Painter đưa tay cho cô khi cô ngã ngồi trượt trên mông xuôi theo đoạn khá dốc, và giữ lại được bên anh. Họ đã tới được chân của hẻm núi. Nó mở rộng ra xa, hai bên chắn bởi những bức tường dốc.
Tuyết đã dày tới mắt cá chân ở chân hẻm.
Không có giày đi tuyết, rất khó có thể di chuyển được.
Dường như đọc được suy nghĩ của cô, Painter chỉ về một phía của lối đi hẹp. Đá đua ra tạo nên mái che chắn. Họ hướng về phía đó, lê bước qua lớp tuyết rơi.
Khi đã tới được chỗ mái, mọi việc trở nên dễ dàng hơn.
Cô liếc nhìn về phía sau. Bước chân của họ đang được lấp đầy bởi tuyết. Chỉ vài phút thôi cả người họ sẽ bị vùi luôn trong tuyết. Dù rõ ràng nó đã giúp che giấu được đường đi của họ khỏi bị kẻ truy tìm phát hiện, nó vẫn làm cô thấy nản lòng. Cứ như chính sự tồn tại của họ đang bị xoá bỏ vậy.
Cô quay lại. - Anh có biết mình đang đi đâu không? - Cô hỏi. Cô thấy mình nói không ra lời, không phải vì sợ làm lộ vị trí của mình, mà đúng hơn cô sợ tiếng gió rít phủ dày của bão tuyết.
— Trơ trụi. - Painter nói. - Nhũng vùng biên giới này là những vùng miền không có trong bản đồ. Nhiều nơi chưa có dấu chân người. - Anh vung tay. - Lần đầu tiên tôi đến đây, tôi đã nghiên cứu một số ảnh khảo sát vệ tinh. Nhưng những ảnh vệ tinh đó không có tác dụng sử dụng lắm. Vùng đất bị biến dạng quá nhiều. Làm khảo sát rất khó.
Họ tiếp tục im lặng
Rồi Painter liếc nhìn về phía cô. - Cô còn nhớ hồi năm 1999, họ đã phát hiện ra Shangri - La ở đây.
Lisa nhìn anh thăm dò. Cô không biết có phải anh đang cười thầm dưới chiếc khăn quàng, cố làm dịu đi nỗi lo lắng trong cô. - Shangri - La… như trong Chân trời xa thẳm. - Cô nhớ lại bộ phim và cả cuốn sách. Một thiên đường không tưởng đã bị mất đúng lúc ở trên dãy Himalayas.
Xoay người anh nặng nề lê bước và giải thích. - Có hai nhà thám hiểm địa lý đã phát hiện ra một hố sâu khủng khiếp trên dãy Himalayas, vài trăm dặm cách đây về phía Nam, khuất trong một mũi núi, và không xuất hiện trên bản đồ vệ tinh. Ở đây là một thiên đường cận nhiệt đới. Những thác nước, thông và phi lao, những cánh đồng cỏ mọc đầy những cây đỗ quyên, những dòng suối viền quanh là những cây độc cần và cây vân sam gọn gàng, ngay ngắn. Một phong cảnh vườn hoang dã, tràn đầy sức sống, và vây quanh ở mọi phía là băng tuyết.
— Shangri - La?
Anh nhún vai. - Chỉ để cho cô thấy rằng khoa học và vệ tinh không thể làm lộ ra được cái mà thế giới muốn che giấu.
Đến giờ thì hai hàm răng của anh đang run lên cầm cập. Thậm chí hành động nói thôi cũng đang làm mất hơi và nhiệt. Họ cần phải tìm lấy một Shangi - La của riêng mình.
Họ lại tiếp tục im lặng. Tuyết rơi dày hơn.
Chừng mười phút sau, hẻm núi rẽ sang một bên hơi đột ngột. Tới góc thì mái núi đưa ra bảo vệ không còn nữa.
Họ dừng lại, nhìn chăm chú và thất vọng.
Hẻm núi chạy xuống dốc hẳn so với chỗ họ đang đứng, mở rộng ra. Một lớp màn tuyết rơi trên đầu họ như muốn lấp đầy thế giới này. Qua những đợt gió chốc lát, họ nhìn thấy thấp thoáng một thung lũng sâu.
Không phải là một Shangri - La.
Phía trước, trải dài là một loạt những mặt dát đá lởm chỏm, băng tuyết phủ, dốc không thể đi lại được nếu như không có dây. Một dòng nước chảy qua phong cảnh dốc thẳng đứng của một loạt những thác nước - dòng chảy bị đóng băng lại.
Bên kia, trong màn sương tuyết và băng giá, là một hẻm sâu; từ đây nhìn ra không trông thấy đáy. Tận cùng của thế giới.
— Ta phải tìm đường xuống. - Painter nói.
Anh lại chui đầu vào hàm của bão một lần nữa. Tuyết nhanh chóng lấp tới mắt cá chân, rồi tới giữa bắp chân. Painter rẽ một lối đi cho cô.
— Đợi đã. - Cô nói. Cô biết anh không còn trụ lâu được nữa. Anh đã đưa cô tới tận đây, nhưng họ không đủ trang bị để đi thêm được nữa. - Lại đây.
Cô dẫn anh tới bức tường đá dốc đứng. Phía sát tường được che chắn chút ít.
— Đâu? - Anh cố hỏi, nhưng hàm răng đã để tuột hết lời của anh.
Cô chỉ về nơi dòng suối đã bị đóng băng đổ qua vách đá thẳng đứng ở trên đầu. Taski Sherpa đã dạy cho họ những kĩ năng sống ở trên cao như ở đây. Một trong những bài học khắt khe nhất của ông. Tìm chỗ trú.
Cô nhớ như in năm chỗ tốt nhất để tìm
Lisa rẽ sang nơi thác nước đã đóng băng gặp mặt đáy. Như đã được chỉ dẫn, cô tìm nơi đá đen gặp băng trắng xanh. Theo người chỉ dẫn, mùa hè tuyết tan biến các thác nước trên dãy Himalayas thành những dòng chảy mạnh có khả năng khoét thành những hố sâu vào trong đá. Đến cuối hè, dòng nước rút và đóng băng, thường để lại những khoảng trông phía sau nó.
Cô thấy nhẹ người vì cô biết thác nước này cũng không là ngoại lệ.
Cô gửi lời cầu nguyện cám ơn tới Taski và tất cả tổ tiên của ông.
Dùng khuỷu tay, cô đập vỡ tảng sương giá và mở rộng một khoảng trống đen giữa băng và bức tường. Một cái hang nhỏ mở ra ở phía bên kia.
Painter cùng làm với cô. - Hãy để tôi xem nó có chắc chắn không.
Anh lật người sang bên, và lách trườn vào, biến mất. Một lát sau, một tia sáng nhỏ loé lên, chiếu sáng cả thác nước.
Lisa nhòm qua khe vỡ. Painter đang đứng cách vài bước, tay đang cầm ngọn đèn nhỏ. Anh quét ngọn đèn xung quanh cái hốc nhỏ. - Xem có vẻ an toàn đấy. Chúng ta có thể trú tránh bão ở đây trong một thời gian.
Lisa cố đẩy người qua để vào cùng với anh. Tránh được gió và tuyết, cảm thấy ấm hơn.
Painter bật tắt ngọn đèn. Ánh sáng thực sự không cần thiết. Bức tường băng dường như đã tập hợp được tất cả những ánh sáng ban ngày mà cơn bão đã cho lọt qua và khuyếch đại nó. Bức tường băng lấp lánh chiếu sáng.
Painter quay về phía cô, mắt anh xanh một cách đặc biệt, ánh lên sáng tựa bức tường băng. Cô tìm trên khuôn mặt anh xem có dấu vết của sương muối. Gió chà xát đã biến da anh đổi màu xám xịt. Cô nhận ra cái di sản Mỹ chính gốc của anh trên khuôn mặt anh. Nổi bật cặp mắt xanh của anh.
— Cảm ơn. - Painter nói. - Cô đã vừa cứu được sinh mạng của hai ta đấy.
Cô nhún vai, liếc nhìn đi chỗ khác. - Em còn mang ơn anh ấy chứ.
Tuy vậy, dù cô đã nói ra những lòi từ chối, nhưng lòng cô vẫn ấm lên trước những lời ngưỡng mộ của anh - hơn những gì cô mong đợi;
— Làm sao mà cô biết được cách tìm? - Lời của Painter bị chìm đi trong tiếng hắt hơi. - Wao.
Lisa lắc vai để tháo đồ. - Hỏi đủ rồi đấy. Chúng ta cần phải sưởi ấm.
Cô mở đồ y tế và lấy ra một chiếc chăn ấm MPI. Dù mỏng nhưng sợi hấp thụ nhiệt có thể giữ được chín mươi phần trăm nhiệt cơ thể phát ra. Với lại cô không chỉ dựa vào nhiệt cơ thể.
Cô kéo ra một cái máy đốt nóng bằng xúc tác nhỏ gọn, đồ nghề sống còn khi trèo núi.
— Ngồi. - Cô ra lệnh cho Painter khi đang trải chăn trên mặt hòn đá lạnh.
Mệt mỏi đến kiệt sức, cô không tranh luận gì hết.
Cô ngồi xuống cạnh anh và cuộn chăn lên cả hái tạo nên một cái tổ kén. Đã nằm gọn trong chăn, cô bật nút điện tử của chiếc máy sưởi Coleman Sport Cat. Công cụ không lửa này hoạt động dựa trên một chiếc xi - lanh nhỏ đựng khí bu - tan có thể chạy được mười bốn tiếng, sử dụng tằn tiện, lúc tắt lúc bật, cùng với chăn họ có thể kéo dài được hai, ba ngày.
Painter run lên bên cạnh cô, khi máy sưởi ấm lên.
— Tháo ủng và găng tay ra. - Cô nói và cùng làm. - Hơ ấm tay trên máy sưởi rồi xoa ngón tay, ngón chân, mũi và tai.
— Để chống… sương giá…
Cô gật đầu. - Xếp đống quần áo giữa anh và đá lạnh để hạn chế mất nhiệt.
Họ tháo quần áo và xây tổ bằng tư trang và len dạ.
Lúc sau, chỗ của họ cảm thấy hầu như rất dễ chịu.
— Tôi có được mấy thanh năng lượng đây. - Cô nói. - Chúng ta có thể làm tan tuyết để lấy nước.
— Một người thường xuyên phải chống chọi để tồn tại trong rừng sâu. - Painter nói, giọng đã vững hơn, sự lạc quan đã trỏ lại khi họ đã ấm lên.
— Nhưng tất cả những cái này không thể ngăn được đạn.
— Cô nói, ngước lên nhìn anh. Dưới chăn, hai khuôn mặt gần áp vào nhau.
Painter gật đầu và thở dài. Họ đã qua được cơn lạnh, song chưa qua được cơn nguy hiểm. Cơn bão, vốn là một mối đe dọa, vẫn có tác dụng bảo vệ nhất định. Nhưng rồi sau đó thì sao? Họ không có phương tiện liên lạc. Không có vũ khí.
— Chúng ta sẽ tiếp tục náu mình. - Painter nói. - Kẻ đánh bom tu viện sẽ không thể lần tìm được chúng ta. Những người tìm cứu chúng ta sẽ đến khi bão tan. Hy vọng là có máy bay cứu nạn. Chúng ta sẽ làm tín hiệu cho họ bằng pháo sáng mà tôi đã nhìn thấy trong túi đồ cấp cứu của cô.
— Và chỉ cần hy vọng là những người cứu nạn sẽ đến được với chúng ta trước những kẻ khác.
Anh với tay ôm ghì lấy gối cô. Điều cô rất thích ở anh là anh không nói một lời động viên giả dối nào. Không quá lạc quan trong tình cảnh của họ. Cô đưa tay lần tìm tay anh và nắm chặt. Chỉ cần thế cô đã thấy được động viên lắm rồi.
Họ ngồi im, đuổi theo suy nghĩ của riêng mình.
— Anh cho rằng ai đã làm những điều đó? - Cuối cùng cô nhẹ nhàng hỏi.
— Không biết nữa. Nhưng khi tôi đánh nó tôi nghe nó chửi thề. Bằng tiếng Đức. Có cảm giác như đập vào cái thùng xăng.
— Tiếng Đức? Anh không nhầm chứ?
— Tôi cũng không chắc chắn lắm. Rất có thể là một lính đánh thuê. Rõ ràng hắn được huấn luyện quân sự chút ít.
— Đợi đã. - Lisa nói. Cô cựa xoay người để lấy túi đồ. - Máy ảnh của tôi.
Painter ngồi thẳng lên, làm một góc chăn bị hở. Anh nhét kĩ mép chăn. - Cô nghĩ cô chụp được ảnh nó.
— Để hoạt động đèn lấp loé, tôi đặt camera ở tình trạng chụp liên tục. Ở tình trạng ấy, máy số SLR có thể chụp được năm hình trong một giây. Tôi chưa nghĩ đến điều gì sẽ xảy ra nếu bị bắt. - Cô vặn xoay người, ngón tay ấn trên máy.
Hai vai kể nhau, họ chăm chú theo dõi màn hình LCD nhỏ xíu nằm ở phía sau thân máy. Cô cho hiện những ảnh chụp cuối cùng: kẻ ám sát giật mình, tay giơ lên một cách bản năng để che đôi mắt, khẩu súng của hắn khi cô né để nhào qua, Painter lao vào hắn.
Một số ảnh chụp có được chút ít về khuôn mặt của hắn. Gép các hình rời rạc đó lại với nhau, ta có được một ảnh ghép: tóc vàng trắng, trán thô, hàm nhô. Bức ảnh cuối chắc chắn được chụp khi cô nhảy qua Painter và tên sát nhân đó.
Cô ghi lại được hình cận cảnh của đôi mắt, cặp kính lồi lật sang một bên tai. Giận dữ, và một sự hoang dại nổi lên bởi những con ngươi của cặp mắt đỏ ngầu hiện lên trong ánh đèn máy ảnh.
Lisa lướt ngược lại tới Relu Na, người họ hàng xa của Ang Gelu, kẻ đã tấn công họ bằng một cái liềm. Đôi mắt của vị tăng đồ điên loạn sáng lên tương tự. Một cảm giác ớn lạnh không phải là đo trời lạnh, tràn khắp da thịt cô.
Cô còn nhận ra được một điểm nữa về đôi mắt đó.
Chúng không đều nhau.
Một mắt ánh lên màu xanh bắc cực long lanh
Còn mắt kia trắng bệch như chết.
Có thể nó chỉ là một ánh sáng loé lên rồi tắt
Lisa nhấn mũi tên trở lại và các bức ảnh trở lại từ đầu. Cô chạy vượt qua và cho hiện lên bức ảnh cuối cùng còn lưu lại trong camera trước chuỗi ảnh chụp được ở hầm. Nó là bức ảnh của một bức tường được vẽ nguyệch ngoạc bằng máu. Cô quên là đã chụp được nó.
— Cái gì thế. - Painter hỏi
Cô đã kể câu chuyện buồn về vị đứng đầu tu viện, Lama Khemsar. - Đấy là những gì vị sư già này viết lên tường. Nó trông giống như những chuỗi giống nhau của các dấu hiệu. Lặp đi lặp lại.
Painter đưa người sang. - Cô cho hiện cận cảnh được không?
Cô bấm máy cho nổi lên. Cho dù không còn được rõ ràng và nét như trước.
Lông mày của Painter nhíu lại. - Nó không phải là ngôn ngữ Tibet hay ngôn ngữ Nê - pan. Hãy xem các góc của nét chữ. Nó trông giống như chữ Run [4] của các dân tộc Bắc Âu hoặc đại loại như vậy.
(Chữ viết cổ ở Bắc Âu khoảng thế kỷ thứ II)

— Anh nghĩ thế à?
— Có thể. - Painter ngả ra sau, kêu lên mệt mỏi. - Dù là gì thì nét chữ cũng làm ta phân vân liệu Lama Khemsar còn biết nhiều hơn thế không.
Lisa nhớ lại điều gì đó mà cô vẫn chưa cho Painter biết. - Sau khi vị sư già cắt cổ mình, ta thấy có một biểu tượng khắc vào ngực. Em đã bỏ qua cho là do tình cờ hoặc điên loạn. Nhưng bây giờ thì em không chắc lắm.
— Nó trông thế nào? Cô thử vẽ xem nào.
— Không cần thiết. Nó là một chữ thập ngoặc.
Cặp mi của Painter giương lên. - Một chữ thập ngoặc?
— Em nghĩ là thế. Có thể lúc ấy ông ta đang nghĩ về một thời kì quá khứ, cô thể hiện ra cái đã làm ông sợ hãi?
Lisa kể lại câu chuyện của người em họ của Ang Gelu. Việc Relu Na đã bỏ chạy khỏi bọn nổi loạn, bị trấn thương bởi tính tàn bạo ngày càng tăng của chúng khi chúng dùng liềm chặt những cánh tay của những người nông dân vô tội. Sau đó Relu Na cũng làm như vậy, khi bệnh tật đã hút hết sự tỉnh táo trong con người anh ta, cố thể hiện một sự tổn thương đã bén rễ từ lâu.
Painter cau mày khi cô kể xong. - Lama Khemsar đang ở khoảng giữa cái tuổi bảy mươi của mình. Như vậy trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai ông ta đang ở đầu tuổi teen. Vậy thì có khả năng lắm. Bọn Đức quốc xã đã đưa đoàn nghiên cứu của mình lên Himalayas.
— Lên đây? Tại sao?
Painter nhún vai. - Câu chuyện là như thế này, Heinrich Himmler, kẻ đứng đầu tổ chức S.S, gắn bó sâu sắc với những điều huyền bí. Hắn nghiên cứu những văn bản kinh Vệ đà cổ của Ấn Độ, có niên đại cách đây hàng nghìn năm. Hắn tin rằng những nơi rừng núi như thế này đã từng là nơi sinh ra của bộ lạc người Aryan chính gốc. Hắn đưa người đến để tìm bằng chứng. Dĩ nhiên, chỉ một chút nữa là hắn đã đạt được cái hạnh phúc đó
Lisa mỉm cười nhìn anh. - Thế thì, có thể cái lão Lama già ấy đã có chân ở một trong những cuộc viễn chinh này. Được thuê làm người dẫn đường, hoặc đại loại thế.
— Có thể. Chúng ta không thể biết được. Bí mật nào thì bây giờ cũng chết cùng ông ta rồi.
— Có thể không. Có thể đấy là cái ông ta đang cố gắng làm trên phòng của ông ta. xả ra những cái gì đó khủng khiếp. Vô thức của ông đang cố gắng giải phóng cho nó bằng cách phát lộ ra những gì mà ông biết.
— Cả một lô những cái có thể. - Painter gãi trán, rụt rè.
— Tôi còn có một cái nữa. Có thể nó chỉ là tiếng lắp bắp mà thôi.
Lisa không tranh luận về điều này. Cô thở dài, mệt mỏi khi thấy cái hưng phấn của cuộc chạy trốn của hai người đang bị cạn kiệt dần. - Cô đủ ấm chứ?
— Ấm, cảm ơn anh.
Cô tắt máy sưởi.
— Cần phải giữ khí Bu - tan.
Anh gật đầu, không kịp che cái ngáp đến sái hàm.
— Chúng ta cần cố ngủ một chút. - Cô nói. - Theo ca nhé?
Nhiều tiếng đồng hồ sau Painter thức giấc, có ai đó lắc lắc nhẹ vào vai anh. Anh ngồi lên ngay ở chỗ anh đã dựa lưng vào tường để ngủ. Tối như bưng. Bức tường băng trước mặt anh tối đen như hòn đá vậy.
Ít nhất cơn bão có vẻ như đã tắt.
— Có chuyện gì vậy? - Anh hỏi.
Lisa bỏ rơi một đầu chăn.
Cô giơ cánh tay chỉ và thầm thì: - Hãy đợi đã.
Anh nhích gần lại, tỉnh táo hơn. Anh đợi độ nửa phút, vẫn không có gì. Cơn bão rõ ràng đã dịu. Gió không còn rít nữa. Cách hang của họ một chút cái im lặng trong suốt của mùa đông đã tràn về trên thung lũng và mặt đá. Anh cố căng tai để nghe có điều gì đáng nghi không.
Có cái gì đó rõ ràng đã làm cho Lisa sợ.
Anh cảm nhận thấy nỗi sợ hãi của cô. Nó như đang tràn ra khỏi cái cơ thể căng thẳng của cô.
— Lisa, có chuyện ?
Đột nhiên cả bức tường băng lung linh sáng chói, dường như có pháo hoa đã thắp sáng lên cả bầu trời bên ngoài. Không có tiếng động. Ánh sáng chiếu long lanh giội lên dọc theo thác nước và phía xa xa. Rồi băng lại trở nên tối đen.
— Ánh sáng ma quái… - Lisa quay về phía anh thầm thì.
Painter nhớ lại cách đây ba đêm. Khi điều này xảy ra.
Bệnh tật ở trong làng, sự điên loạn ở tu viện. Rồi anh nhớ lại lời đánh giá của Lisa. Trạng thái ở gần những ánh sáng kì lạ có liên quan trực tiếp đến tính nghiêm trọng của triệu chứng.
Còn bây giờ họ đang ở ngay trong trung tâm của vùng đất gở đó.
Gần hơn bao giờ hết.
Khi Painter quan sát, cái thác nước đóng băng lại bùng sáng lên một lần nữa chói chang và chết chóc. Cái ánh sáng ma quái đã quay trở lại.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Trật Tự Đen (A Sigma Force #3).