XI - Chương 1


Số từ: 14406
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Tôi không có mặt ở Moçambique vào ngày tháng Tám ấy, khi chiếc tàu chở hàng Hy Lạp hạ chiếc pop-top màu vàng xuống rìa bến cảng ở Lourenço Marques, nhưng sau này tôi đã được nghe kể về phản ứng của mỗi người mới đến.
Cato, ngay khi đặt chân lên bờ, bèn quỳ xuống hôn lên mặt đá. Khi những người khác phát biểu họ không ngờ cậu nghĩ đến châu Phi nhiều như vậy thì cậu nói,
Tôi tỏ lòng kính trọng những nô lệ da đen mang nặng xiềng xích đã bị bán đi từ cảng này.

Monica ngẩng mái đầu đen nhánh lên để cảm nhận làn gió cuối đông dịu dàng ấm áp. Cô ngắm nhìn cây cối đang ra hoa sắp đâm chồi nảy lộc, rồi quan sát đám người muôn hình muôn vẻ xung quanh - người Phi, người Bồ Đào Nha, người Ấn Độ, người Trung Quốc, người Hy Lạp, người Rhodesia - và run rẩy. Đây vẫn là châu Phi quen thuộc, bao la và không khoan dung, và nơi này vẫn đè nặng lên cô như tự bao giờ.
Joe chỉ chăm chú nhìn. Bến tàu hiện đại hơn anh tưởng. Sự hiện diện của một đoàn tàu hỏa chạy xình xịch khiến anh bối rối không kém gì trước con tàu chở hàng hiện đại và những chiếc taxi hiệu Mercedes-Benz. Những gì anh có thể nhìn thấy ở thành phố bao quanh trông đều giống như ở châu Âu.
Qua những gì đã biết thì đây không phải thứ tôi trông đợi,
anh phát biểu.
Về phần Gretchen, cô say sưa trước vẻ đẹp kỳ lạ nơi đây và nói với các bạn,
Ở Pamplona chúng ta đã quyết định thật sáng suốt.

Gretchen muốn cầm lái, nhưng trên đường vào thành phố cô thấy khó mà cứ đi bên trái, và nó còn khiến cô không thể ngắm nhìn thỏa thích quang cảnh Lourenço Marques. Các bạn khác cho rằng đây là một trong những thủ đô đẹp nhất họ từng đến. Đại lộ thì rộng rãi và chạy thẳng vào sâu trong nội địa, nhà cửa hai bên đều sạch sẽ và kiên cố. Joe cố gắng chỉ đường cho cô dựa trên tấm bản đồ anh đã lấy trên tàu, hướng dẫn cô đi qua khu dân cư đến các khách sạn sang trọng, những công trình kiến trúc đồ sộ rất giống ở Nice hay Cannes, mỗi công trình đều có bể bơi và sân quần vợt riêng.

Tôi vẫn đang cố thuyết phục mình đây là châu Phi,
Cato nói.
Lúc này họ đã đi vào một mạng lưới đường siêu cao tốc bê tông rồi lại chật vật thoát ra, nhưng phía trước họ đã nhìn thấy tấm biển làm những người lái xe hơi ở châu Âu và châu Phi an lòng hẳn: Khu cắm trại. Ngoặt khỏi đường, Gretchen cho xe dừng lại trước một văn phòng xung quanh trồng nhiều hoa và hỏi,
Đây có phải nơi đăng ký không?


Hộ chiếu của các vị,
anh nhân viên Bồ Đào Nha nói. Rồi anh nâng rào chắn lên cho họ bước vào một nơi sẽ được họ ghi nhớ như màn làm quen thiện chí nhất với một châu lục mới.
Sau này, khi tôi bắt kịp họ, Gretchen kể,
Nó nằm ngay bên bờ Ấn Độ Dương nên buổi sáng khi thức dậy người ta sẽ được ngắm mặt trời nhô lên khỏi mặt nước, và ban đêm khi đi ngủ, người ta có thể nhìn thấy ánh đèn trên các con tàu đi ngang qua. Phi lao mọc khắp nơi và hoa nhiều đến nỗi khu này chắc phải do các nhà làm vườn quản lý.
Ra ra vào vào giữa đám cây cối quanh co là một mạng đường lát, với những điểm đậu xe không ai ngờ. Chúng cháu chọn một chỗ đẹp. Chúng cháu có thể nhìn thấy một cụm đảo xa. Thế mà tất cả chưa đến một đô la một ngày.


Bạn ấy còn chưa kể đến phần thú vị nhất,
Monica nói.
Chúng cháu đang đứng dựa vào pop-top thì từ trên cây trèo xuống một bầy khỉ đã thuần, chí chóe về những vấn đề cục bộ và xin ăn. Chúng thật lạ thường, từ khỉ ông cho đến khỉ cháu, nếu chúng cháu không cho chúng ăn, chúng sẽ leo lên cao ngoài tầm với mà chửi bới chúng cháu, nhưng nếu chúng cháu có đồ ăn chúng sẽ đến gần hơn và nịnh nọt thái quá. Chúng cháu gọi chúng là ủy ban đón tiếp đấy.


Phần cháu thích nhất,
Gretchen kể tiếp,
là các căn nhà tròn. Nếu rời khỏi phần đất cắm trại dành cho xe moóc, ta sẽ đến một khu san sát những túp lều nhỏ hình tròn, mỗi túp sơn một màu. Chúng được làm theo mẫu nhà châu Phi ngày xưa, và nếu đã chán ngủ trên xe, người ta có thể thuê một căn nhà tròn. Rất tuyệt.

Sau này tôi được biết các căn nhà tròn ấy đã gây chút khó xử vì sau hai đêm họ ngủ trên xe, Joe gợi ý là họ cần thêm chỗ, vậy là họ đến văn phòng, và nhân viên ở đó xem hộ chiếu thấy họ không phải là vợ chồng bèn tế nhị đùa rằng sẽ tìm một căn màu hồng cho hai cô gái và một căn màu xanh cho hai chàng trai. Gretchen định cho anh ta biết là họ không có ý như vậy nhưng Monica đã nói chen vào,
Thế thì tốt.

Khi nhân viên này đi khỏi, Cato và Monica chuyển vào căn nhà màu hồng, để Joe và một cô Gretchen ngượng nghịu đứng trước căn màu xanh, lúng túng không biết phải làm gì tiếp theo. Trên con tàu Hy Lạp, cuộc sống rất đơn giản. Vì kế hoạch ban đầu là nhóm có năm người nên họ đã đặt trước ba phòng, và vì Britta ở lại không đi cho nên, khi Cato và Monica sử dụng một phòng, Gretchen một, và Joe một âu cũng là chuyện hợp lẽ. Như vậy không ai thấy khó xử vì mọi người đều nhận ra Gretchen gắn bó theo lối chẳng rõ ràng với Clive, do đó Joe chỉ chú ý đến cô một cách bình thường trong suốt cuộc hành trình dài và cậu cảm thấy mình không thích mà cũng không có nhiệm vụ phải làm hơn thế. Hai đêm ngủ trên bờ không thành vấn đề vì mọi người đều đã quen với chỗ ăn ở chật chội trong chiếc pop-top và không coi đó như lời mời quan hệ tình cảm mật thiết.
Nhưng bây giờ có vẻ như Joe và Gretchen phải sử dụng chung căn nhà tròn màu xanh với chiếc giường đôi, nên Gretchen rụt lại. Bối rối thấy rõ, cô bước tới cửa lều và nói khe khẽ,
Anh ra lấy đồ của em trên chiếc Volkswagen mang vào đây có phải tốt hơn không?

Joe hỏi,
Đồ của em?
và cô gật đầu. Khi đã giao đồ xong và một mình quay lại chiếc pop-top, anh lẩm bẩm,
Thế mà chính mình lại là người đề xuất việc thuê nhà tròn đấy.

Chiều ngày thứ ba Gretchen tuyên bố khiến mọi người đều ngạc nhiên,
Tôi sẽ đãi các bạn bữa tối ở Trianon.
Vậy là đêm đó Cato diện thật bảnh và hai cô gái mặc chiếc váy ngắn đẹp nhất, còn Joe vẫn xuất hiện với bộ quần áo thường ngày. Cả ba đồng thanh
Ôi người anh em!
rồi bắt anh cởi chiếc quần Levis và áo khoác da cừu, nhưng anh nhất định không chịu bỏ đôi giày cao cổ, song với chiếc quần bình thường, sơ mi, cà vạt cùng áo blazer, trông anh cũng không đến nỗi nào.
Khi họ nối đuôi nhau vào phòng ăn sang trọng, mọi người đều nhìn họ chằm chằm - phần vì hai chiếc váy quá ngắn, phần vì râu tóc bờm xờm của Joe, nhưng chủ yếu vì Cato rõ ràng là bồ bịch của một cô gái da trắng. Chẳng may họ lại bị xếp ngồi gần bàn một cặp vợ chồng Boer[100] kiêu ngạo từ Nam Phi tới, những người cực kỳ bi quan về mọi chuyện trên đời và làu bàu nghe rất rõ về chuyện bọn mọi đen phải bị cấm cửa ở những nơi tử tế.
Trước sự khiêu khích ấy, Cato và Monica hết sức khó chịu.
Phiền anh,
Cato kiêu kỳ nói với anh bồi bàn trưởng,
gọi cho chúng tôi tiếp viên rượu.
Khi tiếp viên rượu tới, Cato hỏi lớn tiếng hơn cần thiết,
Anh có Burgundy trắng thật ngon không... có thể là một chai Chablis?
Cậu gõ gõ râu, nói giọng tự tin,
Nhưng phải rất nguyên chất... thực sự nguyên chất đấy.

Đến lúc này thì anh bồi bàn trưởng bắt đầu phao tin,
Ông ta là một quan chức lỗi lạc của Liên Hiệp Quốc,
vậy là Monica liền nói với giọng rành rọt,
Chẳng phải thật buồn cười sao khi trên khắp thế giới mọi người cứ dùng Liên Hiệp Quốc như lý do bào chữa cho việc bị bắt buộc phải làm những gì họ nên làm từ năm mươi năm trước?

Rượu ra, Cato mới bắt đầu diễn trò thực sự. Anh nhấc cốc rượu để nếm thử lên, soi trước ánh đèn, thận trọng nhấp một chút, súc miệng, rồi cố tình nhổ ra một cái cốc khác. Sau đó, với vẻ mặt trầm ngâm, anh ngả người ra sau và phát biểu, đủ lớn tiếng để cặp vợ chồng Boer nghe rõ,
Có vị gì đó... vị gì đó.
Anh gọi một miếng bánh mì, nhai chậm rãi và nuốt. Chỉ đến lúc đó anh mới thử một lần nữa, nhấm nháp như người sành rượu, cuối cùng nuốt ực một cái.
Rất chuẩn,
Cato nói vẻ sáng suốt.
Anh có thể rót được rồi.

Vào đến bếp, anh bồi bàn trưởng nói,
Cái con khỉ chết tiệt ấy sành rượu thật. Chắc vợ hắn phải là triệu phú,
nhưng người đàn ông Boer lại thầm thì với vợ,
Anh mong thằng ấy giở trò đó ra với anh... chỉ một lần thôi. Anh sẽ vặn cổ hắn,
còn Cato nói thầm với Gretchen,
Anh hy vọng em có đủ tiền để trả cho chai rượu này... bất kể nó là rượu chết tiệt gì đi nữa.
Monica kết thúc màn kịch bằng cách nói rõ to để mấy bàn xung quanh đều nghe được,
Chú hề của em. Chú hề xấu xa, tuyệt vời của em.

Ở bàn khác một cặp vợ chồng dáng vẻ đặc biệt - người đàn ông thì tóc bạc, hàng ria xén tỉa cẩn thận, người đàn bà tóc có ánh xanh và cổ áo đăng ten mềm mại - không rời mắt khỏi Cato, chẳng tỏ ra thích thú trước trò hề của anh mà cũng không tức giận sự kiêu căng của anh, có vẻ như họ biết anh, nên sau khi rượu đã được rót, họ nhờ bồi bàn chuyển tới một bức thư ngắn. Tờ giấy không phải gửi cho Cato mà là cho cô gái trẻ mặc váy xanh, nội dung là:
Xin thứ lỗi, cô có phải con gái Ngài Charles Braham không? Ông nhà tôi là chánh án tòa án tối cao Vwarda.
Nó được ký tên
Maud Wenthorne
và kèm lời tái bút,
Chúng ta có thể cùng uống cà phê trong quầy bar.

Monica đọc lá thư với nhiều cảm xúc lẫn lộn: nó gợi lên ký ức về những buổi chiều thú vị ở Vwarda, khi kiều dân Anh họp mặt uống trà và bàn chuyện trường sở, mưa mùa hè và những hành động gây bất bình mới nhất của Chính phủ Công đảng - ở London, tất nhiên, chứ không phải Vwarda. Ấy là những ngày huy hoàng, lơ lửng trên ngưỡng đổi thay, nhưng chúng nhanh chóng biến thành quãng thời gian bi thảm, bị đánh dấu bởi xung đột bộ lạc, cướp đoạt tài sản, mất những việc làm tưởng như chắc chắn, và sự trục xuất từng bước người da trắng. Cha Monica và ông bà Wenthorne thường xuyên gặp nhau, nhưng Monica lại học ở Anh nên Phu nhân Wenthorne chỉ ngờ ngợ là nhận ra cô âu cũng là điều dễ hiểu.
Monica cảm thấy rất muốn gửi một bức thư ngắn trả lời:
Ông bà nhầm rồi,
vì cô không thích nối lại quan hệ với đám kiều dân Anh ở châu Phi, nhưng hồi ở Vwarda Phu nhân Wenthorne đã tỏ ra rất tử tế nên từ chối thiện chí của bà sẽ là khiếm nhã. Xoay người về phía bàn của họ, cô thân thiện mỉm cười và gật đầu, rồi chuyển tin nhắn đó cho ba người bạn và trả lời các câu hỏi của họ một cách nước đôi. Để kể tất cả những gì cô biết về cặp vợ chồng đáng chú ý này thì sẽ cần cả một hành trình quay về quá khứ, việc mà cô vẫn chưa sẵn sàng; kể cho họ nghe không đến nơi đến chốn thì lại không công bằng; nhưng thế khó xử của cô đã được Cato tháo gỡ, anh hỏi,
Chẳng phải ông ta là người đã làm Vwarda rối loạn? Truyền xuống một quyết định mà người da đen sẽ không chấp nhận?
Vẻ ngạo nghễ, anh quay nhìn ông chánh án chằm chằm theo cái lối khiến kẻ kia phải hiểu là người da đen này đang đồng nhất ông ta với cuộc khủng hoảng của tòa án gần đây. Ngài Victor đỏ mặt, rồi cúi người gật gật đầu như muốn nói,
Phải, anh bạn trẻ, tôi chính là người đó.
Lúc ấy ông hẳn phải cảm thấy hối tiếc về lời mời cà phê nhiệt tình quá mức của bà vợ.
Ông bà Wenthorne ăn xong trước và ngồi chờ trong quán bar, ở đó đội ngũ bồi bàn da đen mặc đồng phục xanh mang găng trắng điềm đạm đi lại, tiếp những tách nhỏ cà phê Angola rất ngon uống kèm bánh quế rắc đường. Vợ chồng ông chánh án ngồi trong góc, bên chiếc bàn sắt trên mặt trang trí rất nhiều hình cuộn và đường cong. Một ánh sáng êm dịu không biết phát ra từ đâu, và Gretchen nghĩ: Chắc hẳn đây là một trong những nơi văn minh nhất trên thế giới ngày nay; còn Monica lại nghĩ:
Chúng ta lại về đây... sự hùng mạnh của đế chế... lần này là Bồ Đào Nha.

Phu nhân Wenthorne xử sự như thể đang chủ tọa một dạ hội thời Victoria, còn ông chánh án dường như nêu tấm gương mẫu mực cho thói tao nhã quan tòa, thể hiện rõ nét ở tính trung thực và sự chú ý tế nhị đến cách ứng xử đúng đắn, vốn là đặc trưng của các thẩm phán Anh ưu tú nhất. Chẳng hạn, khi Cato hỏi với vẻ châm chọc,
Tại sao quyết định ở Vwarda lại gây ra bạo động?
Ngài Victor liền đứng lên, cáo lỗi và đi vào phòng vệ sinh nam một cách khoa trương, để bà vợ trả lời thay,
Bởi vì một quan tòa da trắng phải đối ngược với một quan tòa da đen.


Chẳng lẽ không có một người da đen nào ở tòa án cấp cao?
Cato hỏi.

Làm sao có được? Có người bản xứ nào học luật đâu.


Bà vừa nói thẩm phán cấp thấp hơn là người da đen mà.


Nhờ được giúp đỡ thôi, không phải do đào tạo. Ông nhà tôi phụ trách tuyển dụng thẩm phán đoàn, và ông ấy đã lập được kỳ công đưa những người trẻ tuổi có triển vọng lên làm quan tòa, mặc dù họ chưa đủ khả năng. Nhưng đối với những cấp cao thì... Tuyệt đối không thể được.


Nhưng theo tôi biết thì hiện tại các chánh án cao cấp đều là người da đen.


Phải. Từ sau bạo động, toàn bộ thẩm phán da trắng đều bị tống khứ hết.


Thế tức là họ đã tìm được các thẩm phán da đen?

Phu nhân Wenthorne bình tĩnh nhìn Cato và đáp,
Họ tìm được người da đen... chứ không phải thẩm phán da đen.

Lúc này Ngài Victor đã quay lại, và đây là dấu hiệu chấm dứt đề tài bạo động, vì vậy Monica hỏi,
Ông sẽ quay lại Vwarda chứ?
và ông đáp với vẻ điềm đạm, đặc điểm nổi bật của ông trên tòa,
Ngày mai một phái đoàn sẽ tới đây. Em trai tổng thống dẫn đầu đoàn, tôi tin vậy. Chúng tôi sẽ khảo sát tỉ mỉ xem có thể làm được gì vì ở Vwarda người ta thực lòng mong tôi có thể tiếp tục cho đến khi mọi ghế quan tòa đều có đủ người đã qua đào tạo.


Tôi nghĩ các ghế ấy đã đủ người rồi,
Cato nói.
Điều đáng chú ý - Monica chỉ ra vấn đề quan trọng này khi cô kể lại với tôi sau đó - là ông bà Wenthorne không thành kiến như vậy. Họ quý mến người da đen, đã làm việc cả đời với người da đen, đã làm tất cả những gì có thể để khuyến khích thanh niên da đen học y và luật, và bây giờ, theo trực giác, họ cũng quý mến Cato và thích những câu chất vấn dồn ép của anh.
Thưa ông, tôi e là mọi ghế thẩm phán đều đủ người rồi,
ông thẩm phán nói.
Nhưng tất cả các nhà lãnh đạo ở Vwarda đều thừa nhận chúng bị chiếm bởi những người không phù hợp - những người theo chủ nghĩa bộ lạc, những kẻ mua quan bán chức đồi bại, những kẻ vô nguyên tắc hay thiếu trung thực. Tôi không biết có phải anh em tổng thống muốn tôi quay lại không, nhưng chắc chắn họ cần một người có khả năng giải quyết rối ren như tôi. Và tôi cho là, dù tốt xấu ra sao, đó cũng phải là người da trắng.

Điều này làm Cato bực tức, anh bèn vặn lại,
Giả sử những kẻ nổi loạn đã tống cổ ông ra không cho ông vào? Tòa án liệu có tiếp tục? Luật pháp liệu có tiếp tục, song dựa trên một cơ sở khác? Thẩm phán da đen vì người da đen?


Anh đóng cái đinh trúng vào đầu, anh bạn trẻ ạ,
Ngài Victor thừa nhận không chút oán hận.
Tất nhiên, không có thẩm phán da trắng, tòa án vẫn hoạt động. Tại sao hai người Anh, hai người Ailen và một người Úc lại phải thực thi công lý ở Vwarda? Song những gì các thẩm phán da đen thế hệ này sẽ thực thi không phải luật pháp mà cũng chẳng phải công lý, vì họ đâu hiểu cả hai thứ đó. Họ sẽ thi hành những cuộc trả thù mang tính bộ lạc. Thực tế họ đã làm vậy rồi, và chính vì thế mà ngày mai phái đoàn sẽ đến đây.


Ông chỉ trích toàn bộ hệ thống pháp luật Vwarda?
Cato dồn ép.

Chừng nào nó còn đắm chìm trong chủ nghĩa bộ lạc thuần túy thì, phải.


Ông không cho rằng cuối cùng chủ nghĩa bộ lạc cũng có thể đạt hiệu quả ngang bằng hệ thống pháp luật phương Tây?


Trong một khu vực bộ lạc nhất định, chắc chắn nó cũng đạt hiệu quả không kém. Trong một khu vực liên bang, nơi nhiều bộ lạc phải hoặc sống chung hoặc diệt vong, thì nó không thể thực hiện chức năng được.


Lẽ nào không có khả năng châu Phi có thể phải trải qua một thời kỳ dài chủ nghĩa bộ lạc, rồi sau đó sẽ phát triển một kiểu chế độ liên bang riêng?


Có chứ!
Ngài Victor hăng hái nói.
Đó là điều chúng tôi hy vọng... điều chúng tôi dự liệu. Nhưng các bước tiến từ chủ nghĩa bộ lạc đến chủ nghĩa liên bang phải được thực hiện một cách trung thực và không hủy diệt các dân tộc, điều này chỉ có thể được hoàn thành nếu tất cả chúng ta tuân thủ những nguyên tắc luật pháp chung, vấn đề là ở đó.


Và luật pháp mọi người phải tuân thủ tất nhiên là của người da trắng?


Nếu anh coi Hammurabi, Moses, Muhammad và Solon là người da trắng, thì đúng vậy.

Phu nhân Wenthorne ngắt lời để lái câu chuyện khỏi vấn đề thẩm phán và tư pháp.
Cô có tin gì của Ngài Charles không?
bà hỏi Monica.

Cha tôi đang ở London. Buồn thảm tuyệt đối.


Thật đáng tiếc! Đáng lẽ ông không nên rời châu Phi mới phải.
Bà nói câu này với cả chồng lẫn Monica.

Bà và Ngài Victor định làm gì?

Phu nhân Wenthorne mỉm cười, hít thật sâu mấy lần rồi nói,
Tôi nghĩ ngày mai Ngài Victor sẽ để cho mình bị thuyết phục bởi phái đoàn Vwarda. Chúng tôi sẽ quay về để giúp họ thành lập một đội ngũ thẩm phán xứng đáng được tôn trọng. Kẻ bất tài này kẻ kém cỏi kia từng bị ông nhà tôi cho thôi việc sẽ tập hợp bộ lạc của bọn họ. Sẽ có những cuộc bạo động mới chống người da trắng, và cuối cùng cả hai vợ chồng tôi sẽ bị giết... có lẽ bằng giáo mác.

Sáng hôm sau trên bãi biển, nhóm bạn gặp năm người Nam Phi rất thú vị, những thanh niên rắn rỏi khao cả nhóm một chầu bia và sẵn lòng tán đủ chuyện trên đời. Người nào cũng rám nắng và có một nét lôi cuốn là thích đưa chính bản thân và những điểm yếu của đất nước họ ra làm trò cười. Hiển nhiên bọn họ đều bị hai cô gái gây ấn tượng mạnh nhưng lại thích nói chuyện với Cato hơn, họ hỏi han cậu hàng giờ về tình hình nước Mỹ.
Sau khi đi bơi về, họ tập trung ở căn nhà màu hồng của Cato và mua thêm một ít bia, ném luôn nắp chai vào đàn khỉ, chúng chửi rủa ầm lên. Lời bình luận của họ về cuộc sống ở Nam Phi thẳng thắn đáng kinh ngạc.
Đó là một chính quyền cảnh sát, và tình hình nhất định sẽ tồi tệ hơn nữa. Những gì chúng tôi đang phải học là cách chế ngự người da đen. Đất nước nào mà chẳng làm được việc ấy, nếu người ta sẵn sàng trả giá.
Câu trả lời của Cato cũng sắc sảo không kém,
Ở Mỹ chúng tôi chắc chắn sẽ phải chiến đấu ngoài đường phố. Có lẽ khoảng năm 1972.
Nhưng sự trao đổi ý kiến là bổ ích cho cả hai bên, và khi họ đã đi khỏi, Cato nói,
Phải thú nhận thế này thì thật xấu hổ, nhưng tôi thực sự hiểu mấy anh chàng ấy,
và Monica lưu ý,
Tất nhiên rồi, mấy anh bạn biết điều ấy là dân của nửa Nam Phi thuộc Anh mà,
nhưng Gretchen chỉnh lại:
Trong năm người, ba người nói với nhau bằng tiếng Hà Lan Nam Phi. Họ là người Boer thuần chủng. Mình hỏi họ rồi.

Tối đó các bạn trẻ bắt gặp một thoáng Nam Phi khắc nghiệt hơn. Một chính khách ở Johannesburg, tiến sĩ Christian Vorlanger, đến nghỉ tại khách sạn Trianon và tổ chức họp báo để trình bày những quan điểm khác thường đang ngày càng được nhiều người trong giới ủng hộ. Những tài liệu trình bày ý kiến của ông ta từng khiến dư luận xôn xao và ông ta sẵn sàng gặp mặt các đồng hương có khả năng đang nghỉ trong thành phố, thế nên năm người Nam Phi ghé vào căn nhà tròn của Cato để mời cậu và các bạn tới cuộc họp.
Tiến sĩ Vorlanger là người có uy, cao lớn, vạm vỡ, cổ to, nước da rám nắng của người thường xuyên hoạt động ngoài trời. Ông ta còn rất thu hút vì nói năng đầy thuyết phục, không chút cuồng tín. Thông điệp của ông ta vừa đơn giản vừa mang tính cách mạng:

Những gì tôi phải phát biểu sẽ không được ưa thích cũng không được đón nhận nhiệt tình, nhưng tôi đang cất lên tiếng nói của tương lai và theo tôi dự đoán trong vòng năm năm nữa quan điểm của tôi ngày hôm nay sẽ được tất cả những người Nam Phi biết suy nghĩ chấp nhận.

Chỉ cần chịu khó nhìn một cách trung thực vào đất nước hùng mạnh của chúng ta, ai cũng càng ngày càng thấy rõ rằng đến lúc quyết định chúng ta sẽ không thể trông mong vào người Nam Phi gốc Anh được vì họ đã bị nhiễm những triết lý tự do này nọ rồi. Khi thời điểm quyết định đến, chúng ta sẽ chỉ có thể tin tưởng vào những công dân Boer kế thế vì họ vẫn trung thành với lời dạy đúng đắn của Giáo hội Cải cách Hà Lan. Chỉ có họ mới đáng tin cậy.

Do đó, kế hoạch của tôi rất đơn giản. Nếu chúng ta biết không thể tin được người Anh, và nếu chúng ta biết người Boer đáng tin cậy, thế thì khôn ngoan nhất là ngay bây giờ - từ giờ phút này trở đi - phải khống chế số phiếu bầu dành cho những người đáng tin, hạn chế không để rơi vào tay những kẻ không tin được. Cả tôi và các cố vấn đều suy nghĩ rất nhiều xem đâu là tiêu chuẩn hợp lý nhất nhằm xác định những người có thể và không thể tin được. Chúng tôi đã cân nhắc nhiều khả năng. Nào là người đó sử dụng ngôn ngữ họ Hà Lan Nam Phi thay vì tiếng Anh. Hay người đó được dạy dỗ ở một trường Hà Lan Nam Phi thay vì trường Anh.

Người đó từng phục vụ trong một ủy ban Hà Lan Nam Phi tại cộng đồng nơi mình sinh sống. Hay có thể là người đó được hầu hết mọi người trong cộng đồng nơi mình sinh sống công nhận là người Boer. Chúng tôi cũng nghiêm túc cân nhắc đề xuất rằng ba người trong số ông bà nội ngoại phải là người Boer. Nhưng càng đi sâu vào vấn đề, giải pháp lại càng đơn giản... càng rõ ràng đối với tất cả chúng tôi. Vì vậy chúng tôi đề nghị từ nay trở đi phiếu bầu chỉ được giới hạn cho những thành viên Giáo hội Cải cách Hà Lan năng đi lễ nhà thờ có đóng hội phí. Nhờ quy tắc thẳng thắn và dễ thi hành ấy, chúng tôi có thể xác định được những người sẽ sát cánh bên mình khi thời điểm quyết định đến - những người chúng tôi có thể tin cậy để bảo vệ Nam Phi mà chúng tôi yêu quý và giữ cho nó mãi là Nam Phi mà chúng tôi yêu quý.

Bây giờ, trước khi thảo luận vấn đề, tôi muốn cam đoan với ba nhóm người là họ không có gì phải lo ngại về bản cương lĩnh do chúng tôi đề ra. Thứ nhất, dân bản xứ. Họ sẽ không bị ngược đãi bằng bất cứ hình thức nào. Họ sẽ sống cuộc đời riêng độc lập với cuộc sống của chúng tôi và sẽ được hưởng một mức sống và công lý chưa từng thấy tại bất kỳ nước cộng hòa da đen nào ở châu Phi. Họ sẽ có nhà cửa tử tế, công ăn việc làm đàng hoàng, hệ thống giáo dục tốt và tòa án công bằng. Họ sẽ có chỗ đứng danh dự ở Nam Phi. Họ sẽ sát cánh chứ không hòa lẫn với chúng tôi.

Thứ hai là người Anh. Chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn, vì trong tất cả những gì chúng tôi làm, ngay cả trong ngôn ngữ mà tối nay tôi sử dụng, món nợ của chúng tôi đối với người Anh rất lớn. Chúng tôi sẽ thừa nhận món nợ đó, nhưng chúng tôi sẽ không cho phép chính phủ của mình bị những người Anh đa cảm theo chủ nghĩa tự do làm ô uế dẫn đến sự hủy diệt không tránh khỏi nữa. Chúng tôi xin hứa là chúng tôi sẽ cầm quyền một cách đúng đắn sáng suốt và các đặc quyền của quý vị sẽ được bảo tồn và bảo vệ. Nhưng chính quyền phải nắm trong tay những người mong muốn duy trì tình trạng vốn có của nó, và người chúng tôi có thể trông cậy là những người đã được nuôi dạy trong các truyền thống tốt đẹp của chúng tôi, người Boer nói tiếng Hà Lan Nam Phi và đi lễ tại nhà thờ của chúng tôi.
Và điều này đưa tôi đến nhóm thứ ba mà tôi muốn cam đoan một lần nữa, những người thuộc các giáo phái khác. Tôi nhận thấy đêm nay tôi đang nói chuyện ở một đất nước Thiên Chúa giáo. Đây là tôn giáo thích hợp đối với quốc gia Thiên Chúa giáo này. Tôi còn nhận thấy nhiều người trong các vị có thể thuộc Giáo hội Anh. Đó là tôn giáo thích hợp với người Anh sống ở Anh. Và nếu ở đây có người của Hội Thánh Baptist từ Mỹ, người theo Giáo hội Luther của Đức, tôi xin đảm bảo với các vị là chúng tôi tin rằng các tôn giáo vĩ đại đó thích hợp với dân tộc của các vị, và chúng tôi sẽ công nhận quyền tự do tín ngưỡng ở khắp Nam Phi. Nhưng, chính quyền của chúng tôi phải nằm dưới quyền kiểm soát của tôn giáo duy nhất cho biết về di sản lịch sử của chúng tôi, Giáo hội Cải cách Hà Lan. Tôn giáo đó phải được giao trọng trách cứu rỗi linh hồn dân tộc chúng tôi.

Ông ta để mọi người thảo luận thoải mái, và hết người này đến người khác đứng lên báo cáo:
Tôi từ Nam Phi đến, tình cờ có mặt ở đây và tôi muốn cử tọa biết rằng tôi và phần lớn bạn bè ủng hộ những ý kiến mà đêm nay tiến sĩ Vorlanger đưa ra rất tài tình.
Những người khác đảm bảo với cử tọa:
Chúng tôi hứa là người Nam Phi nói tiếng Anh sẽ không bị phân biệt đối xử dưới bất cứ hình thức nào. Tòa án sẽ tiếp tục công bằng một cách cẩn trọng, nhưng khi thời điểm quyết định đến chúng tôi phải giao chính quyền vào tay những người mà chúng tôi hiểu rõ và có thể tin tưởng được.

Đêm đó, khi cả hai nhóm ngồi cùng trong một câu lạc bộ, Gretchen hỏi các anh bạn Nam Phi cụm từ
khi thời điểm quyết định đến
là có ý gì, thì một người giải thích,
Nó ẩn đằng sau mọi giây phút tỉnh táo và định đoạt tư tưởng cho mọi vấn đề. ‘Khi thời điểm quyết định đến,’ là khi rốt cuộc người da đen cũng sẽ nổi dậy bằng bạo động vũ trang và chúng tôi phải bắn hạ họ bằng súng máy.

Cato nói,
Đó là một quan niệm mê hoặc người Mỹ. ‘Khi thời điểm quyết định đến. Khi chúng ta phải bắn hạ bọn mọi đen.’ Tôi phải ghi nhớ điều này.


Người da đen có lối giải thích riêng đấy,
Monica cảnh báo.
Người ta thường nghe thấy câu đó ở những nước như Vwarda và Tanzania. ‘Khi thời điểm quyết định đến.’ Đến đêm chúng ta sẽ giết bọn da trắng. Chúng ta có thể trông cậy nước láng giềng nào làm công việc chém giết đây? Đó là điều Phu nhân Wenthorne ám chỉ tối hôm trước khi bà nói rằng bà và Ngài Victor sẽ bị giết... bằng giáo mác.

Chính vào đêm ấy, sau này Joe kể lại với tôi, Monica và Cato bắt đầu trở nên lúc thì phấn chấn, lúc lại chán nản, một trạng thái tâm lý được họ thường xuyên bộc lộ trong quãng thời gian còn lại ở châu Phi. Họ biết rõ cách xử lý mà người da trắng và da đen đưa ra chỉ có thể kết thúc trong xung đột và đổ máu leo thang.
Kể từ đó,
Joe nói với tôi,
họ giống như hai linh hồn bị đày đọa. Họ tìm sự an ủi trong căn nhà tròn, bằng cách cùng hút cần sa với các bạn Nam Phi, nhưng ta có thể thấy có điều gì đó đang giày vò họ. Tôi không thể đoán được đó là gì cho đến tận hôm trông thấy Monica bước ra từ cửa hiệu Ấn Độ đó. Từ đấy thì gần như vô phương cứu chữa.

Chiều hôm sau, nỗi u sầu của Monica càng trở nên sâu sắc khi đoàn thẩm phán Vwarda đến khách sạn Trianon nhằm tìm cách thuyết phục Ngài Victor quay về tòa án tối cao vì trong phái đoàn toàn dân da đen ấy có nhiều người quen cũ từ những tháng ngày tươi đẹp xưa. Em trai tổng thống, mặc lễ phục sọc nhỏ có dải viền cuộn thừng dọc theo ống quần, từng là lái xe cho gia đình cô suốt mười tám năm, một người đàng hoàng tốt bụng đã chăm nom cô những lúc Ngài Charles bận vào rừng. Thư ký của phái đoàn là một người tử tế xuất thân từ một bộ lạc trong nội địa, mù chữ cho đến năm mười tám tuổi, rồi được mẹ của Monica dạy dỗ cho tới khi đủ tiêu chuẩn học ở Anh. Trong nhóm có những người trước kia là chủ hiệu, thợ nề, tùy phái cho các khu xây dựng lớn, một vài thành viên mặc trang phục châu Phi, nhưng phần lớn ăn mặc như những doanh nhân ở vùng quê miền Nam nước Anh.
Họ không đến để cầu xin. Như phu nhân Wenthorne kể lại với mấy bạn Mỹ tối đó,
Họ muốn Ngài Victor giám sát các tòa án trong một kỳ hạn ba năm - không phải các phán quyết, các bạn nhớ cho, mà chỉ là giám sát sự tiến triển theo đúng trình tự của các vụ án... phân chia khối lượng công việc.


Ông nhà sẽ nhận lời chứ?
Monica hỏi.

Chúng tôi có thể làm gì được? Ở tuổi chúng tôi, còn ai muốn quay về Anh để ngồi không như những kẻ ngốc già nua ngớ ngẩn chứ?
Bà chợt nhận ra mình vừa nói gì và có vẻ như cân nhắc xem có nên xin lỗi vì đã vô tình nói động đến cha Monica không, nhưng bà chỉ nói lên sự thật và thực tế đúng là như vậy.
Ngài Victor chỉ có một yêu cầu là bãi nhiệm ba thẩm phán kém nhất. Nhưng rắc rối ở chỗ, một trong ba người đó lại là cháu trai tổng thống. Vì vậy có lẽ chúng tôi sẽ về Devon. Họ đang gọi điện về Vwarda và ngày mai chúng tôi sẽ biết kết quả.

Cato hỏi xem có được phép phỏng vấn phái đoàn không, Phu nhân Wenthorne bèn nói,
Tôi nghĩ có thể thu xếp được việc này, nhưng ta sẽ nói với họ lý do của cậu là gì?
Monica bèn gợi ý,
Anh ấy là nhà nghiên cứu.
Ngay sau đó, một thành viên của phái đoàn đến phòng ông bà Wenthorne để báo là ông Jackson sẽ có nửa giờ gặp trưởng phái đoàn và ba thành viên khác vốn đang muốn nói chuyện với một người Mỹ da đen, thế là Cato đi tới chỗ họ. Sau này cậu kể lại với tôi những gì đã diễn ra.

Cả bốn người đều cư xử rất đúng mực, ba người mặc lễ phục, một người mặc trang phục châu Phi. Họ hỏi tôi hết câu này đến câu khác suốt mười lăm phút, rồi tôi bật cười nói, ‘Tôi đến đây để phỏng vấn các ông đấy chứ,’ thế mà họ không phật ý. Tôi liền đưa ra một loạt câu hỏi quan trọng nhất. ‘Tại sao các ông cần sự giúp đỡ của các thẩm phán da trắng?’ thì họ trả lời, ‘Các thẩm phán da đen của chúng tôi khá giỏi trong việc thi hành luật pháp của bộ lạc. Nhưng họ không hiểu gì về cơ cấu tổ chức nói chung – vấn đề kháng án và đại loại thế - vì vậy trong một vài năm chúng tôi sẽ cần một người thành thạo giúp đỡ.’ Sau đó tôi hỏi họ có cho rằng Ngài Victor sẽ hoạt động hiệu quả nếu chỉ ở cương vị tư vấn không, thì họ nói: ‘Đối với người bình thường thì không hiệu quả, nhưng Ngài Victor không phải người bình thường.’ Vậy là tôi hỏi tiếp, ‘Nhưng chẳng phải đã sắp tới lúc các ông muốn tống khứ tất cả người da trắng sao?’ và em trai tổng thống trả lời, ‘Chẳng bao giờ đến lúc đó đâu. Sẽ là tai họa nếu Vwarda trở thành một đất nước người da đen phân biệt chủng tộc giống như Nam Phi là nước người da trắng phân biệt chủng tộc. Người da đen chúng tôi sẽ chứng minh là chúng tôi có thể cầm quyền mà không cần lòng căm thù.’ Tôi hỏi lẽ nào lại không có nhiều hận thù khi các thẩm phán da trắng bị thải hồi, và ông ta đáp, ‘Có đấy. Cả xã hội chúng tôi đều thấy hổ thẹn. Chính vì thế cho nên chúng tôi mới có mặt ở đây.’ Tôi hỏi liệu Vwarda có chấp nhận điều kiện của Ngài Victor là bãi nhiệm những chánh án không đáp ứng được yêu cầu không, ông ta liền trả lời, ‘Đó chính là việc tối nay tôi sẽ trao đổi với anh tôi qua điện thoại. Chúng tôi rất cần Ngài Victor nên sẽ nhượng bộ một vài vấn đề.’ Cuối cùng tôi hỏi, ‘Dân tộc các ông có khả năng đoàn kết chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa bộ lạc không?’ và ông ta nói ông ta tin chắc sẽ làm được, rằng càng ngày các lực lượng ly khai sẽ càng yếu còn khuynh hướng hướng tâm sẽ càng mạnh lên.

Khi rời cuộc hội kiến, tôi thấy đau lòng vì cả phái đoàn ai nấy đều có vẻ ngoài và cách nói năng hành động y hệt cha tôi. Đối với tôi, tất cả đám người chết tiệt ấy đều là những Bác Tom ở tầm quốc tế, còn những người Ngài Victor phải chuyện trò là những kẻ nóng vội non nớt từng la hét ‘Bọn quan tòa da trắng phải chết,’ vì tôi tin chắc không dễ xoa dịu dược họ. Ông có biết tôi đã làm gì không? Tôi tới bảo Monica, ‘Em khuyên ông bà Wenthorne đừng trở lại Vwarda nữa, vì họ sẽ lâm vào thế bí thôi,’ cô ấy hỏi làm sao tôi biết, tôi liền đáp, ‘Nhờ quan sát em trai tổng thống,’ rồi cô ấy lại hỏi làm sao tôi có thể nói được điều gì dựa trên quan sát một người, tôi mới nói cho cô biết, ‘Bởi vì trông ông ta giống hệt cha anh,’ vậy là cô ấy hiểu ngay ý tôi là gì.

Cô ấy đến gặp Phu nhân Wenthorne, cảnh báo bà không nên trở lại Vwarda, nhưng trong lúc cô ấy đang có mặt ở đó, đích thân tổng thống Vwarda gọi điện thoại đến, ông ta chấp nhận mọi điều kiện của Ngài Victor, vì vậy ông bà Wenthorne đã nhận lời, Monica nói, ‘Hai người trông có vẻ giống nhau không có nghĩa là họ giống nhau thật.’

Tất nhiên, khi trở lại Vwarda, Ngài Victor nhận ra rằng các bộ lạc đã gây sức ép nặng nề khiến tổng thống thấy không thể sa thải bất cứ một thẩm phán nào, đặc biệt là cháu ông ta. Vì vậy, vốn là một người có chí khí, Ngài Victor mặc xác mọi chuyện và chuẩn bị bỏ đi, nhưng việc này bị coi như sự sỉ nhục đối với Vwarda, và những người da đen chống đối đã khởi loạn dưới khẩu hiệu ‘Tên thẩm phán da trắng phải chết!’ và trong cuộc hỗn chiến do chính những người cùng bộ lạc với tổng thống chỉ huy, Phu nhân Wenthorne bị bắn chết, nhưng chồng bà thì không.

Một buổi tối trong căn nhà tròn màu hồng, chín thanh niên - bốn người trên chiếc pop-top và năm người Nam Phi - đang trong tâm trạng bình thản vì vừa hút cỏ thì một người Nam Phi đề nghị,
Chúng tôi đã nhận lòng hiếu khách của các bạn nhiều rồi, tối nay các bạn sẽ đến hộp đêm với chúng tôi,
và thế là họ ầm ĩ kéo nhau đi để giới thiệu cho Monica và các bạn Mỹ biết dải đất rực rỡ ánh đèn gần bến cảng, nơi có nhiều chỗ vui chơi giải trí: Bar Luso, nổi tiếng với một nam vũ công múa thoát y người da đen hấp dẫn; quán Aquario với một ban nhạc da đen; quán Pinguim với một nhóm nữ chiêu đãi viên da đen; và tất nhiên là Bar Texas, đặc trưng là ngôi sao năm cánh bằng thiếc.
Khách quen phần lớn là người da trắng Nam Phi, và điều hấp dẫn về họ, như Cato nhận thấy ngay lập tức, là họ thích hẹn hò với con gái da đen hơn, như thể chính sách phân biệt màu da ở trong nước đã buộc họ phải xử sự ngược lại ở nước ngoài. Khi Cato lưu ý với Joe về điều này, hai người quan sát kỹ hơn, và giả thiết của họ được xác nhận: Đàn ông Nam Phi liên tục gạ gẫm các cô chiêu đãi viên da đen thật, mời họ uống rượu đắt tiền thật, và tìm cách làm cho họ bằng lòng rời khỏi câu lạc bộ cùng với mình thật.
Tại quán Texas, nhóm bạn trẻ gặp một người mặt mũi sáng sủa làm việc ở lãnh sự quán Mỹ, và Cato thẳng thừng hỏi anh này,
Theo kinh nghiệm của anh, đàn ông Nam Phi có thích ngủ với gái da đen hơn không?
người đó đáp,
Chuyện bình thường. Nếu chưa từng công tác ở Nhật Bản, tôi hẳn đã lấy làm lạ.

Và anh bạn ấy nói tiếp để giải thích rõ ý mình,
Hồi ở Nhật Bản tôi đã cộng tác với hai nhà tâm lý học thông tuệ nhằm làm sáng tỏ khía cạnh này trong các cuộc hôn nhân giữa lính Mỹ và đàn bà Nhật Bản. Và những gì chúng tôi phát hiện ra sau khi dành khá nhiều thời gian nghiên cứu là thế này. Ở Nhật Bản ba mươi tám phần trăm binh lính của ta là người Thâm Nam. Bây giờ tôi quên mất chúng ta xếp những bang nào vào vùng đó rồi, nhưng dù thế nào thì cũng có Mississippi, Alabama, Nam Carolina và Georgia, và nếu tôi nhớ không nhầm thì còn một vài bang khác nữa. Như vậy là ba mươi tám phần trăm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là người vùng Thâm Nam, nghĩa là trong số đàn ông lấy vợ phương Đông có thể có ba mươi tám phần trăm là dân Thâm Nam. Các bạn cho rằng thực tế có bao nhiêu phần trăm là người vùng đó? Thử nói xem nào.

Mấy anh bạn Nam Phi đưa ra những con số như mười tám và hai mươi phần trăm. Gretchen nói,
Theo lẽ thường thì là ba mươi tám phần trăm.
Chỉ có Cato đoán một con số cao hơn, năm mươi phần trăm. Tay viên chức trẻ mỉm cười nói,
Bảy mươi tám phần trăm. Gấp hơn hai lần con số bình thường mà người ta dự tính.

Mọi người tranh luận sôi nổi về vấn đề đó một lúc, nhưng anh bạn trẻ ấy vẫn giữ nguyên con số mình đưa ra.
Ở Hàn Quốc và Nhật Bản cũng thế, và tôi cho là cả ở Việt Nam ngày nay nữa. Chúng tôi dành rất nhiều thời gian nghiên cứu về thực tế đáng kinh ngạc này, nói chuyện với nhiều lính Mỹ, và đã có được cái nhìn khái quát khá rõ ràng. Khi lính Mỹ đến Nhật Bản lần đầu, các chàng trai người miền Bắc và các chàng trai người miền Nam đều bị con gái Nhật gây ấn tượng mạnh bằng nhau, nhưng con trai miền Nam, vì đã được dạy dỗ nhiều điều về chủng tộc, luôn bị một thôi thúc mãnh liệt từ trong thâm tâm là phải quan hệ với các cô gái ấy, rồi lấy họ. Suy từ đó ra, tôi cho là người Nam Phi các anh sẽ bị thôi thúc một cách mãnh liệt từ trong thâm tâm là phải hẹn hò với con gái da đen... chỉ để cho vui thôi... để xem những gì mọi người nói có đúng không.


Và do ở nước nhà việc này bị cấm đoán nữa,
một người Nam Phi nói.
Đừng quên điều đó.


Tôi đang định trở lại vấn đề đó đây. Qua các cuộc phỏng vấn khoảng hai nghìn lính Mỹ lấy vợ phương Đông, chúng tôi cảm thấy rõ rệt là nhiều người làm như vậy chủ yếu để chọc giận cha họ - chứ không phải mẹ họ... chúng tôi không lý giải được điều đó. Chà, nhưng chắc chắn họ muốn trêu tức ông già họ. Và chúng tôi phát hiện ra một điều cuối cùng nữa, có lẽ là điều ý nghĩa nhất. Khi lính Mỹ mang cô vợ Nhật Bản về nước, bang nào ở nước Mỹ chấp nhận họ dễ dàng nhất?

Gretchen ướm hỏi,
Miền Nam chăng?


Đúng. Ở miền Nam việc thích nghi dễ hơn nhiều, sự ghét bỏ cũng đỡ hơn nhiều. Chúng tôi cũng nghiên cứu cả vấn đề này nữa, và thấy là khi một xã hội chối bỏ chủng tộc nào đó, như miền Nam chối bỏ người da đen chẳng hạn, người ta lại ra sức thông cảm với các chủng tộc khác, như thể muốn nói, ‘Mọi người thấy đấy. Chúng tôi có thành kiến đâu. Tất cả chỉ vì người da đen thực sự hạ đẳng. Các chủng tộc tử tế đứng đắn, chúng tôi có thể chấp nhận và đã chấp nhận rồi đấy thôi.’ Vì thế cũng lại từ đó mà suy ra, tôi chắc rằng người Nam Phi trong nước thì cư xử như thế, đến khi ra nước ngoài và trở thành, vậy đấy, người tự do, anh ta sẽ cảm thấy đúng cái thôi thúc mãnh liệt phải tử tế với tất cả các chủng tộc khác. Anh ta muốn nói, ‘Mọi người đã thấy là tôi thực sự không có thành kiến thâm căn cố đế rồi đấy. Chỉ tại người da đen ở nước chúng tôi thực sự quá quắt thôi.’

Cato giữ vại bia kề sát môi, gần như che hết mắt, rồi đột nhiên dằn mạnh cốc xuống bàn.
Thật khéo, vấn đề đơn giản là đàn ông da trắng thì lúc nào cũng hết sức khát khao ngủ với con gái da đen, còn đàn ông da đen lại cảm thấy nỗi khát khao tương tự về phụ nữ da trắng. Vì lý do gì? Chỉ thuần túy để đùa cho vui thôi.
Rồi anh bỗng bật cười khà khà, khiến ai nấy đều kinh ngạc.

Gì vậy?
một anh chàng trong đám thanh niên Nam Phi hỏi.

Tôi vừa chợt nhớ đến một cậu bạn. Một đêm cậu ấy bảo tôi, ‘Cato này, tớ cũng trắng như tất cả những người da trắng mà cậu biết. Tớ hiểu ra rồi. Tớ một phần ba là đen, một phần ba là Đức, một phần ba là tín đồ Tân giáo.’
Nói rồi Cato vỗ đánh đét một cái xuống bàn và nhìn lần lượt từng khuôn mặt da trắng xung quanh. Không ai cười cả, và một lúc sau anh nói tiếp,
Tôi cũng không hiểu như thế có nghĩa là gì cho đến tận tối đó khi lên giường, thao thức cho đến sáng, cố nghĩ xem làm sao một người lại có thể là ba phần gộp lại được. Các bạn thử xem.
Dần dần, những người ngồi quanh bàn lần lượt toét miệng cười khi đầu óc đã nghiền ngẫm vấn đề ấy và nhận ra khía cạnh khôi hài của nó.

Một người không thể có ba phần được,
Cato nói, và một anh bạn Nam Phi cắt ngang,
Mẹ kiếp, tôi vẫn chẳng hiểu chuyện cười ấy là thế nào,
và Cato gợi ý,
Thử nghĩ lại về bốn ông bà nội ngoại của mình xem. Làm sao anh chia họ ra làm ba phần được?
anh thanh niên Nam Phi liền vặn lại,
Phải, nhưng ngược lên các thế hệ trước thì sao?
thì Cato đáp,
Ngay cả người Nam Phi các anh cũng phải đi theo đội hình bốn người,
thế rồi anh bạn chợt hiểu và phá lên cười, khiến anh hứng lên gọi một chầu bia khao mọi người, và chính không khí thân mật ấy đã khuyến khích anh tin cậy các bạn Mỹ và thổ lộ nỗi sợ hãi khủng khiếp đang giày vò mình.

Tôi là nhà báo. Tôi làm việc cho một trong những tờ báo có tiếng nhất Nam Phi... hay ở bất cứ đâu cũng thế thôi. Và chính phủ đã nhất quyết bịt miệng cả tôi lẫn tòa báo. Các bạn đã nghe nói đạo luật mới vừa được ban hành hôm qua chưa? Do tiến sĩ Vorlanger đề xuất và được cả nhóm của ông ta lẫn những nhóm khác ủng hộ. Đất nước chúng tôi sẽ có cơ quan mật vụ mới gọi tắt là BOSS, Phòng An ninh Quốc gia, và họ sẽ có quyền lực vô hạn. Nếu họ bắt anh thì không có lệnh đình quyền giam giữ đâu. Trong phiên xử anh, nếu có bất cứ thành viên chính phủ nào đến tòa tuyên bố là chứng cứ anh định đưa ra để bào chữa cho mình có thể làm tổn hại đến quốc gia thì chứng cứ ấy sẽ không được sử dụng. Anh không thể tự làm chứng cho mình nếu họ không cho phép. Nhưng phần thực sự đáng sợ là nếu BOSS khám nhà anh, một việc họ có thể làm ngay cả khi không có lệnh, và tìm thấy ở đó bất kỳ ghi chép, ảnh chụp, bản phác thảo hay thậm chí là cả những ý kiến ngẫu nhiên dưới bất cứ hình thức nào có thể sử dụng để viết một bài báo công kích quốc gia, họ có thể cho anh sáu tháng bị cấm cố trong tù mà chẳng cần đưa ra chứng cứ của họ, mà đúng ra thì phải như vậy.

Cato kể,
Ở Mỹ, người ta cười vào mũi chúng tôi khi chúng tôi nói, ‘Đừng làm thế với người da đen vì tuần sau các người sẽ làm thế với chính mình đấy.’

Khuya hôm đó, khi Cato và Monica đang ngủ trong căn nhà tròn màu hồng, Gretchen trong căn nhà màu xanh còn Joe trong xe, có người đến gõ nhẹ vào cửa nhà Cato, và khi cửa hé ra, anh nhà báo Nam Phi đã đứng đó, xin được vào, rồi anh ngồi xuống giường, trong bóng tối, yêu cầu Cato gọi hai người kia đến, và khi họ đã tụ tập đông đủ như những kẻ đồng mưu giữa đêm tối trời, anh nói,
Sau khi các bạn rời khỏi quán rượu, một người bạn đã rỉ tai cho tôi biết tin một mụ đàn bà ghê gớm bậc nhất đã đến Lourenço Marques. Tên mụ là Margaret Villinger. Mụ ta rất quyến rũ, lại thông minh nữa. Các bạn thể nào cũng sẽ có cảm tình với mụ. Mụ ta viết bài cho một tờ báo có tiếng ở Johannesburg và ngày mai mụ sẽ phỏng vấn Cato. Người Mỹ da đen nghĩ gì về Nam Phi... và mụ sẽ cho đăng báo những lời anh nói. Nhưng nhiệm vụ thực sự của mụ là moi móc thông tin về tôi. Mụ là nhân viên an ninh quốc gia, và họ kiên quyết tiêu diệt tôi... cùng tờ báo của tôi. Mụ ta sẽ dùng đủ mọi thủ đoạn để anh phải thú nhận là anh quen tôi. Mụ ta sẽ tìm cách phát hiện tôi đã nói những gì, vì vậy tôi xin anh. Đừng nhắc đến tên tôi... trong bất kỳ hoàn cảnh nào.


Tình hình xấu đến thế sao?
Gretchen hỏi.

Còn tệ hơn nữa kia. Đó là lý do thực sự khiến chúng tôi đi nghỉ ở Lourenço Marques. Để hít thở thoải mái.


Đêm hôm nọ,
Cato nói,
Joe có hỏi tôi tại sao lại lãng phí thời gian với người Nam Phi. Đó là vì tôi rất thông cảm với các bạn. Người da trắng các bạn nghĩ các bạn làm điều ác với dân da đen chúng tôi. Thực ra các bạn làm điều đó với chính mình đấy.

Khi bốn kẻ lãng du rời khỏi Lourenço Marques để thực hiện cuộc hành trình dài vất vả lên phía Bắc, họ đã bắt đầu một cuộc phiêu lưu mà cả Harvey Holt lẫn tôi đều chưa kịp chuẩn bị tinh thần cho họ: họ sẽ bắt gặp những cảnh thiên nhiên đẹp vô hạn, đồng thời sẽ phải đương đầu với những vấn đề xã hội không giải quyết được. Và hai người trong bọn họ sẽ đạt được một trạng thái thanh thản về mặt tình cảm không sao lý giải.
Cảnh đẹp là hàng nhiều dặm bãi cát liền mạch, vô cùng hoàn mỹ trải dài hoang vắng bên bờ Ấn Độ Dương. Hồi ở Pamplona, tôi đã kể cho các bạn trẻ nghe về bãi biển ở đó, nhưng họ không thể mường tượng được là họ sẽ đứng hết ngày này qua ngày khác giữa một dải cát mênh mông và có thể nhìn Nam nhìn Bắc hàng dặm hàng dặm tịnh không thấy một bóng người hay thậm chí dấu hiệu chứng tỏ ai đó từng đặt chân đến nơi này. Đúng là có những khu nghỉ dưỡng ven biển thật - một số nơi rất hấp dẫn - nhưng họ tránh xa vì thích đại dương và những dải cát hẻo lánh liền mạch ấy.
Tới bãi cát đầu tiên, cách Lourenço Marques không xa lắm về phía Bắc, họ đã phác xong hành trình khá táo bạo xuyên suốt Moçambique định sẽ thực hiện, bất kể lúc nào có cơ hội. Gretchen vừa đổi lái với Joe và giờ đang lái xe dọc theo đường cái, ngay cả việc này ở mức độ nào đó cũng là một cuộc phiêu lưu vì Moçambique quá bao la còn thuế má lại quá không thỏa đáng đến nỗi đường tốt trở thành món hàng xa xỉ; thế nên chỉ có một dải đường hẹp, rộng bằng chiều ngang một chiếc xe, là được lát đá, đồng nghĩa với việc khi lái với tốc độ năm sáu mươi dặm một giờ, anh phải không ngừng cảnh giác, đề phòng trường hợp ai đó sầm sầm lao vào mình với cùng tốc độ ấy trên cùng một dải đường hẹp ấy từ hướng ngược lại. Trò chơi chết người mà anh tham gia là cứ thế thẳng tiến về phía xe kia, không chịu nhường một ly, trong khi người kia cũng làm như vậy, đến phút cuối cùng mới đột ngột ngoặt sang bên chút xíu, vẫn bám trụ tại nửa phần đường lát của mình. Nếu thực sự can trường, anh sẽ hoàn toàn lừa được đối phương, giữ cho xe của mình ở giữa dải đường, bắt người kia phải rời hẳn khỏi mặt đường rải đá dăm nện, nhưng trò chơi sẽ đâm ra nguy hiểm thực sự nếu cả hai lái xe đều thẳng tiến, lao đầu vào nhau, bên nào cũng không chịu nhường đường, để đến phút cuối cùng có thể chấp nhận được, cả hai cùng lúc đổi hướng, sượt qua nhau trong khi lốp nghiến rin rít cách nhau có mấy phân.
Điều khiến người Mỹ cực kỳ khó chịu với trò này là họ phải lái xe bên trái đường, vì cứ đến thời điểm cam go, anh lại phải hành động ngược lại với mọi bản năng và cho xe đổi hướng sang trái trong một hoàn cảnh mà lần nào cũng giống lần nào, không khác gì thảm họa xảy ra đến nơi rồi.
Sau khoảng một giờ như vậy, khi đã đành chịu thua trong mọi trận đấu cân não và không lần nào giữ được xe trên mặt đường rải đá dăm, Gretchen thú nhận,
Em không gượng nổi nữa rồi. Một trong hai anh lái xe đi,
vậy là Joe cầm lấy tay lái.
Với bốn xe đầu tiên, cứ xe nào đến gần là Joe lại đi chậm lại, lái hẳn ra khỏi mặt đường đá dăm, nghiến răng kèn kẹt mỗi lần người chiến thắng vụt qua, miệng ngoác ra cười nhạo tình cảnh khó chịu của anh. Đối với bốn chiếc xe tiếp theo, anh duy trì tốc độ và giữ bánh phải chạy trên mặt đường lát, rồi sau đó anh trở nên ngang ngược, tranh giành từng phân đường lát đá, hễ có cơ hội là dồn người ta phải rời hẳn con đường, xử sự hệt như một gã Bồ Đào Nha.

Đây là cái đồng đẳng đạo lý của chiến tranh theo quan niệm của William James,
một lúc sau Joe tự nhiên bật cười thích thú, còn Gretchen nghĩ bụng, thật mỉa mai làm sao, một thanh niên hiếu chiến như vậy, một người rõ ràng thích sự thách thức của con bò mộng đang phóng nhanh hay chiếc xe nghiêng bên này ngả bên kia, ấy vậy mà lại phải trở thành một người từ chối nhập ngũ vì lương tâm thấy không đúng. Cô nhận thức rõ cái anh phản đối không phải là chiến tranh mà là tính chất trái đạo đức của cuộc chiến tranh đặc biệt mà đất nước anh dính vào.
Lúc này họ đã đến ngã tư đường có một biển hiệu chỉ về bên phải, cho biết có bãi cát cách đấy không xa lắm. Trong lúc ngẫu hứng, Joe quẹo xe vào con đường ấy, và sau khoảng mười dặm, họ tới một khách sạn nghỉ mát nhỏ. Bên kia khách sạn là bãi cát hùng vĩ đầu tiên, mênh mông, trống vắng, nguyên sơ.
Joe dừng xe. Trong một vài giây không ai nói nên lời, vì cảnh bãi biển gần như nguyên sinh này thật choáng ngợp; người ta buộc phải so sánh nơi đây với các bãi biển đông đúc ở Anh và Mỹ để rồi ngẫm lại rằng đã có một thời trông chúng cũng thế này. Monica là người đầu tiên phá vỡ trạng thái ngẩn ngơ mê đắm.
Em đi bơi đây,
cô nói, lột hết quần áo và chạy nhẹ bẫng xuống nước. Cato cũng cởi đồ và chạy theo, thân hình cân đối đen bóng nổi bật trên nền cát trắng. Chỉ còn Joe và Gretchen ngồi lại trong chiếc pop-top giữa im lặng ngượng ngùng, và cô là người phải gánh trách nhiệm quyết định xem nên xử trí thế nào. Cô đỏ mặt, cố nghĩ ra một câu nói tự nhiên nào đó, rồi bỏ phăng quần áo mà tung tăng chạy qua bãi cát đến với Monica, nhưng cô vừa làm như vậy thì cũng đúng lúc Cato chạy lên, thế là ba người trần truồng đứng đó, và Cato gọi với lên chỗ Joe,
Nhanh lên!
Vậy là Joe đá văng đôi giày ống và lột chiếc quần bó ra rồi chạy đến với các bạn.
Họ trải qua gần một tuần như vậy, như những đứa trẻ trần truồng vui mừng chạy nhảy trên bãi cát vô tận - hai cô gái từ trắng nõn nà đã dần chuyển sang rám nắng. Joe vốn sạm nắng từ trước thì lúc này thành ngăm ngăm đen, và Cato đẹp nhất trong cả bọn, một anh chàng thân hình cân đối mềm mại, với màu da đen góp thêm điểm nhấn quý phái cho quang cảnh. Dường như ở đám thanh niên đủ mọi quốc tịch ấy, có một điều gì đó khơi cho họ cảm hứng tắm khỏa thân; riêng bản thân tôi đã đến tuổi thấy biết ơn sự hỗ trợ của một bộ đồ bơi thiết kế khéo cho vẻ bề ngoài. Khi Monica nói với tôi về niềm hân hoan họ tìm được trong việc tắm biển như vậy, tôi phải hỏi,
Như thế có nghĩa là Joe và Gretchen...
và cô không cho tôi nói hết câu,
Không có gì đâu! Cháu nghĩ Gretchen phải đấu tranh tư tưởng dữ lắm mới dám cởi hết đồ ra. Chắc chắn bạn ấy không muốn có quan hệ nào khác với anh Joe. Vả lại, bạn ấy vẫn còn thích anh Clive và...
Đến lượt tôi ngắt lời cô,
Vậy ý cháu muốn nói là hai cô cậu ấy đi tắm khỏa thân hàng ngày và chỉ có thế thôi sao?
thế là cô gắt ầm lên,
Trời ạ, cháu cũng từng đi tắm truồng với một lô đàn ông mà cháu không muốn ngủ chung đấy thôi.
Tôi chắc cô nói thật, nhưng với sự dạy dỗ mà tôi được tiếp thu, tôi thấy khó tin nổi.
Những rối ren xã hội học mà cuộc hành trình phơi bày ra đều sâu sắc. Moçambique có dân số khoảng tám triệu người, trong đó chín mươi tám phần trăm da đen, vậy mà người da trắng nắm quyền tuyệt đối. Ở Lourenço Marques, nơi tập trung quyền lực, người da trắng co cụm khá đông, tạo cảm giác sự phân chia màu da là khoảng chừng tám mươi phần trăm trắng, hai mươi phần trăm đen, nhưng ở vùng nông thôn tình hình thực tế hoàn toàn bị phơi bày. Người da đen không sống ở các thị trấn nhỏ; họ sống ở các kraal nhỏ, tức một khoảnh đất trống trong rừng rậm, bao quanh là ba bốn căn nhà tròn, và ở đó cuộc sống tiếp tục khá giống cái mạch của hai nghìn năm trước, thỉnh thoảng thay đổi do cái lốp cao su bỏ đi hay một thùng xăng rỗng. Tài sản chủ yếu của bất kỳ gia đình nào cũng là một cái thùng gỗ to để lấy nước từ giếng chính quyền, thường cách khá xa. Điều này có nghĩa là phụ nữ trong các lán phải dành phần lớn thời gian trong ngày kéo thùng rỗng đến giếng và lôi thùng đầy về nhà. Họ làm việc này khá tài tình: họ chỉ việc đặt thùng nằm xuống đất, cột dây vào hai đầu rồi kéo nó theo sau mình, tự chiếc thùng tạo thành một dạng bánh xe lăn không ngừng, nảy bật qua các gốc cây cụt và suýt vỡ tan khi đập vào đá. Ở Moçambique, bánh xe đích thực vẫn chưa được thừa nhận.
Các kraal này tác động tiêu cực đến Cato. Ở Philadelphia, anh nhạo báng trang phục châu Phi và không muốn học tiếng Swahili, ngôn ngữ của thiểu số người châu Phi, nhưng dù vậy anh vẫn tin rằng nếu có khi nào người da trắng bị tống cổ ra, người da đen sẽ có khả năng quản lý châu Phi ít nhất cũng giỏi bằng các quốc gia như Bỉ và Bồ Đào Nha, có thể còn giỏi hơn. Nhưng những người da đen mà anh gặp lúc này lại khiến anh kinh ngạc, vì ở khắp Moçambique anh không nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ họ đã sẵn sàng cho chế độ tự trị, hoặc thậm chí là cho sự đóng góp nhỏ bé hữu hiệu của mình vào chính quyền do người da trắng thống trị.

Chắc chắn phải có một bộ phận lãnh đạo có học thức ở đất nước này mà người ta không cho chúng ta biết chứ,
anh lập luận.
Người Bồ Đào Nha đàn áp họ, tôi nghĩ thế, nhưng họ vẫn tồn tại bí mật. Cũng hợp lý chuyện tám triệu con người hẳn phải được trau dồi kiến thức ở chừng mực nào đó.

Nhưng anh chẳng bao giờ tìm được bộ phận lãnh đạo ấy. Nếu họ có tồn tại đi chăng nữa thì cũng bị áp đảo đến nỗi tác động của họ chỉ là tối thiểu. Mỗi lần chiếc pop-top cần tiếp nhiên liệu, anh lại mò vào khu vực phía sau trạm xăng, bắt chuyện với bất cứ ai biết nói tiếng Anh, quan sát xung quanh với con mắt sắc sảo, và những gì thu thập được đã khiến anh ngã lòng. Viễn cảnh về một châu Phi hưng thịnh trở lại tiêu tan như một ảo ảnh lung linh. Nhưng vốn là một thanh niên thông minh, anh cố hết sức để tập trung vào bằng chứng mới này, và trong suốt hành trình dài lên miền Bắc, anh thường xuyên bàn về đề tài đáng buồn đó.

Ta có ba hình mẫu xã hội ở phía Nam châu Phi,
lần nào anh cũng mở đầu như vậy, như thể đó là sự thật cơ bản để dựa vào mà phân tích.
Ta có xã hội hà khắc do người da trắng thống trị ở Nam Phi và Rhodesia. Ta có xã hội do người da đen nắm quyền ở Vwarda, Zambia và Tanzania. Và ta có xã hội hợp tác do người da trắng thống trị ở các lãnh thổ thuộc Bồ Đào Nha, Angola và Moçambique. Từ ba hình mẫu ấy tình hình sẽ tiến triển như thế nào?

Đánh giá về Nam Phi, anh có thái độ khoan dung lạ lùng, bị ảnh hưởng bởi những nét dễ thương của các bạn Nam Phi mà anh gặp ở Lourenço Marques.
Họ đang làm hại bản thân không kém gì đang làm hại chúng tôi,
anh nói, nhưng anh không còn ủng hộ cái lý thuyết là trong vòng một thập kỷ nữa người da đen sẽ nổi dậy và giành quyền điều khiển đất nước này. Anh đã gặp quá nhiều người Phi gốc Hà Lan cứng đầu cứng cổ, quá nhiều người như tiến sĩ Volanger, không thể phủ nhận sức chịu đựng kinh khủng của xã hội họ.
Tôi đã từng nghĩ chúng tôi có thể đuổi họ đi trong vòng mười năm... bằng một vụ tàn sát đẫm máu. Bây giờ tôi thấy nếu có một cuộc tàn sát đẫm máu thì chính chúng tôi sẽ là người đổ máu.

Anh cũng khá sáng suốt trong cách nghĩ về Moçambique.
Rốt cuộc thì người da trắng ở đây cũng sẽ sát cánh với Nam Phi và Rhodesia. Tôi sẽ không ngạc nhiên thấy mẫu quốc Bồ Đào Nha rũ bỏ các thuộc địa... chúng hẳn phải là một gánh nặng quá lớn... tốn người hao của. Và khi việc đó xảy ra, người da trắng địa phương sẽ nắm quyền, đúng như họ đã làm ở Rhodesia, và tôi cho rằng sẽ có một chế độ theo kiểu liên bang. Nam Phi, Rhodesia, Angola, Moçambique, trong đó Nam Phi cung cấp tiền bạc, chất xám và phần lớn vũ khí. Điều đáng buồn là mỗi bước của quá trình phát triển mới đó sẽ làm cho người da trắng ngày càng trở nên quá khích hơn, và cuối cùng toàn bộ vùng phía Nam châu lục này sẽ lại giống y như Nam Phi. Moçambique sẽ phải có BOSS[101] bởi vì hai phần trăm dân số sẽ ra lệnh cho chín mươi tám phần trăm còn lại, và người ta chỉ có thể làm vậy nếu thành lập một nhà nước cảnh sát, không phải để cai trị dân da đen mà là để kiểm soát người da trắng... xem họ có còn trung thành hay không.
Mỗi lần phân tích đến đoạn đó, anh lại nói thêm,
Nhưng tôi cho rằng, chuyện tương tự cũng sẽ xảy ra ở Hoa Kỳ. Người da đen chúng tôi sẽ đòi hỏi phải có một tổ chức nào đó như đảng Black Panthers để giữ cho chúng tôi phải trung thành, và người da trắng các bạn sẽ phải có một siêu FBI để kiềm chế các bạn... khi thời điểm quyết định đến.

Chính những lúc ngẫm nghĩ về các quốc gia chỉ toàn người da đen, Cato mới đâm ra thiếu tự tin.
Tôi quan sát tình hình Moçambique mà tự nhủ, ‘Những người da đen này không thể tự cầm quyền được,’ nhưng ngay bên kia biên giới phía Bắc là Tanzania, nơi chính những mẫu người da đen như vậy đang tự cầm quyền, và ở bên kia biên giới phía Tây người da đen Zambia cũng tự mình nắm quyền lãnh đạo, và lên trên nữa ở Vwarda những người da đen có cùng trình độ phát triển như thế cũng tự cầm quyền. Vì vậy tôi đoán là nếu nay mai người ta tống cổ toàn bộ dân Bồ Đào Nha ra khỏi Moçambique, đất nước đó sẽ vẫn tự cầm quyền bằng cách này hay cách khác. Máy bay sẽ vẫn bay đến Lourenço Marques, và sẽ có người trông coi sao cho máy phát điện sản xuất ra điện, và bữa tối ở khách sạn Trianon sẽ vẫn có giá năm đô la. Chính phủ có thể chẳng ra gì, nhưng vẫn sẽ cầm quyền. Vì vậy tôi thèm được nói, ‘Hãy để người da đen nắm quyền. Họ sẽ không làm nhiều điều tồi tệ hơn người da trắng đâu.’ Thế rồi tôi được nghe nói đến Nigeria, Biafra, chủ nghĩa bộ lạc ở Vwarda và việc người Trung Quốc thao túng Tanzania, và tôi không biết liệu có phải đó cũng là giải pháp không.

Lúc này họ đã đi gần đến sông Zambeze và liên tục trông thấy từng đoàn xe chở binh lính da trắng trang bị vũ khí tiến về biên giới Tanzania, nơi đang diễn ra một cuộc cách mạng cho dù không nghiêm trọng lắm nhưng lại khá dai dẳng. Cato nói,
Tôi dám chắc súng ống không phải là cách giải quyết vấn đề Moçambique,
nhưng cách giải quyết là gì thì lúc này anh lại không buồn đoán, mà sau này anh cũng không bàn đến nữa rồi, đang chực chờ phía trước, tại một nơi gọi là đảo Moçambique[102], đích đến của họ ở phương Bắc xa xôi, là một cuộc đối đầu có bản chất hoàn toàn khác, một cuộc đối đầu sẽ làm đảo lộn mọi định kiến của anh và kéo anh vào nhiều rối loạn mới.
Hiển nhiên, tâm trạng thư thái mà tôi đã nhắc đến khi các bạn trẻ bắt đầu chuyến du lịch lên phía Bắc không liên can tới Cato, vì anh chẳng may khi tìm thấy sự yên bình ở châu Phi; nó cũng không dính líu gì đến Monica, người ngày càng phiền muộn trước những hồi ức buộc phải nhớ lại. Khi ở Beira, một thành phố lớn trung bình của Moçambique, cô đã đọc được tin Phu nhân Wenthorne bị sát hại. Cô bèn đi tìm một số du khách Rhodesia - đường sắt của họ có ga cuối ở Beira - và gặp được vài người còn nhớ cha mẹ cô, vậy là họ cùng nhau khóc thương cho cái chết của Phu nhân Wenthorne.

Biết bao đổi thay đã xảy ra ở Vwarda!
họ nói.
Toàn bộ người da trắng đã bị trục xuất. Tài sản bị tịch biên, tài khoản ngân hàng phải sung công. Tất nhiên, họ đã giết nhiều người Ấn Độ. Chúng tôi thấy nhiều người tị nạn bước ra khỏi máy bay ở Salisbury chỉ có mỗi bộ quần áo mặc trên người.

Một người đàn ông nói,
Tôi xét việc cha cô bị đá ra là may mắn lắm đấy. Có phản đối, nhưng ông còn rút được hết tiền bạc ra. Cô có nghe nói đến Ngài Victor khốn khổ không? Ngay cả chôn cất vợ cũng không được phép. Người ta tống ông lên máy bay về Anh, và ba trăm người da đen đứng ngoài cửa gào thét, ‘Quăng tên thẩm phán da trắng cho chúng tôi!’ Ông đã thoát được trong gang tấc đấy.

Chính Joe và Gretchen là những người có được tâm trạng thanh thản. Họ đang ở trên một trong những bãi biển bao la phía Bắc Beira, nơi những đầm lầy trong đất liền đã ngăn cản công cuộc khai thác bờ biển - để từ giờ cho đến hai thế kỷ nữa, khi cầu được bắc ngang qua những đầm lầy, một khu giải trí tráng lệ sẽ chờ đợi số dân cư đông đúc có nhu cầu - và đang thơ thẩn dọc theo bãi cát, người trần như nhộng, thì vô tình quay về phía nhau. Người ta có thể nói là chuyện chỉ diễn ra trong một phần nghìn giây. Họ đã ở bên nhau bảy tháng nhưng chưa bao giờ thực sự nhận ra nhau. Gretchen đã quan sát chuyện yêu đương của Joe và Britta, còn Joe đã chứng kiến Gretchen nửa yêu nửa không yêu Clive. Nhưng lúc này họ mới nhận ra người kia thực sự là thế nào. Gretchen hiểu Joe là một người đàn ông mạnh mẽ, thừa lòng dũng cảm, nhưng rụt rè, không dứt khoát, còn Joe nhận thấy Gretchen là một cô gái vốn dĩ dễ thương, ngoài chuyện là một sinh viên xuất sắc và có nhiều day dứt.
Trong khoảnh khắc nhận ra nhau ấy, họ đang đứng cách nhau độ bảy tám mét, rồi từ từ, họ bước về phía nhau, và thật khó nói ai dẫn ai ra sau cồn cát, nhưng Cato và Monica xuống bãi biển chừng hai tiếng, sau đó việc thu xếp chỗ ngủ trong chiếc pop-top màu vàng thay đổi hẳn.
Khi tôi nghe Monica kể lại chuyện này, rồi sau đó Gretchen xác nhận với kiểu nói ngập ngừng của cô, tôi nghĩ bụng tình yêu giữa những con người thế hệ mới này mới kỳ lạ làm sao. Một chàng trai và một cô gái bốn tháng sống trong cùng một phòng ở Torremolinos, hai tháng ngủ sát cạnh nhau trong chiếc xe pop-top, cộng thêm một tháng đi tắm khỏa thân, và cuối cùng mới phát hiện ra là họ thích nhau. Đó là một cách tìm hiểu mà tôi không nhận thức được thấu đáo, nhưng khi ngẫm nghĩ về vấn đề ấy, vì một lý do kỳ quái nào đó, tôi chợt nhớ đến Jane Austen cùng cuốn tiểu thuyết Northanger Abbey thú vị của bà, trong đó hai thiếu nữ Anh tại một khu nghỉ mát đã lâm vào tình thế bối rối vì bị hai anh lính bám theo ở khoảng cách vừa phải, và tôi nghĩ chắc hẳn hai cô gái đoan chính vô cùng của Austen cũng cảm thấy dạt dào cảm xúc giống như - giống y hệt - Gretchen lúc cô khỏa thân bước tới nắm lấy tay Joe, và tôi dám chắc nếu ngày nay Austen còn viết văn, bà sẽ không phẫn nộ trước những gì đã xảy ra trên bãi biển, cả tôi cũng vậy.
Một buổi chiều, khi cả bọn đang nằm trên cát ngắm những con sóng trắng xóa chậm chạp chưa kịp xô vào bờ thì đã rút ngay, như thể quá mệt mỏi chẳng thể cố gắng thêm nữa, Gretchen dõi mắt theo khi Monica kéo Cato dậy và dẫn cậu xuống nước, thân hình thon thả rám nắng của cô tương xứng một cách đẹp mắt bên cơ thể đen bóng của cậu. Gretchen hạ giọng, mặc dù chẳng có người lạ nào trong vòng bán kính năm dặm mà hỏi,
Anh Joe, anh có nhận thấy Monica mấy ngày nay có gì khang khác không?

Joe bảo không, nhưng cô vẫn không thôi:
Anh có chắc không? Hay Cato nữa? Anh ấy có gì khác lạ không?


Họ có vẻ muốn ở riêng với nhau nhiều hơn trước. Nhưng chúng mình cũng thế mà.


Anh Joe, có chuyện này em phải nói, và nếu em nhầm thì hãy bỏ qua cho em. Nhưng em muốn anh nhìn kỹ khuỷu tay trái Monica xem.


Có chuyện gì ư?


Em tin chắc là em đã nhìn thấy nhiều nốt tiêm.


Em đang đùa đấy à!


Không. Nốt kim tiêm thật mà. Mà lại đúng chỗ nữa... chỗ mạch máu nổi lên. Chuyện em muốn anh làm là nhìn tay Cato xem. Em không thấy vết gì trên da anh ấy... nếu giả sử là có.


Anh phải làm gì đây? Túm lấy tay cậu ấy như các cô gái Mỹ ở Pamplona vẫn làm ư? ‘Xin lỗi, cậu có sử dụng heroin không?’


Em nghĩ, cả hai đều sử dụng đấy, và em nghĩ việc đó giải thích cho nhiều hiện tượng gần đây... hết trạng thái phởn phơ lại đến chán nản.
Cô ngồi trên một bãi cát nhỏ, đôi đầu gối thon thả co lên áp vào bộ ngực rám nắng, đầu gục xuống đầu gối, và nửa nói với mình nửa nói với Joe,
Đó là tất cả những gì cậu ấy cần... heroin.

Khi Monica và Cato quay lại, những vết tiêm trên cánh tay trái cô lộ rõ đến nỗi ngay cả Joe cũng phát hiện ra. Tuy nhiên, khi anh quan sát cánh tay Cato, anh lại không thấy được gì bởi vì dù có sẹo đi chăng nữa thì chúng cũng bị màu da đen ngụy trang hết.
Trong mấy tiếng đồng hồ sau đó, Joe và Gretchen không tìm được cơ hội nào để trao đối nhận xét, nhưng cả hai cứ nhìn như bị thôi miên vào tay Monica đến nỗi họ sợ cô sẽ nhận thấy, nhưng cô đang phấn khích quá nên không để ý gì. Chỉ đến lúc hai cặp lên giường, trong khi Monica và Cato quẫy đạp lung tung, Joe và Gretchen mới có một chút tự do, nhưng họ nằm gần hai người kia quá đến mức không thể nói chuyện bình thường được, vì vậy Gretchen thì thầm,
Đúng như em nói, có nốt ở đó đấy,
và Joe thì thầm đáp lại,
Anh nhìn tay Cato rồi nhưng chẳng thấy gì cả. Mình phải nhìn thật gần vào,
vậy là Gretchen hỏi khẽ,
Chúng ta nên làm gì, anh Joe? Em không chỉ nói đến hai người ấy thôi đâu. Nếu bị cảnh sát tóm, chúng ta có thể mất chiếc xe này. Anh biết Monica rồi đấy... chắc hẳn cô ấy phải có đến một gallon[103] ma túy mang lậu ở đâu đó. Cái ấy có cân đong theo gallon không?


Dưới ấy đang thì thào sôi nổi chuyện gì thế?
Monica đột ngột hỏi. Trong bóng tối, Gretchen hít một hơi thật sâu, siết chặt tay Joe, rồi nói nhỏ,
Anh Joe và tớ đang xác định xem có phải cậu tiêm dưới da ở tay trái không.

Im lặng, rồi:
Phải.


Anh cũng thế à, Cato?


Không hẳn thế.


Nhưng là heroin phải không?


Phải.

Bốn bạn trẻ nằm im trong vài phút, ai nấy đều cố suy nghĩ xem tiếp theo nên nói gì. Cuối cùng Monica cũng lên tiếng:
Các bạn ạ, tuyệt lắm. Tuyệt thật đấy. Đúng những gì mà người ta đã tả. Mình sử dụng cách nào không quan trọng... sụt một cái, nó vào ngay mạch máu chính và thế là có mùa xuân vĩnh cửu. Ta nghĩ LSD mở mang sự hiểu biết...
Trong vài phút liền cô thao thao bất tuyệt, trình bày tính chất ưu việt của heroin, và trạng thái phởn phơ của cô rõ rệt đến nỗi giờ thì Gretchen và Joe biết là hồi chiều Monica và Cato chắc chắn đã chích.
Joe hỏi,
Các bạn đã bắt đầu với cái quán Ấn Độ ở Lourenço Marques ấy, phải không?


Chúng em kiếm được một ít ở Beira nữa, và em còn biết tên một người được đánh giá rất cao trên đảo Moçambique.


Nếu muốn dừng lại ngay bây giờ,
Gretchen hỏi,
các cậu có làm được không?


Dừng lại? Cậu đùa đấy à? Toàn bộ quá khứ của tớ chỉ là khúc dạo đầu thôi, như nhà thơ đã từng nói. Tớ đã phải tiến từng bước từng bước một mới được như thế này, và bây giờ tớ vẫn bình an vô sự.


Nói cho tớ biết đi, Monica, cậu không tiêm vào tĩnh mạch đấy chứ?


Không. Tớ chỉ chích dưới da thôi. Nhưng nếu tớ có quyết định tiêm vào tĩnh mạch thì cũng không việc gì đến cậu cả.

Có vẻ như nói thêm nữa cũng bằng thừa, chiếc pop-top im ắng trở lại, và sau một lúc khá lâu Joe mới lên tiếng hỏi,
Cato, cậu thì sao?

Hiển nhiên là Cato đã chích cho mình một liều nhẹ hơn của Monica hoặc tác động của heroin đối với anh có khác, vì anh tỏ ra rầu rĩ vô cùng:
Theo như cách Holt thường nói ở Pamplona... thường thôi.


Ý tôi là, cậu có thể dừng lại được không nếu chúng tôi quyết định...


Nếu các cậu quyết định? Các cậu là cái thá gì mà đòi quyết định?
Cato ngừng lại một lát, rồi anh bỗng cao giọng nói to hơn,
Cậu tưởng cậu là Người Da Trắng thì chỉ cần nói, ‘Cato, anh bạn da đen thân mến, bỏ cái đó đi,’ thế là tớ phải bỏ đấy à. Này, cậu tưởng cậu là đồ chó đẻ nào? Im mồm đi, kẻ phá đám, nếu không sẽ có người làm cho cậu im mồm đấy.
Anh bắt đầu tuôn ra những từ ngữ đường phố thời xưa, khiến Gretchen phải đưa tay lên che mặt và tự hỏi không biết mình đang gặp phải chuyện gì.
Rồi đèn bỗng bật sáng và Monica leo ra khỏi giường chui xuống nằm cùng Gretchen và Joe.
Các cậu này, nó tuyệt vời nhất đời thật mà. Đó chính là thứ các cậu vẫn tìm kiếm mà không biết đấy. Nó kỳ diệu đến mức các cậu sẽ không bao giờ thỏa mãn với bất cứ thứ gì khác nữa đâu. Nhất là anh, Joe ạ. Chỉ cần nhập cuộc thôi, anh sẽ thấy mọi thứ đều sáng rõ. Anh sẽ có sức mạnh...

Cô nói một cách kích động như vậy gần một tiếng đồng hồ, thuyết phục hai người nằm cùng giường là nếu họ thử một phát tiêm dưới da ngon lành - cô sẽ hướng dẫn cho họ cách làm - họ sẽ không còn bứt rứt khó chịu nữa và mọi việc sẽ trở nên rõ ràng.
Các cậu có thể nhìn xa như đại bàng vậy,
cô nói.
Thí dụ như bây giờ tớ thấy rất rõ tại sao tớ lại bắt đầu mối quan hệ với Cato. Cha tớ đã bị bọn mọi đen xúc phạm...

Joe há hốc miệng kinh ngạc trước cách dùng từ đó của Monica, tưởng rằng Cato sẽ nổi giận, nhưng heroin đã tác động lên Cato như một thứ thuốc thần kinh, và anh đang ngủ, thỉnh thoảng lại vặn vẹo co giật ở giường trên.
Như em đã giải thích,
Monica nói tiếp,
cái tôi của cha em đã bị bọn mọi đen làm tổn thương, và với tư cách một người con trung thành, em đã đảm nhận gánh nặng lương tâm của ông, vì vậy em thực sự căm thù bọn mọi đen. Nhưng em lại muốn làm nhục bản thân theo cách cha em đã bị làm nhục, và cách tốt nhất để làm việc này - thực ra nếu nhìn nhận đúng vấn đề thì là cách duy nhất - là em chấp nhận một tình nhân da đen, cho dù nó ghê tởm đến thế nào đi nữa.


Monica!
Gretchen phản đối.
Cato đang ở trên kia đấy.


Quên Cato đi. Anh ấy chỉ là một công cụ để tớ tự hạ thấp mình thôi.
Cô tiếp tục phân tích với giọng điệu khoa trương đến nỗi hai thính giả của cô không sao hiểu nổi.

Tớ thấy cậu nên đi ngủ đi,
Gretchen khuyên, và Joe giúp cô nhấc Monica lên giường trên, và vừa chạm vào người Cato, cô đã lẩm bẩm,
Tỉnh dậy nào, vị thần Hy Lạp da đen, và làm nhục em đi.
Cô quấy rầy Cato cho đến khi anh thức dậy, và trong một thời gian rất lâu, nằm cách phía dưới khoảng một mét, Joe và Gretchen có thể nghe thấy họ làm tình một cách say đắm và mãnh liệt.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook 6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập).