X - Chương 2
-
6 Người Đi Khắp Thế Gian (Trọn bộ 2 tập)
- James Albert Michener
- 2494 chữ
- 2020-05-09 03:39:55
Số từ: 2478
Thể Loại: Tiểu Thuyết Hư Cấu
Người dịch: Nguyễn thị Bạch Tuyết
NXB Văn Học
Việc bố trí chỗ ngủ ở Bar Vasca có khuynh hướng lộn xộn và tôi sẽ không có lập báo cáo xem ai ngủ trên giường ai... hoặc nói đúng hơn là dưới giường ai. Để làm được như vậy, cần phải có một máy tính bán dẫn, vì có nhiều người đổ đến Pamplona tham gia lễ hội San Fermín đến nỗi đơn giản là không sao đủ giường cho họ, và những người không may đành phải có những điều chỉnh bất thường. Phía Bắc thành phố có một chỗ cắm trại trên sườn đồi trông xuống thung lũng, nhưng lều bạt căng san sát đến nỗi chẳng thể chen thêm chiếc nào vào nữa. Như tình hình này, mỗi lều đã chứa số người nhiều gấp bốn lần bình thường, và khi tham quan khu vực đó người ta phải hết sức cẩn thận để không giẫm phải những cẳng chân thò ra ngoài lều. Một số khoảnh đất rộng được bố trí cho xe moóc đậu nhưng đã chật kín ba ngày trước hôm khai mạc lễ hội. Khá nhiều du khách phải ngủ trên nền đất, vài người ở chỗ khuất gió của bức tượng Hemingway, vì vậy mỗi khi thành viên nào trong nhóm đến quảng trường trung tâm là chúng tôi biết chắc sẽ gặp năm, sáu người đang tuyệt vọng cần chỗ ngủ. Cũng chẳng có gì bất thường nếu Joe và Yigal về quán lúc hai giờ sáng dẫn theo ba hoặc bốn cô gái, chủ yếu là người Canada hay Úc, cho các cô chen chúc cùng nhóm chúng tôi, người ngủ chung giường cùng mấy chàng trai, người nằm dài trên sàn.
Có hai lần tôi về phòng thì thấy mấy cô gái ngủ trên giường mình, mệt lử đến nỗi hầu như không thức dậy khi tôi chuyển họ xuống đất; vì ai cũng biết tôi có phòng riêng, Britta và Gretchen thường trấn an bất kỳ người nào mới quen ở quảng trường,
Ông ấy là người tốt. Cứ vào phòng trước một giờ đêm và đừng nói gì cả.
Phòng trọ của tôi thường la liệt túi ngủ, trong đó có cả nam lẫn nữ, đôi khi nam nữ ngủ chung, và không ai chú ý đến tôi.
Về những người lạ từng đi qua phòng tôi, tôi có thể nói họ đều thật thà, vì tôi không bao giờ bị mất gì; họ cũng sạch sẽ hết mức trong điều kiện đời sống không tắm rửa; và khá nhiều người vẫn còn trong trắng đúng như hồi còn với mẹ ở Úc, Canada hay Texas, nhưng một số cũng nhiều không kém thì không.
Thực ra, trong thời gian lễ hội San Fermín từ
ngủ
chuyển tải một định nghĩa tùy tiện: một việc người ta hiếm khi làm được. Người ta thức giấc lúc năm rưỡi sáng, gặp bạn bè ở quảng trường trung tâm lúc tám giờ, ăn trưa ở đâu đó, đi xem đấu bò vào buổi chiều, ăn tối, đêm đêm xem bắn pháo hoa, nhảy múa ngoài phố cho đến khoảng ba rưỡi sáng, và hai giờ sau đã dậy, đầu óc vẫn tỉnh táo như thường. Khoảng thời gian duy nhất Pamplona tương đối yên tĩnh là từ chín giờ sáng đến mười hai giờ, và chính lúc đó hầu hết chúng tôi tranh thủ ngủ hoặc giặt giũ. Những người sao nhãng việc thứ hai, và số này không phải là ít, thì đến ngày thứ ba đã bắt đầu bốc mùi, nhưng vì chẳng mấy người bọn tôi có cơ hội vào buồng tắm nên ai cũng nặng mùi, vì vậy chuyện không còn quan trọng.
Trên tầng ba Bar Vasca xảy ra chuyện gì liên quan đến tình dục, tôi chẳng bao giờ biết rõ. Tất cả những gì tôi có thể yên tâm mà nói là Cato và Monica vẫn tiếp tục cuộc tình mãnh liệt của họ, được hỗ trợ bởi những chậu cần sa hằng đêm và LSD vào những dịp đặc biệt, một vấn đề không ngừng khiến tôi kinh sợ. Nếu Joe và Yigal vẫn kiềm chế được dục vọng, họ quả có khí chất của người hùng, vì những cô gái tôi thấy họ tiếp xúc đều thuộc loại quyến rũ nhất lễ hội. Một buổi sáng tôi vào phòng họ lấy vé xem đấu bò thì thấy trên giường cậu nào cũng có một cô gái nằm chung và dưới sàn là hai cô khác đang ngủ say. Vì cùng đêm đó hai cô gái khá hấp dẫn cũng ngủ nhờ phòng tôi mà không có sự cố gì nên tôi không muốn vội vã kết luận về những gì có thể hoặc không thể xảy ra với Joe và Yigal.
Căn phòng Britta và Gretchen trọ lại là vấn đề khác. Hai cô gái này cư xử rất thận trọng; Britta không cho phép ai dễ dàng lọt vào giường cô, còn Gretchen vẫn tỏ ra xa cách. Bất cứ người lạ nào chung phòng với họ đều phải là con gái và đang cần chỗ để ngủ một giấc ban đêm không gián đoạn; nhưng trong những việc tôi kể sau đây, tôi không nói đến người lạ.
Vào bữa trưa hôm chúng tôi lần đầu xem Holt chạy với đàn bò, không khí trong quán đột nhiên rộn ràng hẳn lên và tôi nghe thấy Raquel gọi bằng tiếng Tây Ban Nha,
Cậu bé tóc vàng thân yêu, hoan nghênh cậu về nhà.
Ngay sau đó, Monica, đang ngồi quay mặt ra ngoài, bèn đứng bật dậy và lao ra khỏi hốc tường để ôm hôn ai đó. Tôi quay lại và nhận ra Clive với cái túi du lịch đỏ tía, chòm râu giống như của Chúa Jesus và nụ cười dễ thương. Anh đi một vòng quanh bàn, ôm hôn tất cả, không trừ một ai, và tôi nói,
Clive, đây là người bạn lâu năm của tôi và là chuyên gia về Pamplona, Harvey Holt,
thế rồi Clive liền hôn anh khiến Harvey gần như ngã nhào xuống đĩa pochas. Trong khi Holt vẫn còn kinh ngạc, Clive đã cầm lấy thìa của Harvey và kêu lên,
Ngon quá! Raquel, bà vẫn tuyệt vời như xưa. Giờ thì cho chúng tôi mượn máy quay đĩa nào, vì ở đây tôi có mấy bản nhạc hay tuyệt cho bà đây.
Chúng tôi nhường một chỗ cho Clive trong hốc tường, và trong lúc Raquel chuẩn bị máy, anh góp vui cho chúng tôi bằng những tin tức giật gân chấn động London.
Octopus đã tan rã! Phải, giải tán rồi. Nhưng lại xuất hiện một nhóm mới có tầm ảnh hưởng gồm một số thành viên cũ của Octopus. Các bạn phải nhớ tên vì họ tạo ra những âm thanh kỳ diệu nhất mà các bạn từng nghe. Mauve Alligator, và các bạn sắp được thưởng thức giai điệu thần diệu của họ.
Anh thận trọng kéo khóa túi du lịch và nhấc ra một đĩa hát bìa màu xanh nhạt.
Đĩa này phải trải qua cả chặng đường đến tận Marrakech cơ,
anh giải thích,
và đây mới là điểm dừng chân đầu tiên.
Anh nhẹ nhàng đặt kim xuống đường rãnh ngoài cùng, vặn âm lượng gần như hết cỡ, rồi ngồi xuống với nụ cười rạng rỡ trên môi, trong khi những âm thanh cực kỳ mạnh mẽ rộn lên từ loa phóng thanh. Các bạn trẻ không thiết gì đến món pochas nữa mà thả mình vào dòng cảm xúc đang xâm chiếm tâm hồn họ. Holt nhìn tôi nhún vai, rồi hỏi,
Chúng ta vặn nhỏ xuống một chút được không?
Nhưng Clive đã gạt tay anh ra khỏi bảng điều khiển.
Khi mặt thứ nhất của đĩa hát Mauve Alligator hết, Clive cất món đồ quý giá ấy vào túi và cho máy nghỉ vài phút trong lúc anh kể cho chúng tôi, với vẻ bẽn lẽn dễ thương, về một sự kiện lớn mới xảy ra với anh,
Ban nhạc Homing Pigeons đã đến tìm tôi bảo là họ muốn có bài hát mới. Họ vẫn mơ đến đoạn nhạc dạo choáng váng này... các bạn chờ một chút nghe thử nhé. Thứ họ đang ấp ủ là một tập hợp từ được nhắc đi nhắc lại. Một đêm, ở câu lạc bộ, tay guitar chính của họ nghe tôi nói về Torremolinos, Ibiza và con đường âm nhạc vô tận liên kết tất thảy chúng ta. Anh ta nảy ra ý tưởng rằng đây có thể là một khái niệm... vậy đấy, một khái niệm phù hợp với phần nhạc về mặt tinh thần. Tôi bảo muốn nghe lại đoạn dạo của họ, vì vậy họ ghi vào đĩa cho tôi... chỉ vài nhịp... chỉ là một ý tưởng... thế là tôi đến nhà mẹ tôi rồi đặt vào máy nghe suốt ba ngày liền. Mẹ tôi bỏ đến căn hộ của bà ở London. Và khi nhịp điệu đó tràn ngập cả thế giới... Nghe nhé.
Anh lấy từ trong túi ra đĩa nhạc mới nhất của Homing Pigeons, bìa đĩa màu sắc sống động đến dữ dội in hình hai phần ba bức tượng nhân sư, một lát cắt của lăng Taj Mahal, những hình trang trí rạn vỡ trên tường ngôi đền Parthenon, một khu nhà ổ chuột ở Liverpool và khuôn mặt Clive giữa một vòng hoa. Tên album là St. Pauly Ulysses and Me.
Anh viết ư?
Gretchen hỏi.
Clive gật đầu và đặt đĩa vào máy, giữ âm lượng ở mức tối đa, và lần đầu tiên bạn bè anh được nghe ca khúc sau này sẽ vang lừng khắp thế giới. Nó mở đầu bằng nhịp điệu mạnh mẽ của ba cây đàn guitar, không trống, chơi liên miên đoạn dạo. Nó không đơn điệu vì đoạn dạo khá hay và mấy cây guitar tô điểm cho nó bằng nhiều cách mộc mạc, nhưng sau khoảng một phút dạo, một giọng bất mãn, sầu não cất lên những ca từ mà thanh niên ở nhiều nước sẽ thấy thật tâm đắc:
Chắc hẳn Thánh Paul là bậc hiền nhân hiểu rõ
Niềm khát khao, khát khao nửa vời ấy
Được nhìn cả phía bên kia lối rẽ cuối cùng.
Đó là ca khúc của kẻ vỡ mộng, kẻ không bị điều gì ràng buộc đã tung ra lời thách thức những sức mạnh mà họ không thể kiểm soát. Có một đoạn thu hút sự chú ý của tôi vì, mặc dù là một người Anh viết cho một ban nhạc Anh, nó liên quan đến những thứ mà thoạt tiên người ta có thể cho là một đề tài thuần túy Mỹ:
Ta cảm thấy niềm khát khao, khát khao nửa vời ấy
Muốn chơi cho lão Lewis B. khả kính một vố thật đau.
Tại sao một ý tưởng như vậy lại ở trong một ca khúc Anh?
tôi thắc mắc.
Có gì để người nghe bên ấy quan tâm đến đại tướng Hershey?
Ông Fairbanks, có hai lời giải đáp cho thắc mắc của ông,
Clive đáp với sự chính xác thái quá.
Thứ nhất là thính giả của tôi không ở bên ấy, như ông có thể lấy chính nơi này làm ví dụ, trong chúng ta chỉ có vài người Anh. Và thứ hai là chúng tôi rất quan tâm, vì nếu có thể đánh bại tướng Hershey và kế hoạch tuyển quân ngu ngốc của lão ta ở nước ông, chúng tôi cũng có khả năng đánh bại những kẻ như lão ta ở mọi nước.
Còn một lẽ thứ ba nữa,
Gretchen nói.
Một lẽ cốt yếu. Ca khúc này có thể quan trọng ở Nga hay Brazil hơn ở Anh rất nhiều. Chú thấy không, chú George, đĩa nhạc này mang tính quốc tế thực sự đấy.
Rồi cô hạ giọng nói thêm,
giống như chúng ta cũng đậm tính quốc tế... giống như ông, ông Holt.
Clive bật cho chúng tôi nghe mãi đến giờ đi xem đấu bò. Đó là một buổi hòa nhạc rất cuốn hút, và tôi được dịp nhớ lại phạm vi nghệ thuật rộng lớn của nhạc pop hiện đại. Một mặt anh bật âm lượng cực đại như của Mauve Alligator trong sự bùng nổ âm thanh có tên
Sunday Excursion
, mặt khác lại là những bản nhạc vừa ngọt ngào vừa cay đắng như
Dangling Conversation
của Simon và Garfunkel. Để cười vui, anh có màn biểu diễn bằng giọng mũi
Winchester Cathedral
, nhưng đa phần anh trung thành với những bản mới hơn do các ban nhạc Blind Faith, Led Zeppelin và Crosby, Stills và Nash trình diễn.
Sau bữa tối, vài ca sĩ Tây Ban Nha vào quán, và thật lạ là phong cách biểu diễn của họ lại phù hợp dễ dàng đến thế với những gì mà các ban trẻ vừa được thưởng thức. Rồi Gretchen mượn một cây guitar và hát vài khúc ballad cổ, khiến cho một anh thợ đốn gỗ hứng lên nhờ người đi gọi bạn diễn, một thanh niên có khả năng hát giọng kim rất cao, vậy là trong một tiếng đồng hồ hai người ấy đã cho chúng tôi được thưởng thức những bài jota vùng Navarra và Aragón, và chúng tôi nhất trí rằng những tiết mục ấy là hay nhất.
Khoảng hai giờ sáng, chúng tôi lê bước về giường, và vì Pamplona không còn phòng nào trống, chắc chắn cả Bar Vasca cũng vậy - mấy ca sĩ ngồi lại đây suốt đêm, nên trong giấc ngủ chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng họ từ xa vẳng lại - tôi tự hỏi Clive sẽ ngủ ở đâu, và đang định nếu chưa ai có lời thì mời anh chung giường với tôi, nhưng Gretchen đã tế nhị xen vào câu chuyện giữa hai chúng tôi, và bằng cách ra hiệu nào đó mà tôi không thể nhận thấy, cho biết Clive sẽ ngủ trong phòng cô.
Những đêm kế tiếp, anh vẫn quay về đó, và họ thu xếp thế nào với Britta, tôi chẳng bao giờ biết được, nhưng tôi dám chắc trạng thái căng thẳng cho đến lúc bấy giờ vẫn bao trùm lên Gretchen dường như tan biến. Ở quảng trường chính, khi bọn đàn ông quấy phá túm lấy cô, cô không còn giật lùi do hoảng sợ một cách vô thức nữa, và một sáng, khi tôi gặp cô và Clive ra khỏi phòng, mà cô lại tươi cười và tóc cài nơ, tôi tin chắc là nếu người cha khôn ngoan của Gretchen có thể nhìn thấy cô thời khắc ấy, ông sẽ tán thưởng con gái đã hồi phục.