Chương 16


Số từ: 9441
Dịch Giả: Thục Nhi, Song Thu
NXB Trẻ
Nguồn: Sưu Tầm
Tôi ra khỏi nhà, lên xe đạp phóng đi. Qua khỏi dốc Jizo, tôi rẽ vào đại lộ Okubo; Ở cuối con hẻm gần hết con dốc Kagura là một quán rượu Nhật Bản truyền thống, nơi tôi làm việc bán thời gian. Bầu không khí hôi hám ẩm thấp bọc lấy người tôi giống như một lớp màng không thể phá vỡ dù tôi đã cố đạp thật nhanh. Đi từ nhà đến chỗ làm chỉ mất 10 phút nhưng khi đến nơi, áo tôi ướt đẫm mồ hôi, dính bết vào lưng. Các trường đại học đang nghỉ hè, nhưng trên đường phố vẫn đầy những thanh niên nam nữ đi lại tíu tít trò chuyện, trông họ rất giống sinh viên.
Tôi dựng xe đạp ở cuối hẻm, rồi mở cửa quán rượu nói to
Chào ngày mới!
. Dù bây giờ đã là cuối buổi chiều, đây vẫn là câu chào đúng kiểu, ông chủ đang ngồi ở quầy rượu mê mải đọc một tờ báo khổ nhỏ. Ông nhìn lên lầm bầm
Ngày mới
. Một nhân viên bán thời gian khác ngừng lau chùi nhìn lên mỉm cười chào tôi.
Tôi bắt đầu làm việc ở đây hồi đầu năm, lúc vào năm hai đại học. Ca làm việc của tôi từ 5 giờ chiều đến nửa đêm từ thứ Ba đến thứ Bảy. Riêng trong kỳ nghỉ hè, tôi làm việc cả thứ Hai. Tôi được trả công 1.000 yên/ giờ. Sau 9 giờ, tiền công tăng lên 1.300 yên. Khu này có rất nhiều trường đại học nên hầu hết nhân viên làm bán thời gian ở đây đều là sinh viên. Đôi khi, sau khi quán rượu đóng cửa, mọi người đi chơi cùng nhau. Nhưng tôi không bao giờ đi cùng. Dần dần, mọi người cũng biết tôi không phải là kiểu người thích tụ tập nên không rủ tôi nữa.
Quán rượu đông khách nhất trong khoảng từ 7 giờ đến 10 giờ. Từ sau 10 giờ cho đến lúc đóng cửa, khách thưa dần nhưng phần lớn họ đều đã say mềm, nghĩa là chúng tôi vẫn phải bận rộn theo một nghĩa khác. Họ hét gọi phục vụ mà không vì lý do gì cả, hơn nữa còn nôn mửa trong toa-lét. Nhưng tôi không nề hà gì với những việc phát sinh này. Vì tay chân bận bịu, tôi sẽ không có thời gian nghĩ ngợi, hoặc không cần phải buôn chuyện với ai.
Mặc dù công việc kết thúc lúc 12 giờ đêm, nhưng phải đến 12 giờ 20 phút tôi mới chính thức ra về.
Cảm ơn mọi người nhé!
, tôi nói lớn rồi bước ra ngoài. Hơi nóng mùa hè dày đặc trong không khí và bao trùm cả con hẻm. Tôi đang loay hoay mở khóa xe đạp thì nghe một giọng nói sau lưng. Quay đầu lại, tôi thấy một cô gái lạ đang đứng nhìn mình. Tầm 25 tuổi. Mái tóc thẳng dài. Mặc đồ jeans.
Cô gái cười:
Này, Rika!
. Hẳn đã nhận nhầm người quen. Tôi đẩy xe đạp, lờ đi và rảo bước. Nhưng cô cứ đứng chắn trước mặt bắt chuyện vô cùng thân mật:
Em là Rika, đúng không? Em không nhớ chị à? Chị Mahlon nè. Em không nhớ chị chút nào sao?
. Tôi lảng tránh, dắt xe đi dọc theo con đường lớn. Cô gái đuổi theo. Lần này cô gọi đích xác tên tôi:
Em là Erina Akiyama?
. Tôi quay lại. Ánh sáng từ ngọn đèn đường rọi thẳng xuống người cô. Tôi không hiểu điều gì khiến cô gái này phấn khởi đến vậy, trông cô rạng rỡ một cách lạ kỳ.

Em đã sống ở Gia đình Thiên thần, đúng không nào? Chúng mình ở chung phòng trong một thời gian dài. Có thật em đã quên hết rồi không?
Gia đình Thiên thần. Tôi biết cái tên này. Mỗi lần nghe nhắc tới nó, một cảm giác ghê sợ mơ hồ lại trỗi dậy. Nhưng lần này, trước khi cảm giác khinh ghét ập đến, vài ký ức thoáng hiện ra. Những bức tượng búp-bê thạch cao trắng toát, bãi cỏ ngập nắng và một bé gái. Mahlon. Tôi không thể nhớ rõ mọi chi tiết, nhưng rõ ràng trong tôi vẫn còn ký ức về nơi đó.

Đã bao nhiêu năm rồi nhỉ? 15 năm? Không, bây giờ là năm 2005, vậy phải là 18 năm chứ
. Cô gái khẽ chạm tay tôi.
Em có muốn đi uống nước một chút không? Chị thấy có một quán vẫn còn mở cửa ở gần đây
. Cô nói một hơi, không cần nghe tôi trả lời đã giằng lấy tay lái xe đạp dắt đi.
Quán rượu nằm trên con đường chính mà cả hai vừa ghé vào là một trong số những quán rẻ tiền giống như chỗ tôi đang làm việc. Giờ này quán vẫn đông khách. Hai chúng tôi ngồi cạnh nhau ở quầy bar. Khi phục vụ mang bia tới, cô vui vẻ nâng ly với tôi.

Tên thật của chị là Chigusa. Chigusa Ando. Chị vẫn nhớ em rất rõ. Em chẳng thay đổi mấy
. Cả hai gọi thêm vài món đồ nhắm rồi cô tiếp:
Có lẽ em không nhớ, nhưng ở Gia đình mọi người hay gọi em là Rika. Nếu em ghét cái tên này thì chị không gọi nữa. Khi em rời khỏi đó chị chừng 12 tuổi
.
Tôi có cảm giác mơ hồ khi ngồi ở đây uống bia với cô gái xa lạ này. Hiếm khi nào tôi như vậy, nhưng thỉnh thoảng, lúc đang ngồi trong lớp hay ăn tối với Kishida, tôi có cảm giác như ai đó vừa đánh vào đầu mình - mọi thứ bỗng trở nên không có thật.
- Nào, em cố nhớ thử xem. Chúng mình thường chơi trò
công chúa
với nhau. Hầu hết mấy đứa con gái ở đó đều thích đóng vai công chúa, nhưng em thì không - em luôn muốn đóng vai người hầu, như bà bảo mẫu của công chúa hay một nô tỳ trung thành.
Những ký ức hiện ra rồi vụt tắt, như thể những lời nói của cô gái này đang cố kéo chúng ra khỏi đầu óc tôi. Những bát cơm nhựa, hành lang sáng bóng trơn trượt. Tuy nhớ loáng thoáng, tôi vẫn đáp:
- Em xin lỗi, em không còn nhớ gì.
- Vậy thì tệ quá. Mà cũng phải thôi, lúc ấy em còn quá nhỏ. Trên bãi cỏ ở đó có những bức tượng trẻ con kỳ lạ mà người lớn phải lau chùi mỗi sáng.
Chigusa nhón lấy vài miếng cá khô cho vào miệng rồi tiếp tục nói. Dù tôi chẳng nhớ gì về những chuyện cũ và cũng không hiểu sao cô gái muốn gặp mình nhưng tôi vẫn mỉm cười nốc cạn ly bia.
Tôi đã quen với việc có nhiều người lạ tìm đến. Và cũng quen cách đối phó với bọn họ. Tôi sẽ không hỏi han và không trả lời bất cứ câu nào. Chỉ gật đầu và cười. Sau một lúc, họ sẽ chán và bỏ đi. Có thể nói tôi như đang chơi trò đấu trí với họ vậy.
Cả hai gọi ly bia thứ ba. Vẫn nở nụ cười trên môi, Chigusa nhìn thẳng tôi hỏi:
- Em không hỏi gì chị hết à? Sao vậy?
- Sao cơ? Vì em không nhớ được gì hết nên em không biết hỏi gì.
- Nếu em đã quên hết thì em càng phải hỏi để nhớ lại chứ.
- Nhưng nhớ về điều gì? Về cái Gia đình mà chị nói tới đó sao?
- Không chỉ Gia đình mà là tất cả. Nếu chị không nhớ điều gì, chị sẽ muốn tìm hiểu cho bằng được. Ví dụ, chị sẽ muốn biết Gia đình chính xác là gì, tại sao mẹ chị lại gia nhập, hoặc cuộc sống hàng ngày của chị tại đó diễn ra như thế nào. Chị muốn biết hết mọi thứ và nhớ lại mọi điều. Chị sẽ tự hỏi:
Tại sao? Tại sao là tôi? Tại sao tôi không có một tuổi thơ bình thường với một gia đình bình thường? Tôi sẽ chịu những ảnh hưởng gì khi lớn lên ở một nơi như vậy? Tôi thật sự tò mò muốn biết tất cả những điều đó
.
Có nghĩa lý gì đâu khi tìm hiểu về những điều mình không biết, hay nhớ lại những chuyện mình đã quên, tôi vừa tươi cười với Chigusa vừa nghĩ trong đầu.
- Đừng nói với em là chị đang tìm gặp hết mọi người trong Gia đình để nói chuyện với tất cả đấy nhé?
Một cốc bia đầy xuất hiện trước mặt tôi. Tôi uống một hơi hết một phần ba. Chigusa không trả lời mà nói tiếp:
Khi chị bắt đầu tìm hiểu về những chuyện đã qua, chị cứ đau đáu mãi với câu hỏi ‘tại sao’...
. Cô bỗng bỏ lửng câu nói và nghiêm mặt lại. Rồi cô lục tìm trong túi xách đặt dưới chân, lấy ra một cuốn đặt lên quầy bar: đó là cuốn
Ngôi nhà của những thiên thần
. Một dòng in đậm chạy dọc bìa sách
Các thành viên chính thức hé lộ sự thật về cuộc sống của cộng đồng nữ giới
. Tên nhà xuất bản lạ hoắc.
Cô lơ đãng nhìn tôi nhưng giọng nói thì vô cùng sốt sắng:
- Thực ra chị đã tự xuất bản. Ấy vậy mà mấy người biên tập đã buộc chị phải sửa nhiều chi tiết, nên những gì chị thật sự muốn bày tỏ không nằm trong đó. Nhưng chị vẫn muốn viết về Gia đình. Ngay cả khi việc này làm chị càng lúc càng thắc mắc nhiều hơn. Chị vẫn phải biết về những chuyện cũ.
- Ấn tượng đó.
Tôi nói rồi đặt cuốn sách qua một bên, không buồn giở nó ra. Sau đó tôi uống cạn bia và gọi thêm một ly nữa.

Chị cũng thêm một ly nữa nhé!
, Chigusa gọi lớn rồi cũng uống cạn ly của mình.
Và người chị thật sự quan tâm bây giờ là em. Chị tìm em cũng là vì vậy
. Những ngón tay cô dí vào những giọt nước đang nhỏ xuống.
Chị muốn viết về những gì đã xảy đến với em
. Cô nhìn tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi bia từ hơi thở của Chigusa lúc cô cười một tràng dài.
Tôi đẩy xe lên đồi. Điện thoại báo tin nhắn. Tin của Kishida.
Khi nào em về nhà thì nhắn anh nhé
. Tôi tựa vào xe soạn tin trả lời:
Em đang về đây. Chúc anh ngủ ngon
. Kishida trả lời ngay lập tức, màn hình điện thoại bé xíu sáng nháy lên.
Đi đường cẩn thận nhé. Chúc em ngủ ngon
.
Tôi lên xe nhấn mạnh bàn đạp.
Kỳ nghỉ hè năm nay, tôi quyết định làm việc cả tuần trừ Chủ nhật, không phải vì tôi không có việc gì khác thú vị hơn để giết thời gian, mà là tôi muốn tránh gặp Kishida. Bây giờ cả hai chỉ có thể gặp nhau vào các buổi tối cuối tuần. Cứ thế, khi hết hè, có lẽ tôi sẽ không gặp anh nữa. Nếu không gặp anh, tôi sẽ có thể quên anh.
Tôi leo mấy bậc cầu thang. Chờ đợi tôi là căn phòng tối mò. Tôi bật đèn nhà bếp, đèn phòng khách, rồi mở tủ lạnh lấy chai nước lọc uống. Sau đó, tôi tắm rửa, lau khô tóc, thả mình xuống tấm tatami mà đã hai hôm rồi chưa dọn, và bật ti vi lên. Trong thứ ánh sáng lờ mờ từ ti vi, tôi lấy ra cuốn sách mà Chigusa đã nài nỉ tôi cầm về khi cả hai tạm biệt nhau. Có một bức phác thảo thiên thần ngoài bìa. Tôi giơ cuốn sách lên trước mặt và nhìn trừng trừng vào nó dù không có ý định đọc. Tay tôi di qua di lại trên bìa cuốn sách.
Tôi biết mình đã từng sống ở một nơi gọi là Gia đình Thiên thần. Tất nhiên bố mẹ luôn cố giấu tôi điều này nhưng tôi đã được đọc về nó lúc còn học cấp hai. Tôi biết có rất nhiều bài báo viết về
chuyện đó
từ khi tôi còn bé. Mẹ tuyệt đối cấm tôi đọc sách báo dù bà vẫn thường kín đáo đặt mua. Lúc nào đọc mẹ cũng mất bình tĩnh và luôn rít lên:
Sao họ dám sỉ nhục mình như vậy?
, rồi mẹ òa khóc hoặc xé vụn trang báo với vẻ mặt đáng sợ. Mẹ thậm chí không để ý tôi đang quan sát bà. Mẹ là vậy. Bà giấu những thứ mình mang về nhà rồi lại xé chúng ngay trước mặt tôi. Điều mẹ nói và việc mẹ làm luôn trái ngược nhau.
Tôi đã đọc về
chuyện đó
ở thư viện. Khi còn học cấp hai, sau giờ tan học, tôi thường đến thư viện thành phố ngồi đọc. Mỗi tác giả có mỗi kiểu tường thuật về kẻ bắt cóc: ả ranh mãnh quỷ quyệt, một
nữ nhân viên văn phòng
đã tự biên tự diễn vở kịch về tình yêu và lòng thù hận; nạn nhân của ái tình, một người đàn bà đáng thương hại. Không một ai nói nhiều về đứa trẻ bị bắt cóc. Họ gọi người phụ nữ đó là
A
, biến bà thành một kẻ vô danh. Tôi không biết vì những lý do gì mà tất cả các cuốn sách viết về
chuyện đó
đều hầu như không nhắc tới tôi.
Mãi tới năm lên cấp ba, tôi mới nhận ra mình là tiêu điểm tò mò. Bố mẹ, đặc biệt là mẹ, luôn cố gắng bảo vệ tôi. Nhưng rủi thay, mẹ không biết cách xử lý những mâu thuẫn nội tâm của mình. Thế là trong khi mẹ cho rằng đang bảo vệ tôi thì thực chất mẹ lại đẩy tôi vào những rắc rối. Cụm từ
được một kẻ bắt cóc nuôi dưỡng
đã theo tôi khắp nơi, ở bất cứ nơi đâu chúng tôi chuyển đến và bất kỳ ngôi trường mới nào. Nó giống như một con ruồi cứ vo ve bên bạn dù bạn đã cố xua nó đi. Hoặc là tôi đã buộc mình phải nghĩ về nó như vậy. Tôi định ninh không có mối liên hệ nào giữa tính khí bất thường của tôi với đứa trẻ bị bắt cóc mà tôi đọc được trong những bài viết kia.
Chính nhờ những bài báo, tôi mới tìm lại được phần ký ức ấu thơ mà tôi đã gần như quên lãng. Có những chuyện tôi chỉ biết mình đã trải qua sau khi đọc thông tin về chúng. Tuy nhiên, không có bất kỳ bài viết nào liên hệ giữa đứa trẻ bị bắt cóc với con người hiện tại của tôi bây giờ.
Tôi nghĩ về Chigusa lúc chị loạng choạng bước ra khỏi quán rượu, vẫy một chiếc taxi và nói lớn:
Hẹn gặp lại nhé!
. Hẹn gặp lại nhé. Chị ấy sẽ tìm mình hỏi chuyện nữa sao?
Tôi tắt tivi rồi tăng máy điều hòa thêm một độ. Tiếng cánh quạt bên ngoài nghe khá rõ. Một mảnh nhỏ của mớ ký ức nhạt nhòa trở về trong tôi. Tiếng cười khúc khích cất lên trong bóng tối.
Này, em đã ngủ chưa?
. Một giọng trẻ con khàn khàn hỏi. Tôi nhìn thấy những đôi tay nhưng không biết tay ai, và một vài bàn tay bé xíu với tới người tôi. Tôi còn nghe thấy những tiếng nói gọi tôi là Kaoru, đôi lúc là một cái tên khác.
Cô gái tự xưng là Chigusa đó đã bảo rằng cô muốn tìm hiểu những gì mình không biết, muốn nhớ những gì mình đã lãng quên. Tôi chưa bao giờ muốn vậy. Tôi luôn tin đào bới quá khứ thì chẳng mang lại điều gì tốt đẹp, và đến giờ tôi vẫn tin như vậy. Nhưng giờ đây, lúc nằm một mình trong căn hộ, nhắm mắt chờ đợi giấc ngủ đến, những lời nói của cô ấy lại vang dậy trong tôi, những từ ngữ lặng lẽ nhưng ám ảnh không thôi: Tại sao? Tại sao lại là tôi?
Khoảng 11 giờ, Kishida đến quán rượu tìm tôi. Lúc anh bước vào, tôi hỏi theo thói quen:
Quý khách đi mấy người ạ?
. Mãi tới lúc anh gọi
Eri
, tôi mới nhận ra anh. Tôi chỉ anh ngồi vào quầy bar và đưa anh tờ thực đơn.
Tôi nói khẽ:
- Anh làm em bất ngờ quá.
- Lâu lắm rồi anh không gặp em, nên anh đến đây.
- Kishida phân trần lúc nhận tờ thực đơn, rồi anh nhìn tôi. - Anh uống bia và đậu luộc. Còn món nào ngon không em?
Tôi lầm bầm:
- Còn có món đậu phụ tự làm hoặc bánh hấp nhân thịt gà.
- Nửa đêm là em xong việc, đúng không? Sau đó em rảnh chứ?
Tôi không trả lời câu hỏi của Kishida mà gọi vọng vào trong:
Bia, đậu luộc, bánh nhân gà!

Có ngay!

Một nhân viên phục vụ khác đáp lớn từ vị trí của mình. Tôi gật đầu lấy lệ với Kishida rồi vội vã vào bếp.
Kishida định đến chỗ mình, tôi nghĩ. Hai người sẽ làm chuyện đó một cách chóng vánh, sau đó anh nhìn đồng hồ rồi về nhà lúc 1 giờ hơn. Và tôi sẽ không giữ anh lại. Tôi có thể quên Kishida nếu anh đừng xuất hiện trước mắt tôi như vậy. Nhưng ngay lúc tôi gặp anh, những kỷ niệm mà tôi đã cố quên lại ồ ạt tràn về. Tôi rót bia vào ly rồi chuyền cho anh.
- Nếu anh hứa ở lại thì được. - Tôi nói nhanh để ông chủ đang đứng sau quầy bar không thể nghe thấy.
- Anh sẽ ở lại. - Kishida cười.
Nói dối. Kishida nói dối như không. Tôi biết điều đó nhưng cứ để anh lừa mình hết lần này đến lần khác. Tối nay anh cũng sẽ lừa tôi như vậy.
Tôi gặp Kishida ở chỗ làm hồi năm ngoái. Bố mẹ kịch liệt phản đối việc tôi chuyển ra ngoài ở nên đã từ chối chu cấp cho tôi trừ khoản học phí. Tuy nhiên, cuối cùng bố mẹ cũng chịu trả giúp tôi tiền thuê nhà. Nhưng tôi vẫn phải kiếm tiền để lo chi phí sinh hoạt hằng ngày, nên ngay khi vào đại học, tôi đã xin làm việc ở văn phòng của một trường luyện thi vào tiểu học và trung học. Kishida là giáo viên dạy ở đó.
Anh rủ tôi đi chơi lần đầu tiên vào tháng Năm năm ngoái. Tôi bảo mình phải tự lo sính hoạt phí, thế là anh trả tiền ăn cho tôi từ đó. Lần đầu tiên chúng tôi vào khách sạn tình yêu là vào đợt luyện thi hè; rồi khi kỳ nghỉ hè kết thúc, tôi phát hiện anh đã có vợ. Năm nay Kishida 30 tuổi - hình như vợ anh kém anh một tuổi và anh còn có một đứa con lên hai. Phải thừa nhận rằng thái độ của tôi khi đó rất kỳ lạ, lúc phát hiện ra, tôi đã cười lớn. Tôi nhận ra mình đang đi theo đúng "lộ trình" của "người đàn bà đó", người đã nuôi dưỡng tôi, người mà tôi đã đọc rất nhiều bài báo viết về bà. Một sự trùng hợp kỳ lạ dù cả hai chẳng có quan hệ máu mủ với nhau. Tôi đã cười nhạo chính bản thân mình vì sự trùng hợp này.
Không chỉ giống bà về việc phải lòng một người đã có gia đình, mà tôi còn hành động theo chính xác những gì
người đàn bà đó
đã làm. Tôi bỏ việc ở trường luyện thi với hy vọng sẽ không bao giờ gặp lại Kishida nữa. Tất nhiên mọi việc chẳng bao giờ dừng lại dễ dàng đến vậy. Anh không ngừng gọi cho tôi, và tôi không thể từ chối các cuộc gọi của anh.
Tôi không biết yêu nghĩa là gì, hay được yêu nghĩa là gì. Tôi đã có bạn trai khi còn học trung học, và đã quan hệ từ lúc đó. Kishida không phải là người đàn ông đầu tiên, cũng không phải là tình yêu đầu tiên của tôi. Nhưng đến tận bây giờ, tôi vẫn không thể lý giải nổi hành động của mình. Tôi có thể quên anh nếu cả hai đừng gặp nhau, nhưng hễ anh xuất hiện, tôi lại mụ mị và để anh cuốn tôi đi.
- Anh thật sự rất mong gặp em. - Kishida thì thầm khi tôi đặt thức ăn xuống trước mặt anh. Tôi liếc nhanh ra sau quầy, ông chủ đang cười đùa với một nhân viên làm bán thời gian khác. - Em không muốn gặp anh sao, Eri?
Tôi kìm hai chữ
Muốn chứ
rồi gằn giọng:
Em đang làm việc
trước khi lui về sau quầy bar. Nhìn thấy một chồng đĩa trong bồn rửa, tôi hấp tấp đặt vào máy rửa bát...
Mình sẽ lặp lại những chuyện xảy ra năm ngoái hay sao? Tôi lưỡng lự lúc thay bộ đồng phục. Kishida đến chỗ tôi, rồi rời đi lúc nửa đêm; tôi chờ mong anh gọi điện nhưng chỉ hoài công - tôi không màng đến tất cả những điều đó. Tôi đã quá quen với việc này rồi. Tôi đã quen với việc không nhận được những đối xử ngọt ngào và công bằng mà một người phụ nữ đang yêu lẽ ra có được. Tôi chịu đựng được hết. Tôi chỉ không chịu được ý nghĩ việc mình ngóng đợi Kishida cũng giống hệt như việc
người đàn bà đó
đã ngóng đợi bố mình.
Người đàn bà đó
đã yêu bố tôi đến điên dại.
Người đàn bà đó
đã làm náo loạn cuộc sống của gia đình tôi. Tôi thật sự lo sợ rằng nếu mình quá yêu một người, mình cũng sẽ có những hành động ngốc nghếch như bà. Ý nghĩ đó thật sự khiến tôi hoảng sợ.

Ngủ ngon nhé!
, tôi chào lớn từ phòng thay quần áo.
Ngủ ngon!
- Nhiều tiếng trả lời đáp lại từ các góc khác nhau của quán rượu. Có lẽ Kishida đã trả tiền và đang đợi tôi bên ngoài. Vừa muốn nhưng lại vừa sợ gặp anh nên tôi ra ngoài qua lối cửa sau. Bất thình lình có ai đó gọi
Rika
. Đó là Chigusa. Cô tươi cười:
Đi uống bia nữa chứ?
.

Để?...
, tôi vừa định hỏi thì thấy bóng Kishida nhấp nhổm đợi.
Được rồi, đi thôi
. Tôi mở khóa xe đạp rồi cuống quýt giục Chigusa.
Đi thôi. Đi thôi
.

Xin lỗi anh. Tối nay em bận đi uống nước với bạn rồi
, tôi bảo với Kishida rồi gật đầu chào anh. Chigusa vừa đi vừa ngoái lại nhìn Kishida, một tay chị vẫn để trên tay lái. Tôi ngăn mình nhìn lại phía sau.
Khi cả hai vừa ra khỏi con hẻm, Chigusa quay nhìn lại Kishida lần cuối rồi nói:
- Rika, người đó là bạn trai em à? Anh ấy có vẻ giận lắm.
Tôi nghe giọng mình gắt lên:
- Chị đừng gọi tôi vậy nữa có được không?
- Chị xin lỗi. Vậy em muốn chị gọi là gì?
- Gì cũng được. Gọi là Akiyama đi.
- Em đang có chuyện không vui hả? Hay em muốn đi với anh ấy? Chị không phiền đâu.
Chigusa lại ngoái đầu ra sau, trông chị có vẻ lo lắng vì nghĩ mình đã làm phiền. Tôi nhìn chị cười:
- Không cần lo đâu. Anh ấy không phải là bạn trai em. Mình mau tìm một quán rượu nào đi. Có thể anh ấy sẽ đuổi theo em.
- Ồ, vậy anh ấy là cái đuôi à? Có lẽ chị nên đưa em về nhà cho an toàn, Rika... à, Akiyama.
Tôi nhìn chị dò xét rồi trả lời:
- Được thôi, sao lại không?
Tôi chỉ định rủ Chigusa đi cùng đến gần căn hộ chứ không cho vào nhà, uống say rồi thế nào cũng ở lại cả đêm cho mà xem. Nhưng giờ thì chị đang ở đây, nằm ườn trên chiếc futon của tôi và ngủ say như chết. Tôi không thề chợp mắt nên ngồi dưới chân chị, vặn nhỏ tivi xem.
Không hiểu vì lý do gì tôi lại không thể từ chối Chigusa. Liệu có phải vì chị không hề né tránh tôi như những người khác dù tôi rất hay lạnh lùng, hay là vì chúng tôi đã từng sống cùng nhau như chị đã kể?
Có vẻ Chigusa rất nghiêm túc về ý định muốn viết một cuốn sách khác. Lần này chị không cần nhờ công ty biên tập tư nữa, đã có một nhà xuất bản lớn làm điều đó. Nhà xuất bản gần như chấp nhận mọi đề nghị của Chigusa, họ giúp chị tìm địa chỉ của tôi, thậm chí tên ngôi trường tôi đang theo học. Chigusa đã lảng vảng quanh cổng trường suốt kỳ nghỉ hè, bắt chuyện với những sinh viên đăng ký ở lại ký túc xá để tham gia các hoạt động hè của câu lạc bộ cho tới khi chị tìm thấy tôi ở quán rượu tại Kagurazaka.
Thẳng thắn mà nói, tôi thấy xấu hổ với chính mình. Chigusa chẳng khác gì những phóng viên đã săn đuổi gia đình tôi suốt nhiều năm qua. Chị cũng là một con ruồi như bọn họ thôi. Dù thế tôi đã không đuổi chị đi, có thể vì những lời chị nói hôm trước vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.
Tại sao? Tại sao là tôi?
Túi xách của Chigusa nằm trên sàn, miệng túi mở toác, vài thứ trong đó rơi ra ngoài: sổ tay, hộp bút, điện thoại và vài tập tài liệu dày cộm. Tôi liếc Chigusa, đoán chắc chị vẫn ngủ rồi với tay tới chiếc túi. Nhặt lên tập tài liệu dày nhất, tôi thận trọng mở nó ra. Đúng như tôi nghĩ, đó là một xấp bài viết và tin tức về sự kiện bắt cóc. Những bài báo dài dằng dặc đó không làm tôi thấy ngạc nhiên mà chỉ gây cảm giác khó chịu. Tôi thậm chí không muốn nhìn bức ảnh mờ của
người đàn bà đó
. Tôi cũng không cho phép mình đọc những dòng chữ để cố tìm hiểu chúng.
Mỗi lần thử nhớ về bà ấy, tất cả những gì hiện lên trong tôi là khuôn mặt mờ nhạt của bức hình đăng trên tất cả các trang báo và tạp chí. Tôi đã quên mất khuôn mặt thật sự của bà. Giọng nói của bà.
Dáng hình của bà. Tôi cũng không thể nhớ nổi khuôn mặt của chính mình. Tôi không thật sự nhớ mình trông như thế nào. Tất nhiên, khi soi gương, tôi có thể thấy một phụ nữ với khuôn mặt trái xoan, đôi mắt sâu, cặp môi mỏng và mái tóc ngắn. Nhưng khi quay đi, tôi lại quên mất. Hay đúng hơn là tôi không thể tin khuôn mặt vừa nhìn thấy trong gương đó lại đang chễm chệ trên cổ mình. Khi tôi cố nhớ ra nó, một khoảng trống đen ngòm xuất hiện trước mắt tôi: một gương mặt trắng toát và nhẵn nhụi. Đó là tất cả những gì tôi hình dung được.
Có thể nào... Nếu tôi kể với Chigusa tất cả những gì mình nhớ được thì dù chúng thật mơ hồ và rời rạc, tôi cũng sẽ thấy được khuôn mặt thật sự của mình? Tôi sẽ nhớ lại toàn bộ quá khứ chứ không phải những gì đọc được trên báo? Tôi sẽ nhớ lại khuôn mặt bà ở ngoài đời thực, chứ không phải là bức ảnh cũ kỹ được chèn vào trang báo?
Tôi tắt đèn, nằm xuống một chỗ trống. Trong ánh sáng nhấp nháy và đổi màu liên tục từ chiếc tivi, tôi dán mắt vào những dòng chữ trong tập tài liệu. Tôi vẫn không muốn đọc nhưng tôi ép mình phải đọc.
Kiwako Nonomiya.
Sinh năm 1955 ở Odawara, quận Kanagawa. Cô học ở một trường cấp hai công lập tại địa phương, rồi học trường nữ sinh tư thục cấp ba, sau đó chuyển đến Tokyo học Đại học Nữ sinh T. Các bạn học của Kiwako cho hay cô là một sinh viên ít nói, nghiêm túc và tốt bụng - một sinh viên ngoan.
Kiwako tham gia câu lạc bộ trượt tuyết ở một trường đại học khác và có lẽ đã bắt đầu hẹn hò. Nhưng vì cô không bao giờ giới thiệu bạn trai hay đi chơi qua đêm, không ai biết nhiều thông tin về người bạn trai này. Một người bạn học cũ cho biết:
Cậu ấy rất xinh nên chắc chắn được nhiều người theo đuổi, nhưng tôi nghĩ cậu ấy không thật sự có ý định nghiêm túc với bất cứ ai
.
Sau khi tốt nghiệp, Kiwako xin được việc làm ở Phòng phát triển sản phẩm của tập đoàn K, một hãng sản xuất đồ lót. Cũng trong năm đó, mẹ cô qua đời vì xuất huyết não. Bốn năm sau, cô được phân công sang Phòng Quan hệ công chúng. Bộ phận này chịu trách nhiệm về mối quan hệ với báo chí và khách hàng, cũng như soạn tài liệu quảng bá sản phẩm và những tài liệu công bố khác; Kiwako phụ trách biên tập bản tin hàng tháng của công ty.
Trong bản tin này có một mục dành để giới thiệu nhân viên mới. Đó là một bài viết ngắn giới thiệu những nhân viên vừa mới gia nhập công ty hoặc những nhân viên được thuyên chuyển từ các chi nhánh đến văn phòng Tokyo kèm ảnh của người đó. Kiwako đã đến gặp Takehiro Akiyama, người vừa chuyển đến Tokyo từ chi nhánh Nagano, để viết bài giới thiệu.
Akiyama hơn Kiwako 4 tuổi, sinh ở Nagano và theo học một trường cấp ba công lập của địa phương. Năm 1969, sau khi tốt nghiệp đại học, anh gia nhập tập đoàn K và làm ở Phòng kinh doanh. Năm 1979, ở tuổi 28, Akiyama kết hôn với Etsuko Tsuda, một nhân viên làm bán thời gian ở tập đoàn K. Etsuko sinh năm 1953, kém chồng 2 tuổi.
Năm 1982, vì những thành tích kinh doanh xuất sắc, Takehiro được chuyển đến văn phòng Tokyo.
Kiwako đã mắc lỗi trong bài giới thiệu về Takehiro: cô để nhầm hình Takehiro với một nhân viên trong bản tin tháng sau. Lúc cô đến gặp để xin lỗi, Takehiro đùa: "Cô phải dẫn tôi đi ăn tối để tỏ rõ thành ý chứ?". Và họ đã đến với nhau như vậy.
Lúc đó, Takehiro đang sống ở Tokyo một mình. Khi chuyển đến đây, anh chưa thuê được nhà nên vẫn để vợ lại Nagano và sống tạm trong chỗ ở dành cho nhân viên của công ty, đồng thời dành các ngày cuối tuần để đi tìm nhà.
Kiwako tưởng lời nói đùa của Takehiro là nghiêm túc, nên cô sốt sắng mời người đồng nghiệp mới đi ăn tối. Cho dù cuộc hẹn hôm đó chỉ thay cho lời xin lỗi chứ không có ý gì nhưng cuối cùng Kiwako lại có một bữa tối vui vẻ hơn mong đợi.
Từ đó, họ bắt đầu hẹn hò, tất nhiên Takehiro là người chủ động. Chủ nhật nọ, Takehiro dẫn Kiwako đến sở thú ở Ueno và tại đó, anh ta đã thú nhận mình là người có gia đình. Kiwako ngay lập tức quyết định chấm dứt mối quan hệ của hai người, nhưng hai tuần sau, trong ngày sinh nhật cuối tháng Sáu của cô, hai người đã gần gũi nhau.
Takehiro đến căn hộ của Kiwako ở Kichijoji thường xuyên hơn, họ gần như đã sống chung. Trong những ngày nghỉ, hai người thường cùng nhau đi tìm nhà. Takehiro nói dối Kiwako rằng đây là căn hộ mới dành cho hai người, nhưng thực ra anh đang tìm nhà để đón vợ lên Tokyo.
Kiwako đã để cho Takehiro quyết định mọi thứ. Vào thời điểm này, không có nhiều nhân viên thuộc chi nhánh của tập đoàn K chuyển đến Tokyo. Với Kiwako, một người chỉ biết lựa chọn những bước đi an toàn nhất trong cuộc sống, thì sự táo bạo của Takehiro khiến cô thấy cuộc sống thi vị hơn nhiều. Còn với Takehiro, một người vừa chuyển đến Tokyo thì những thứ ở đây đều mới mẻ; anh đã dẫn Kiwako đến những quán rượu và sàn nhảy nổi tiếng lúc bấy giờ, ngược lại, Kiwako cũng thấy hào hứng hơn khi tiêu khiển thời gian rảnh rỗi của mình theo cách này.
Tháng 7 năm 1982, cuối cùng Takehiro cũng tìm được một căn hộ ở khu Suginami và đón vợ đến Tokyo. Khi đã ổn định chỗ ở mới, Etsuko bắt đầu làm việc bán thời gian cho một siêu thị gần nhà. Cuộc sống của hai vợ chồng Akiyama ở Tokyo có vẻ êm ấm. Nhưng Takehiro vẫn không ngừng gặp gỡ Kiwako; anh qua đêm ở căn hộ của người tình ít nhất hai tuần một lần.
Suốt thời gian đó, cụm từ
ly hôn
bắt đầu xuất hiện thường xuyên trong những câu chuyện của hai người.
Giá mà anh gặp em trước

Anh đang nghĩ đến chuyện ly hôn

Nếu chúng ta làm rõ mọi chuyện trước khi bọn anh có con sẽ tốt hơn cho vợ anh
. Takehiro đã lặp đi lặp lại với Kiwako như vậy, và cô cũng bắt đầu tưởng tượng về một tương lai tươi sáng, khi họ có thể sống với nhau danh chính ngôn thuận.
Mùa thu năm 1983, sau một năm rưỡi quen nhau, Kiwako phát hiện mình đã mang thai với Takehiro.
Tôi nghe tiếng chân Chigusa trong căn bếp nhỏ xíu. Chị sập mạnh cửa tủ đựng chén bát dưới bồn rửa rồi mở tủ lạnh. "Này, tủ lạnh trống trơn! Em ăn uống kiểu gì vậy?". Chị tò mò xoay người nhìn tôi hỏi, lúc này vẫn nằm dài ở phòng bên cạnh. "Em không nấu ăn ở nhà. Gần đây có cửa hàng tiện lợi, buổi tối thì em ăn ở chỗ làm". "Thanh niên bây giờ tệ thật", chị thở dài như thể quên mất mình cũng mới hơn 20 tuổi, sau đó vui vẻ đề nghị "Mình ra ngoài ăn sáng ha?". Không hiểu Chigusa lấy đâu ra năng lượng để có thể tươi tỉnh lúc sáng sớm như vậy. Vì cả đêm gần như không ngủ được, tôi vờ như không nghe thấy, kéo chằn trùm đầu. Chigusa giật mạnh tấm chăn và ngồi xuống bên cạnh lay người tôi: "Thôi nào, dậy đi. Đi ăn sáng thôi!". "Chị cứ nói mãi vậy? Được rồi. Em biết rồi. Em dậy đây. Em dậy ngay đây", tôi làu bàu miến cưỡng chui ra.
Chúng tôi ngồi đối diện nhau trong một quán cà phê sáng nhờ nhờ thưa khách. Chị gọi một phần ăn sáng, còn tôi chỉ uống cà phê. Ngay lối vào có một ô cửa sổ giống như vòm cổng. Nắng rọi qua đó chói lòa làm khung cảnh bên ngoài tối mờ đi.
Tôi hỏi:
- Chị đang làm nghề gì, chị Chigusa?
Chigusa trả lời một cách tự tin:
- Chị không làm gì cả. Chị đang bận rộn với cuốn sách mới này rồi.
- Vậy chị lấy đâu ra sinh hoạt phí?
- Mẹ chị lo hết.
- Thật á? Mẹ chị làm gì vậy?
- Mẹ chị có mấy căn hộ cho thuê. Gia đình gọi mẹ là Dan, chắc em không nhớ đâu. Rời Gia đình rồi, mẹ chị luôn thấy lương tâm cắn rứt, cảm thấy có tội vì đã buộc chị sống ở một nơi như thế trong chừng ấy năm. Vì vậy, bà chẳng than phiền gì về chuyện chị không chịu đi làm. Hình như mẹ sợ chị. Vậy đó, coi như chị làm ơn cho mẹ, để mẹ chu cấp cho mình. Nhờ vậy bà mới thấy thanh thản hơn.
Bà phục vụ lớn tuổi mang đến các món chúng tôi vừa gọi: cà phê cho tôi và bánh mì trứng cuộn cho Chigusa. Chị phết mứt dâu vào bánh. Tiếng nhạc cổ điển trỗi lên khắp quán.
Lúc Chigusa liếm chỗ mứt dây ra tay, tôi hỏi:
- Chị có ghét mẹ chị không?
Chị đáp nhanh:
- Chị không có quyền yêu hay ghét. Dù gì bà ấy cũng là mẹ chị mà.
Sau đó nói thêm:
Nhưng mà phải mất một thời gian dài chị mới hiểu được điều này
. Nói xong chị lại im lặng, cắm đầu vào đĩa thức ăn, rồi bất thình lình ngẩng lên hỏi:
- Còn em nghĩ gì?
- Em nghĩ gì à? Chị muốn hỏi về chuyện gì?
Chigusa nhìn tôi, hai mắt mở lớn:
- Tối qua em đã đọc hết mà, tập tài liệu của chị đó.
Ngay lúc đó, tôi nghe văng vẳng bên tai một giọng trẻ con gọi tên mình:
Rika
. Khuôn mặt tròn. Những sợi tóc mềm nâu óng ánh trong nắng.
- Mấy chuyện đó em đã đọc từ lâu rồi. Chẳng có gì mới hết.
- Nghĩa là em đã biết hết rồi à?
- Mẹ em vẫn lén mua sách báo về nhà. Bà giấu không cho em biết nhưng lại xé chúng trước mặt em. Lúc đó em mới học cấp hai, vẫn còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để tò mò. Phản ứng tự nhiên mà, đúng không? Thế là em tìm đọc trong thư viện.
Chigusa thở hắt ra, buông người xuống ghế.
- Vậy thì, Rika, à Erina, em đã biết tất cả về cô
Ru...
- Cô Ru?
- Người bắt cóc em, Kiwako Nonomiya.
- Ồ, là người đó. - Tôi nói rồi lấy từ trong túi quần ra một gói thuốc. - Vâng, em biết bà ấy. Biết nhiều không kém những tên tội phạm khét tiếng khác.
Tôi châm thuốc hút; lúc tôi nhả khói, một người đàn ông mặc com-lê đọc báo ngồi bàn kế phản ứng bằng cách ho khù khụ. Tôi lờ đi và tiếp tục hút. Chigusa nhăn mặt nhíu mày như muốn phản đối. Tôi lấy làm khó chịu:
- Chị sao thế? Chỗ này được phép hút thuốc mà?
- Nhưng mà Rika, lúc chúng ta sống cùng nhau em là một cô bé nhỏ, vậy mà giờ em hút thuốc! Chị không ngờ nổi. - Chigusa kêu lên thảng thốt. Rồi chị lục trong túi xách, lấy ra một cuốn sổ tay và đặt nó lên bàn.
Lần đầu tiên đọc những bài viết đó, em đã nghĩ gì? Và bây giờ em nghĩ gì?
. Có vẻ chị đã chính thức xem mình là một nhà văn.
- Chẳng gì đặc biệt. Em coi như không quen biết họ... Nói vậy thôi, chứ đó cũng là bố em nên tất nhiên có nhiều lúc em rất bực bội. Bố em đã nói gì chứ, đã thế còn chường mặt lên khắp các báo. Nhưng em không tin những bài viết đó đều nói đúng sự thật. Ý em là, người đàn bà đó có lên tiếng gì đâu sau khi bị bắt? Bố em thì không nói rồi, ông ấy ruột để ngoài da. Nhưng mà thật sự họ dựng chuyện quá giỏi. Chị có nghĩ vậy không? Cách viết của họ quá chủ quan, một vài chuyện có lẽ còn do họ tự thêm vào. Nếu vậy thì còn gì để nói đâu?
Chigusa nhìn sững tôi, tay vẫn nắm chặt bút.
- Gì vậy?
- Em quả là... - Chị mấp máy môi.
- Quả là sao?
- Ừm, nói sao nhỉ. Em rất khách quan về chuyện đó. Thật dửng dưng.
- Ừ, phải vậy thôi. Bởi vì em nghĩ mình chẳng dính líu gì ở đây. Đặc biệt là chuyện giữa bố em và nhân tình của ông ấy. Lúc đó em còn chưa sinh ra mà, chẳng có mối liên hệ thật sự nào cả. Chẳng có gì. Còn chuyện bắt cóc thì... nó chẳng liên quan gì đến việc ngoại tình, nên em nghĩ...
Một cảm giác lạ lùng. Tôi chưa từng tâm sự với bất kỳ ai về chuyện này. Tâm trạng của tôi lúc đọc những bài viết đó, ảnh hưởng của nó đến tôi, và cảm nghĩ của tôi bây giờ: đó là những điều thầm kín mà tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ thổ lộ với bất cứ ai, kể cả những người thân thiết nhất. Vậy mà ngay lúc này, ngay tại đây, ở một góc quán tăm tối này, tôi lại kể tuốt tuồn tuột với một người không mấy quen biết, hơn thế còn cảm thấy thoải mái khi làm vậy. Ở đâu đó tận sâu trong lòng, tôi vui sướng vì được bày tỏ cảm xúc của mình. Chị hãy nghe những gì tôi thổ lộ. Hãy để tôi kể chị nghe tất cả mọi thứ, mọi chi tiết. Tôi muốn như vậy.
Người đàn ông ở bàn bên cạnh đã đứng lên trả tiền và rời khỏi quán. Cả hai lơ đãng ngó ông ta rời đi. Cánh cửa mở ra, nắng ùa vào rực sáng. Tôi thấy chói mắt trong một lúc. Rồi cánh cửa đóng lại, trả lại quán thứ ánh sáng lờ mờ.
Chigusa xoay lại nhìn tôi:
- Vậy chính xác là em nhớ gì về chuyện bắt cóc?
-À...
Điện thoại reo trong túi. Có tin nhắn. Có lẽ là của Kishida. Tôi định mở máy thì bà phục vụ lớn tuổi chạy đến nhỏ nhẹ yêu cầu:
Xin lỗi, cô có thể ra ngoài sử dụng điện thoại được không?

Ồ, cháu xin lỗi
. Tôi tắt máy và cho lại vào túi. Khi tôi nhìn lên, Chigusa đang cười và lè lưỡi trêu tôi. Tôi cũng phì cười.
Chigusa giục:
- Em nói tiếp đi.
Tôi hớp một ít cà phê nguội rồi kể tiếp.
Ký ức của tôi về vụ bắt cóc bắt đầu từ cái ngày những người tôi không hề quen biết dẫn tôi đến một bến cảng xa lạ. Họ đã dẫn tôi lên tàu đến Okayama, rồi nhét tôi vào một chiếc ô-tô. Và rồi lần đầu tiên trong đời, tôi ngồi trên tàu cao tốc. Ký ức của tôi về vụ bắt cóc không phải là những gì xảy ra trước ngày hôm đó, mà là ngay chính ngày hôm đó và về sau này.
Từ trên tàu cao tốc, những khung cảnh tôi nhìn thấy qua ô cửa cứ lao đi vùn vụt. Với một cô bé bốn tuổi như tôi, điều này thật hãi hùng, tôi quay mặt đi không dám nhìn ra ngoài thêm lần nào nữa. Khung cảnh bên ngoài lạ lẫm và đáng sợ như chính nơi tôi đang ngồi vậy. Người phụ nữ ngồi cạnh tôi thủ thỉ dịu dàng. Tôi không hé lời nào. Ai đó bế tôi ra khỏi tàu. Những ánh đèn chớp lia lịa làm tôi lóa mắt, tôi tưởng mình sắp chết đến nơi. Lúc đó tôi không hề biết đó là những ánh chớp của máy ảnh. Người phụ nữ đang bế tôi ép mặt tôi vào ngực bà. Không thở được, tôi quay đầu ra ngoài và thấy một đám đông đứng chắn ngay trước mặt cùng hàng loạt ống kính máy ảnh chĩa thẳng vào mình. Tôi hoảng loạn thật sự, cố ngăn mình hét lên.
Tôi không nhớ tuần tự của những sự kiện xảy ra sau đó. Ký ức của tôi như một thước phim bị cắt thành nhiều mảnh rồi chắp vá rời rạc lại với nhau.
Tôi được đưa vào một khách sạn và đón những
người thân
đến nhận mình: đó là một phụ nữ trông như cây bút chì chuốt nhọn, một người đàn ông cao nghều và một bé gái trạc tuổi tôi. Vừa bước vào phòng, người phụ nữ ào đến ôm chầm lấy tôi. Bà không ngớt gọi tôi bằng một cái tên tôi chưa nghe thấy bao giờ. Rồi bà bật khóc. Người đàn ông chỉ đứng nhìn tôi, lóng ngóng không biết làm gì. Đứa bé gái nắm tay người đàn ông nhìn tôi chằm chằm, nhưng khi tôi nhìn nó, nó quay ngoắt đi. Lúc này, người phụ nữ không khóc nữa mà đã gào lên. Nỗi sợ hãi lúc này đã lên đến đỉnh điểm, tôi đứng chết lặng và tè cả ra quần. Ngay lúc nhận ra đứa bé mình đang ôm đã tè ra quần, người phụ nữ bàng hoàng nhìn tôi, rồi lùi ra sau trân trối nhìn vết nhơ trên thảm, ngay dưới chân tôi. Dù hầu hết những ký ức đã mờ nhạt, tôi vẫn nhớ rõ ánh mắt bà lúc ấy, ánh mắt khi người ta hồ hởi vuốt ve một con thú cưng, tưởng là mớ lông tơ mềm mại nhưng lại chạm phải lớp lông thô cứng xù xì. Đó là những biểu hiện tôi đọc được trên gương mặt bà lúc ấy.
Rồi rất nhanh, bà mỉm cười với tôi và gọi người mang quần áo và tã sạch đến. Những người lớn khác vội vã vào phòng. Trong căn phòng đó, trước mặt tất cả mọi người, người phụ nữ đó đã thay quần áo cho tôi. Lúc bà quấn tã cho tôi, tôi xấu hổ không nói nên lời. Tôi không dám thét lên
Cháu không cần tã!
, chỉ biết thin thít chịu đựng sợi dây chun của chiếc tã siết chặt hai chân và hông mình.
Chẳng bao lâu sau, tôi được bảo rằng người phụ nữ đó là Etsuko Akiyama, mẹ đẻ của tôi; người đàn ông tên Takehiro Akiyama là bố tôi; và đứa bé gái tên Marina Akiyama là em gái ruột, nhỏ hơn tôi một tuổi. Tuy vậy, mãi sau này tôi mới có được cảm giác họ là gia đình mình. Thậm chí đến tận bây giờ, cảm giác đó vẫn không rõ ràng.
Chúng tôi ở lại khách sạn thêm vài ngày. Thỉnh thoảng, những người lạ đến vây quanh tôi để đo chiều cao, cân nặng, kiểm tra sức khỏe tổng quát và hỏi chuyện về cuộc sống của tôi trước đó. Trong suốt những ngày đầu kinh khủng, hai người lớn tự xưng là bố mẹ ruột của tôi đã không ngừng bảo với tôi rằng tôi chính là đứa con thất lạc của họ, rằng tôi bị kẻ xấu bắt cóc khi vừa sinh ra, và rằng đứa bé gái luôn xoe tròn mắt nhìn tôi là em ruột của tôi.
Sau mấy ngày trú ở khách sạn, họ dẫn tôi về sống trong một căn hộ ở Hachioji. Căn hộ nằm ở tầng trên của một tòa nhà hai tầng bằng gỗ, có một phòng ăn liền bếp và hai phòng ngủ trải vừa hai tấm tatami. Cả ba căn phòng lúc nào cũng bừa bộn lộn xộn. Bàn ăn luôn đầy những mảnh vụn bánh mì, chén đĩa bẩn, thư từ, con dấu và đủ các loại sách báo.
Nhìn lại, tôi nhận ra cuộc sống lúc đó của bố mẹ và em gái đã đảo lộn từ khi có sự xuất hiện đột ngột của tôi. Tất nhiên, những giọt nước mắt của mẹ tôi là thật lòng, và cả bố mẹ đều vô cùng hạnh phúc khi tôi trở về trong vòng tay họ, nhưng rõ ràng họ không biết phải cư xử thế nào với
con cừu non lạc bầy
như tôi.
Mẹ vỗ về tôi như tôi vẫn còn là một đứa bé ẵm ngửa, rồi bất ngờ bà lặng thinh, trừng mắt nhìn tôi như đang nhìn một con vật dị thường. Mới phút trước mẹ còn cười âu yếm với tôi, phút sau bà đã quay lưng bật khóc, hoặc gào thét với bố. Tôi không biết làm sao để gần gũi bà. Có lần tôi cố lấy hết can đảm bắt chuyện để mong bà mỉm cười, nhưng bà chẳng ngó ngàng gì đến. Nhưng một lần khác, lúc tôi đang lặng lẽ ngồi xem tivi thì bà đến ngồi cạnh liến thoắng luôn miệng, bà nói nhiều đến nỗi tôi không biết mình nên làm gì. Ngược với mẹ, bố dễ chịu hơn nhiều. Thái độ của ông dành cho tôi lúc nào cũng vậy. Ông luôn ngại ngần khi đến gần con gái như thể tôi là con của một ai đó. Nhưng mà ông hay cười dịu dàng mỗi lần trò chuyện với tôi chứ không run giọng hay lớn tiếng bao giờ. Thế nhưng tôi vẫn còn sợ sệt khi tiếp xúc với đàn ông. Dẫu bố luôn nhẹ nhàng và tốt bụng, nhưng giọng nói trầm trầm, thân hình cao lớn, chắc nịch, những ngón tay to tướng thô ráp của ông với tới người tôi luôn làm tôi sợ hãi. Mỗi lần ông vỗ vào đầu, bế tôi lên hay thậm chí chỉ cần lại gần tôi, tôi liền òa khóc. Sau vài lần thấy con gái sợ hãi, bố đành bỏ cuộc, ông bỏ sang phòng khác.
Thái độ của đứa em gái mới là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy sự xáo trộn mà tôi đã gây ra cho gia đình Akiyama. Cho dù bố mẹ đã giải thích với Marina (lúc đó được ba tuổi) về sự có mặt của một đứa bé khác trong nhà, nhưng rõ ràng con bé không hiểu chút gì. Marina đã phải chứng kiến bố mẹ mình đối xử đặc biệt với kẻ mới đến, tắm cho nó với sự trìu mến và trò chuyện với nó đầy yêu thương. Con bé không thể không thấy tổn thương. Nó không chịu lại gần tôi mà cứ bám lấy bố mẹ, có khi còn trừng mắt nhìn tôi. Con bé cư xử hoàn toàn đúng kiểu trẻ con. Khi không thấy bố mẹ đâu, nó hét lớn đến nỗi cả căn nhà cũng rung lên theo tiếng khóc của nó.
Hachioji hoàn toàn khác biệt với nơi tôi từng sống trước đây. Không có tiếng rả rích của côn trùng vang trong không gian yên ắng, thanh bình; chỉ có tiếng tivi, tiếng em gái khóc, giọng nói bố mẹ và tiếng khua chén đĩa. Không còn đứa bạn nào chơi cùng, tôi cảm thấy mình bị cô lập trong một lớp màng vô hình. Khi nhìn ra ngoài, tôi không còn thấy cây xanh và bầu trời trong vắt nữa, thay vào đó là những đường dây điện thoại mắc ngang mắc dọc trên bầu trời, hoặc bức tường xám xịt của tòa nhà bên cạnh. Bố mẹ cũng không cho tôi ra ngoài. Tôi bị giam cầm ở đây; tôi đã bị tước mất tất cả mọi thứ trước đó.
Rất nhiều người lạ đến thăm gia đình chúng tôi. Mỗi lần họ đến, tôi đều thấy bầu không khí căng thẳng khắp nhà. Marina và tôi bị tống sang phòng bên cạnh xem tivi, nhưng cả hai vẫn nghe được tiếng nói qua cánh cửa fusuma. Thật khác hẳn với những lúc bà Masae ghé thăm nhà. Khi họ đi khỏi, mẹ lúc nào cũng giận dữ.
Sau khi chuyển đến căn hộ ở Hachioji, có nhiều lúc tôi không hề hé môi. Tôi không biết phải nói gì. Khi bố mẹ trò chuyện với tôi, tôi không thể hiểu những điều họ nói, những câu họ hỏi. Bây giờ nghĩ lại thấy thật kỳ cục, nhưng lúc đó tôi đã tin là mình bị bắt cóc. Không phải tôi được trả về nhà sau khi bị bắt cóc, mà tôi đang phải ở cùng với những người xấu đã chia cắt tôi với gia đình thật sự của mình.
Lúc đó là lúc nào nhỉ? Ngoài trời rất lạnh, có lẽ đang giữa mùa đông. Tôi đã bỏ trốn. Tôi quyết tìm về nhà, tìm về với mẹ và những cô bác khác trong tiệm mì, tìm về nơi có Yuri và các bạn đang ngóng đợi tôi.
Mẹ bắt tôi và Marina đi ngủ trưa, hai đứa nằm trên chiếc futon không bao giờ được dọn. Mẹ nằm cạnh ru chúng tôi ngủ. Sau khi Marina đã ngủ say, mẹ xoa xoa lưng tôi một lúc rồi cũng thiếp đi. Tôi ngồi dậy, cẩn thận kéo cánh cửa fusuma, rón rén bước qua căn bếp bừa bộn rồi mở cửa ngoài. Ánh mặt trời chiếu vào mắt chói lòa, tôi thấy mọi vật đều trắng xóa.
Tôi chầm chậm leo xuống hết các bậc thang rồi bước đi. Trước mắt tôi là hàng sa số những ngôi nhà xếp thành hàng, ở nơi tôi sống trước đây, nếu cứ đi thẳng tôi sẽ nhìn thấy biển. Và nếu cứ đi theo con đường dọc biển, tôi sẽ tới tiệm mì, tôi sẽ thấy Shin’nosuke và các bạn đang chơi trong sân đậu xe. Nhưng ở đây, dù tôi đi xa đến mấy, những tòa nhà vẫn trải dài vô tận. Chúng đứng sát vào nhau như muốn chắn ngang đường về của tôi. Ô-tô lao vù vù trên đường, bụi mù bay tứ tung. Xe đạp cũng vượt qua mặt tôi. Không có màu xanh, không có những mùi hương ngọt ngào tôi từng quen thuộc. Tôi cứ đi mãi nhưng chẳng thấy biển đâu. Lúc này, chỉ mặc độc một chiếc áo len trên người nên tôi đã nhiễm lạnh. Tôi nhớ lại cái ngày mình ở trên tàu cao tốc, lúc tôi hoảng sợ vì cảnh vật lướt qua quá nhanh. Tôi nghĩ nếu mình không chạy nhanh như thế thì sẽ không bao giờ về nhà được. Thế là tôi ra sức chạy. Tôi chạy, chạy mãi, chạy mãi, và chạy mãi. Ở cuối con đường xa tắp, chắc mẹ đang đợi tôi, vòng tay mẹ mở rộng, mặt biển lấp lánh sau lưng mẹ...
Tất nhiên tôi không thể nào tới nơi được. Tôi kiệt sức, ngồi bệt xuống ven đường cho tới khi một viên cảnh sát đi tới hỏi chuyện. Sau khi tỉnh dậy và thấy tôi đi đâu mất, mẹ đã hoảng loạn gọi cảnh sát nên họ tỏa ra kiểm tra khắp khu này.
Mẹ hét lên giận dữ:
Con đã đi đâu? Sao con dám để mẹ lo lắng như vậy! Con thật xấu xa! Mẹ không có đứa con hư hỏng như con! Con không phải là con của mẹ!
.
Mẹ không giữ nổi bình tĩnh, cứ la mắng liên hồi, rồi bỗng dưng ngừng lại thở hổn hển. Sau đó bà ôm tôi vào lòng thật chặt, vuốt ve mái tóc, tấm lưng và hai cánh tay tôi. Bà thì thầm:
Con đừng để mẹ lo lắng thêm lần nữa. Đừng bỏ mẹ. Mẹ gần như phát điên lên. Mẹ không thể sống nổi nếu mất con thêm lần nữa, Erina
.
Con không phải là con của mẹ: những từ ngữ này in sâu trong tâm trí tôi. Đúng vậy, tôi không thuộc về gia đình này. Hãy để tôi về nhà. Nếu lúc đó lớn hơn một chút và biết dùng từ ngữ đề diễn đạt tâm trạng của mình, tôi sẽ nói với họ như vậy. Nhưng khi đó tôi chỉ biết đứng lặng thinh. Tôi thậm chí không biết mình đang nghĩ gì. Những lời thầm thì ngọt ngào của mẹ làm tôi sợ cứng người.
Ngày hôm đó, sau khi trở về căn hộ, cuối cùng tôi cũng hiểu một điều: có lẽ đây chính là gia đình duy nhất của mình.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Bản Năng.