Chương 17
-
Bản Năng
- Mitsuyo Kakuta
- 9272 chữ
- 2020-05-09 01:45:38
Số từ: 9260
Dịch Giả: Thục Nhi, Song Thu
NXB Trẻ
Nguồn: Sưu Tầm
Chigusa và tôi rời quán khi mặt trời đã đứng bóng. Làn da lạnh ngắt vì ngồi lâu trong phòng lạnh giờ ẩm ướt vì hơi nóng.
Chigusa nhìn tôi hỏi:
- Em ổn không vậy?
Tôi không biết chị lo lắng điều gì, nhưng vẫn trả lời:
- Dĩ nhiên em ổn.
Cả hai đi xuống đồi.
- Chị muốn nghe em kể thêm nữa. Chị đến nhà em nữa được chứ?
- Thì chị tìm gặp em cũng là vì vậy mà.
Cuối con đồi là nhà ga lidabashi. Không hiểu sao tôi lại không muốn chị về, tôi gợi ý:
- Trưa nay chị định ăn gì?
Chigusa quay lại nhìn tôi cười:
- Nhưng chị mới ăn sáng xong mà. Cảm ơn em đã cho chị ở lại tối qua. Gặp em sau nhé.
Chị ôm cuốn sổ và chào tôi một lần nữa trước khi bước đi thắng. Tôi đuổi theo Chigusa.
- Này, chị đang giữ tập tài liệu về vụ bắt cóc phải không? Em mượn mấy hôm ha?
Chị nhìn tôi một lúc rồi mới lấy đưa tôi tập tài liệu nặng trịch.
- Cảm ơn chị. Nhất định em sẽ gửi trả.
Trong một thoáng, Chigusa như sắp khóc đến nơi, nhưng rồi chị nhoẻn cười vẫy tay chào. Tôi cũng vẫy chào. Rồi chị hòa vào đám đông. Tôi có thể cảm nhận được sức nặng của tập tài liệu trên tay mình.
Tôi lau những giọt mồ hôi thi nhau chảy xuống trán và hai bên thái dương rồi quay về căn hộ. Có tiếng ve sầu vang lên trong một bụi cây gần đền thờ trong khu phố, tiếng kêu khô khốc nặng nề. Tôi kiểm tra tin nhắn nhận được lúc ngồi trong quán cà phê. Đúng như tôi nghĩ, đó là tin của Kishida.
Bao giờ chúng ta có thể gặp nhau, Eri? Anh muốn gặp em vô cùng, anh điên lên mất
.
Việc xa nhau không làm anh quên tôi, mà lại làm anh phát điên... Không phải là tôi không muốn gặp Kishida. Tôi muốn chứ. Tôi thật sự muốn ở cùng anh. Tôi muốn cảm nhận những ngón tay anh vuốt tóc mình và cái ôm siết chặt; tôi muốn nghe anh thủ thỉ
Anh yêu em, Erina, anh yêu em hơn bất kỳ ai khác
. Thế nhưng, điều khiến tôi phát điên không phải vì xa anh, mà là ở gần anh, tiếp tục gặp anh. Tôi sợ mình cũng có kết cục như
người đàn bà đó
, song tôi không biết phải giải thích thế nào với Kishida. Anh không biết tôi từng là tâm điểm của một cuộc điều tra tội phạm nổi tiếng khắp các kênh thông tin trong nước. Anh không biết tôi đã từng là một đứa trẻ bị bắt cóc. Tôi đã tự xoay xở tới giây phút này bằng chính sức mình chứ không nhờ bất kỳ ai giúp đỡ.
Tôi không trả lời tin nhắn của Kishida. Vừa định cất điện thoại vào túi thì chuông reng. Tôi tưởng anh gọi, nhưng màn hình hiện tên Marina, em gái tôi. Giọng Marina cất lên thân mật:
- Chị Eri hả? Chị nói chuyện được không?
- Được mà. Sao em?
- Ga nào gần Araki nhất vậy chị?
- Araki á? Phải quận Shinjuku không? Có lẽ tuyến Marunouchi ga Yotsuya.
- Rồi, em biết rồi. Cảm ơn chị.
- Em đến đó chơi à?
- Dạ, đi cùng mấy đứa nữa.
- Nếu lỡ chuyến tàu cuối thì đến chỗ chị nhé.
- Chắc không cần đâu, nhưng nếu trễ quá em sẽ gọi chị. Cảm ơn chị nhiều.
Marina nói rồi cúp máy. Tôi nhìn đồng hồ, bây giờ là 12 giờ 30. Con bé hẳn đang ăn trưa.
Cả bố lẫn mẹ đều kịch liệt phản đối chuyện tôi thuê căn hộ sống riêng. Bố giận, không thèm nói chuyện với tôi trong một thời gian dài, còn mẹ thì không ngừng than vãn:
Con thật sự ghét sống ở nhà mình đến vậy sao?
. Vậy mà tới lúc tôi dọn đi, bố mẹ lại hiếm khi nào liên lạc. Chỉ có Marina gọi cho tôi. Con bé tìm được việc làm ở công ty vận tải sau khi tốt nghiệp trung học, và nó vẫn sống cùng bố mẹ ở Tachikawa. Mỗi lần gọi điện cho chị, nó chẳng hỏi han gì nhiều, chỉ nhờ tôi chỉ chỗ gặp gỡ bạn bè ở Shinjuku, những chỗ dễ kiếm, hoặc chỉ cách chuyển tàu từ Tachikawa đến Aoyama. Tôi nghĩ con bé không cần chị giúp, mà giả vờ gọi vì muốn giữ liên lạc với chị gái. Marina hiểu tôi vẫn cảm thấy mình thừa thãi với gia đình, và những cuộc gọi này là để nhắc nhở chúng tôi vẫn là người một nhà.
Lần nào lên thành phố chơi với bạn, Marina cũng xin phép ở lại nhà chị nếu về trễ, nhưng chưa lần nào nó ghé qua chỗ tôi. Vậy nên lần này, tôi cũng chẳng buồn dọn dẹp nhà cửa.
Tôi đóng hết cửa sổ, bật điều hòa, nằm trên tấm futon mà Chigusa đã ngủ đêm qua, châm thuốc và nhả khói lên trần. Sau một lúc ngó chằm chằm xấp tài liệu mình vừa quăng xuống sàn, tôi uể oải nhặt nó lên. Bỗng nhiên cơn buồn ngủ ập đến. Tôi dập thuốc và nhắm mắt lại. Cầu mong tối nay đừng gặp ác mộng nào cả, tôi khẩn cầu trước lúc thiếp đi.
Kiwako Nonomiya đã kể với Takehiro về việc mình mang thai với hy vọng người tình sẽ mau chóng ly hôn. Thế nhưng, Takehiro ngay lập tức thuyết phục cô bỏ cái thai. Ban đầu, Kiwako khăng khăng muốn giữ đứa bé, nhưng lần nào họ gặp nhau, Takehiro cũng giục cô phá thai và khẩn khoản:
Kiwako, anh muốn có con vón em lắm chứ, nhưng bây giờ chưa phải lức, mọi chuyện sẽ đảo lộn hết cả. Nếu vợ anh biết chuyện, cô ấy sẽ nhúng tay vào và có thể còn đòi tiền cấp dưỡng. Anh xin em, hăy bỏ đứa bé này; rồi sau này, khi chúng ta đã ổn định, ta sẽ sinh đứa khác. Sinh con lúc đó sẽ tốt hơn cho con mình
. Cuối cùng, Kiwako cũng chấp nhận phá thai với niềm tin rằng nếu làm vậy, cô sẽ sớm kết hôn với Takehiro.
Tháng 11 năm 1983, Kiwako đã phá bỏ cái thai 10 tuần tuổi. Takehiro hiếm khi nào đến thăm cô vào thời gian đó, nhưng Kiwako vẫn một mực tin rằng Takehiro đang chuẩn bị ly hôn. Tuy nhiên, đến tháng 1 năm 1984, Takehiro bảo vợ anh, Etsuko, đã mang thai, chỉ hai tháng sau khi Kiwako mất đứa con ruột của mình. Kiwako quyết định chấm dứt mối quan hệ, cô gặp Takehiro sau giờ làm và nói với anh điều đó, nhưng Takehiro đã năn nỉ cô nghĩ lại.
Anh vẫn muốn ly hôn
, anh ta nói
nhưng bỏ rơi vợ chỉ sau một năm rưỡi dẫn cô ấy đến Tokyo thì thật nhẫn tâm, vì vậy anh không thể bảo vợ mình phá thai được
. Kiwako lại động lòng. Takehiro tiếp tục qua đêm với Kiwako, và mối quan hệ của họ trở lại như xưa.
Ngay sau đó, Etsuko bắt đầu nghi ngờ vì chồng thường đi làm về muộn, thỉnh thoảng còn không về nhà. Cô không ngừng chất vấn và yêu cầu chồng nói rõ sự thật. Cuối cùng, Takehiro cũng thú nhận và kể hết mọi chuyện về Kiwako. Để xoa dịu cơn giận dữ của vợ, Takehiro còn hứa sẽ kết thúc mối quan hệ này.
Tháng 2 năm 1984, Kiwako bắt đầu nhận những cuộc điện thoại từ vợ của người tình. Etsuko không tin cả hai đã chia tay, cô tìm địa chỉ nhà và số điện thoại của Kiwako rồi bắt đầu gọi điện. Etsuko làm phiền Kiwako gần như mỗi ngày, thỉnh thoảng gửi cả thư. Có lúc cô xuống giọng nài nỉ Kiwako buông tha chồng mình, có lúc mạt sát chửi rủa. Điều khiến Kiwako đau đớn nhất là những lúc Etsuko nhắc về đứa con trong bụng cô ta đang mang.
Như thể là bạn thân của nhau, Etsuko kể với Kiwako về tất cả những lần khám thai, hoặc liệt kê những cái tên mà hai vợ chồng họ định đặt cho đứa bé. Đôi lúc, cô còn buộc tội Kiwako về việc phá thai bằng những câu như
Tôi không thể tin cô đã giết con mình. Nếu là tôi, tôi sẽ giữ đứa bé bằng bất cứ giá nào
. Sau này, trong phiên tòa xét xử, khi luật sư biện hộ của Kiwako chất vấn, Etsuko đã khai:
Lúc đó tôi quá lo lắng vì cái thai, tâm lý tôi không được ổn định
. Cô ta còn nói thêm
Tôi ốm nghén rất dữ và quá cô đơn vì không có chồng bên cạnh. Tôi không biết phải làm gì. Tôi chỉ muốn Kiwako trả chồng lại cho mình
.
Cũng trong thời gian đó, Etsuko đã đề nghị chồng chuyển nhà. Cô hy vọng sẽ chia cách được hai người nếu họ chuyển đi xa. Takehiro vẫn khăng khăng với Kiwako rằng anh ta muốn ly dị, nhưng trên thực tế lại cùng vợ chuẩn bị thuê chỗ rẻ hơn để tiết kiệm tiền cho cuộc sống tương lai, vì hai vọ chồng đang có ý định tích cóp mua một căn nhà. Cuối cùng, họ cũng chuyển đến một căn hộ ở Hino. Nhưng trái với mong đợi của Etsuko, việc chuyển nhà đi xa lại khiến Takehiro dễ ngoại tình hơn. Anh ta thường gọi về nhà cho biết đã lỡ chuyến tàu cuối vì phải làm thêm giờ hay đi ăn với đồng nghiệp, đồng thời cam đoan với vợ mình sẽ ngủ khách sạn, nhưng thực tế là qua đêm với Kiwako.
Vợ anh chẳng hề hỏi ý kiến anh về việc chuyển đến chỗ ở mới
, Takehiro than phiền với Kiwako.
Anh ghét cái kiểu tự quyết định mọi chuyện như vậy của cô ta lắm". Còn Kiwako thì sao? Dĩ nhiên cô ngày càng đau khổ vì mắc kẹt giữa những lời quanh co của người tình và những cuộc điện thoại cay độc của vợ anh ta.
Tháng 4 năm 1984 đánh dấu một sự thay đổi trong mối quan hệ tay ba của họ. Sau một thời gian dài sống một mình, bố Kiwako đã nhập viện vì căn bệnh ung thư. Lúc này, Kiwako đã quá mệt mỏi vì những cuộc điện thoại liên miên của Etsuko, cô quyết định nhân đó xa lánh họ. Kiwako đã bỏ việc và trở về quê. Cô trả nhà ở Kichijoji rồi về Odawara. Bệnh ung thư của bố Kiwako đã ở giai đoạn cuối nên cô phải đến bệnh viện mỗi ngày. Nhưng Takehiro đã liên lạc với cô sau khi lục tìm địa chỉ nhà Kiwako trong hồ sơ lưu trữ nhân viên. Rồi lấy cớ đi công tác, anh ta đã đến thăm Kiwako. Lúc này, Kiwako quá cô đơn và đau buồn trước căn bệnh của bố, nên cô lại ngã vào vòng tay người tình. Vậy là một lần nữa, ý định chia tay của cô lại không thành.
Sang tháng 5, lo lắng vì thấy kinh nguyệt bất thường, Kiwako đã đến khám phụ khoa ở bệnh viện nơi bố mình đang điều trị. Cô được chẩn đoán nghẹt tử cung. Nguyên nhân là vết sẹo đã lấp cổ tử cung của cô từ lần phá thai năm ngoái. Bác sĩ giải thích rằng phẫu thuật cắt bỏ tử cung sẽ giúp thụ thai trở lại, nhưng Kiwako tin mình đã bị trừng phạt vì đành tâm dứt bò đứa con của mình và sẽ không bao giờ có con được nữa. Không lâu sau đó, Etsuko lại nghi ngờ những chuyến công tác thường xuyên của chồng, cô tìm địa chỉ của Kiwako ở Odawara và tiếp tục quấy rối.
Trong thời gian bị bắt và chuẩn bị đưa ra xét xử, Kiwako rất kiệm lời về mối quan hệ với gia đình Akiyama, nhưng có một câu cô rất hay lặp lại:
Etsuko không ngừng gọi tôi là một cái vỏ rỗng cô độc. Tôi thường ngồi ở phòng bệnh của bố sau khi ông đã ngủ, khóc thương chính mình khi nhớ lại những lời của cô ta. Etsuko bảo rằng đó là sự trừng phạt vì tôi đã giết con ruột mình
. Những câu trả lời của Kiwako trong suốt quá trình chất vấn luôn luôn là
Vâng, đúng vậy
, nhưng khi kể về những gì Etsuko đã nói với cô, giọng Kiwako trở nên rắn rỏi. Vào ngày xét xử thứ sáu, khi luật sư hỏi:
Cô có nhớ chính xác những gì Etsuko đã nhục mạ mình?
thì cô lặp lại chính xác từng từ một. Etsuko chối biến lơi buộc tội:
Tôi không bao giờ nói vậy. Người đàn bà này rõ ràng bị hoang tưởng".
Ngày 3 tháng 8, bố Kiwako qua đời. Ông bị ung thư dạ dày và mất ở tuổi 69. Từ giữa tháng 7, Kiwako ở lại bệnh viện mỗi ngày nên không liên lạc với Takehiro. Bận rộn với việc đứa con sắp sửa chào đời, Takehiro cũng không đến Odawara nữa. Ngày 18 tháng 8, Etsuko trở dạ và được đưa đến bệnh viện, ngày hôm sau, cô hạ sinh một bé gái tên là Erina. Sau một tuần nằm viện, cô được phép xuất viện về nhà ở Hino.
Không nghe tin tức gì từ Takehiro, Kiwako đã lần theo địa chỉ anh ta cho cô để tìm đến căn hộ ở Hino. Ngày 25 tháng 8, cô đã có mặt khu Hino, chứng kiến cảnh hai vợ chồng Etsuko cùng Takehiro đang ôm đứa bé trở về nhà.
Tôi đang giặt quần áo thì nghe tiếng chuông cửa. Nghĩ rằng đó là Chigusa, tôi đi thẳng ra mở cửa, không buồn dòm qua
mắt thần
. Đứng trước cửa là Kishida. Áo sơ-mi của anh thấm đẫm mồ hôi còn áo vét khoác trên tay. Anh đang ôm một hộp bánh. Anh nhìn tôi cười:
- Anh mang bánh cho em.
- Anh làm gì ở đây vào giờ này?
- Hôm nay bọn anh tổ chức Thi thực hành cấp quốc gia, nhưng anh được miễn nhiệm vụ. Anh vào nhé? - Anh dợm bước.
Anh về đi. Em không muốn gặp anh. Những lời tôi định thốt ra chợt tan biến đi.
- Đợi một chút, em dọn dẹp đã.
Tôi đóng cửa, gom mớ tài liệu của Chigusa đang trải trên sàn rồi nhét vào tủ. Tôi cũng nhét luôn vào đó đống quần áo vừa phơi xong từ mấy hôm trước. Tôi vừa phấn khởi mong chờ những ngón tay ấm và làn môi ấm mềm của anh, lại vừa khinh bỉ chính mình vì sự ngốc nghếch khờ dại này.
Năm học cấp hai, lúc ngồi đọc những thông tin về vụ bắt cóc, tôi đã nghĩ Kiwako Nonomiya và bố mẹ mình là những nhân vật trong tiểu thuyết. Tôi quên mất mình đang đọc về ai mà chỉ thấy tức giận muốn đấm vào mặt ba người họ. Tại sao hai người phụ nữ đó - Kiwako và mẹ tôi - lại lao vào một người đàn ông đã không ngừng lừa dối bọn họ? ông ta chẳng có gì đặc biệt lôi cuốn, ông ta không chu đáo, không chung thủy và luôn lừa dối; ông ta không khác gì một tên khốn, vậy tại sao họ không thể từ bỏ ông ta? Đặc biệt là Kiwako. Bà thấy gì tốt ở một người đàn ông hèn hạ, không hề có ý định ngăn cản những cuộc gọi nhục mạ người tình của vợ mình, và sau khi theo đuổi bà đến tận Odawara, ông ta thậm chí không buồn ló mặt đến đám tang của bố bà - điều quái quỷ gì đã khiến Kiwako không thể quên được người đàn ông tồi tệ đó?
Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu. Tất nhiên không phải mọi chuyện. Tôi chỉ chắc chắn một điều, đó là phụ nữ vẫn có lúc yêu thương những người đàn ông dối trá, lừa gạt, ích kỷ và tham lam. Dù vậy, tôi vẫn không thể thông cảm với bản thân mình, ngược lại còn thấy khinh bỉ chính tôi.
Em xin lỗi. Ở ngoài chắc nóng lắm
, tôi nói khi mở cửa. Vừa bước vào phòng, Kishida lao ngay đến siết chặt tôi. Hộp bánh trong tay anh rơi xuống đất.
Cái bánh...
, tôi vừa thốt lên thì môi anh đã chặn lại.
Anh nhớ em lắm
, anh rên lên. Tôi ngửi thấy mùi mồ hôi đàn ông, mùi mồ hôi chua chua, nằng nặng của Kishida...
Kishida đang xối nước trong phòng tắm. Chiếc chăn nhàu nát, ngập tràn mùi cơ thể của anh. Vậy là mình vẫn không thể quên được anh ấy. Tôi mở tủ lạnh lấy hộp bánh. Một cái bánh vỡ vụn khi chiếc hộp rơi.
Chắc chắn cũng giống vậy thôi, tôi nghĩ trong lúc ngắm nhìn mấy mẩu bánh vụn, trước khi trở thành kẻ bắt cóc, mối quan hệ của người đàn bà đó và bố mình chắc cũng như tôi và Kishida bây giờ. Thứ tồn tại giữa cả hai không phải là một tình yêu nồng nàn, sâu đậm không thể chia lìa, mà họ chỉ đơn giản gặp nhau, làm tình, ăn bánh; lần nào cũng nghĩ là lần cuối nhưng rồi cứ gặp lại, và vòng quay tình ái cứ thế quay mãi không ngừng. Và những lúc bên nhau, họ quên mất người đàn ông đó là một kẻ phản bội và dối trá.
Kishida thò đầu ra khỏi phòng tắm:
- Tắm thích thật. Cảm ơn em nhé. Em muốn ăn bánh không?
- Bánh vỡ nát hết rồi. Anh làm rơi mà, nhớ không?
- Chẳng sao. Ăn vẫn ngon. - Anh mặc lại quần áo.
Nước trên tóc nhểu xuống áo tạo thành mấy đốm nhỏ.
- Ước gì anh không phải quay trở lại làm việc.
- Vậy sao anh không ở lại?
- Đừng nói vậy, em. Anh linh cảm mình sẽ không đến đây được nữa.
Tôi chia cái bánh bị vỡ làm hai phần, đặt lên đĩa trên chiếc bàn nhỏ.
- Nhìn này, nhờ bị vỡ mà nhân và bánh trộn lẫn vào nhau rồi. Em sẽ nếm được cả hai thứ cùng lúc.
Anh ngồi xếp bằng ăn phần bánh của mình.
- Nói em nghe đi, anh thích em ở điểm gì?
Anh nhìn lên, dò xét nét mặt tôi một lát rồi mới trả lời:
- Anh thích cách em bỏ đi một mạch mà không thèm ngoái đầu nhìn lại. - Rồi anh cười: - Thế còn em thích anh ở điểm gì?
- Những lời nói dối của anh, không giấu đi đâu được.
Câu nói của tôi hoàn toàn nghiêm túc, nhưng nó lại khiến Kishida cười rũ ra.
Tôi vẫn còn nhớ rất rõ khoảnh khắc mình phải lòng Kishida, như thể chuyện đó mới xảy ra tuần trước vậy. Lần đầu tiên đi ăn tối cùng nhau, anh dẫn tôi đến một nhà hàng gần cửa tây ga Shinjuku. Cả hai đi bộ bên nhau băng qua nhà ga tấp nập. Một người đàn ông đứng tuổi đi ngược lại đâm sầm vào tôi làm tôi loạng choạng, nhưng ông ta chỉ tặc lưỡi bực tức và đi tiếp. Kishida đã túm tay ông ta gằn từng tiếng:
Ông đã va vào cô ấy
, ông ta liền giật tay ra bỏ đi với thái độ khó chịu. Kishida nhìn tôi gượng cười nói:
Em không cần phải xin lỗi vì đó không phải lỗi của em
.
Suốt bữa tối, những lời anh nói không ngừng văng vẳng bên tai tôi.
Vì đó không phải lỗi của em
- cụm từ như một câu thần chú dành cho tôi, như một phép màu kỳ diệu giúp tôi thoát khỏi căn hầm đã giam cầm mình bấy lâu nay.
Tối hôm đó, tôi đã mong mỏi Kishida sẽ nói thêm nhiều lời khiến mình thấy nhẹ nhõm hơn nữa. Tôi kể với anh bố mẹ không muốn tôi chuyển đi và tôi phải tự lo liệu cuộc sống vì không nhận được chu cấp. Tôi muốn anh bảo đó không phải là lỗi của tôi khi mà tôi muốn bỏ đi thật xa để quên đi cuộc sống gia đình ngột ngạt, để sống yên ổn vì không còn ai biết về quá khứ của mình. Thậm chí tôi còn cố ý cười và nói:
Anh có nghĩ bố mẹ em ác quá không, sao lại có những bậc cha mẹ không chịu nuôi con gái mình cơ chứ?
. Tôi vờ như mình là một cô gái 19 tuổi như bao cô gái khác. Kishida cũng cười, anh bảo:
Có lẽ họ muốn em bỏ cuộc và quay về nhà. Nhưng họ lầm rồi. Anh nghĩ em đủ bản lĩnh để sống tự lập
.
Đã bao nhiêu lần tôi nhớ lại những lời anh nói hôm đó? Em không cần phải xin lỗi. Em đủ bản lĩnh để sống tự lập. Những lời này đã khiến tôi thực sự tin rằng mình có đủ khả năng đi theo con đường mình đã chọn.
Chắc chắn một người lạ sẽ hỏi:
Đó là tất cả những gì khiến cô yêu anh ấy ư?
. Nếu một người đàn ông khác nói những câu nói đó, có lẽ tôi đã không yêu anh ta. Hoặc nếu Kishida nói những câu đó vào một ngày khác, ở một nơi khác, có lẽ tôi sẽ bỏ ngoài tai. Nhưng ngày hôm đó, mọi thứ đã đến với tôi, và tôi đã yêu anh.
Thế mà bây giờ, lúc đang ngồi ăn bánh bên cạnh Kishida, tôi lại tự hỏi mình: đó là tất cả những gì khiến mi yêu anh ấy ư? Người đàn ông này đã liên tục lừa dối mi - mi sẽ vẫn yêu anh ta chỉ vì những lời dối gạt đó hay sao?
Tôi không tin tất cả những lời nói dối đó. Lời nói này không phải dành cho Kishida mà cho Kiwako, người đàn bà trong bức ảnh ố vàng. Tôi không giống như bà. Tôi không tin tất cả những gì đàn ông nói với mình, bởi tôi không ngốc nghếch như bà.
Sau khi nhận ra nhà Akiyama giờ là gia đình duy nhất của mình, tôi biết mình phải tìm cách làm vui lòng họ.
Cả gia đình sống ở khu Hachioji cho tới năm tôi chuẩn bị vào tiểu học thì chuyển đến Kawasaki. Sau này, tôi mới biết bố mẹ chuyển nhà để tránh những lời xì xầm to nhỏ của hàng xóm về gia đình mình.
Mẹ bảo bố mẹ lo ngại nếu tiếp tục sống ở đây, các bạn học sẽ lấy sự kiện bắt cóc ra làm đề tài để trêu ghẹo hoặc hà hiếp tôi. Nhưng rồi tôi nhận ra bố mẹ không phải bảo vệ tôi, họ đang cố bảo vệ chính mình. Thời gian trôi qua, khi những chi tiết xung quanh câu chuyện bắt cóc dần hé lộ, mọi người không chỉ biết về những việc Kiwako Nonomiya đã làm, họ còn biết bố tôi đã ngoại tình, và mẹ tôi là người thế nào. Những cuốn sách và bài báo đã biến bố mẹ tôi - những người lẽ ra là nạn nhân - trở thành đồng phạm gây nên tội ác: một người đàn ông đã ép nhân tình phá thai và lừa dối cả hai người phụ nữ yêu mình; và người vợ tàn nhẫn của ông ta, người đã biến cuộc sống của Kiwako trở thành địa ngục. Dù lúc đó tôi và em gái hoàn toàn không hay biết, nhưng hình như bố mẹ tôi vẫn thường xuyên nhận được những cú điện thoại và thư từ nặc danh. Vì vậy, họ đã chuyển chỗ ở để trốn chạy tất cả những điều đó.
Ở Kawasaki, chúng tôi sống trong một căn hộ thuộc khu dân cư xa trung tâm, nghĩa là mỗi lần xuống ga, muốn về được nhà, chúng tôi phải đón xe buýt và đi bộ thêm năm phút từ bến xe. Nhưng với một cô bé bảy tuổi thì sống ở đây chẳng khác ở Hachioji là mấy. Vẫn là những dãy nhà chen chúc nhau, vẫn không được ngắm biển, và vẫn những căn phòng bừa bộn nhếch nhác, ồn ào. Nhưng ở đây, không còn nhiều khách đến thăm nữa, chuông điện thoại cũng ít reo hơn.
Sau khi đón con gái bị thất lạc về nhà, bố tôi đã bỏ việc ở công ty đồ lót và chuyển sang làm nhân viên kinh doanh sách giáo khoa. Khi tôi vào lớp một, mẹ cũng tìm được việc làm bán thời gian ở một siêu thị gần nhà. Tuy vậy, sau một thời gian, câu chuyện bắt cóc lại lan ra, và họ phải chuyển việc thêm vài lần. Hình như ở trường ai cũng biết tôi đã từng bị bắt cóc. Tôi cảm nhận được điều đó. Các bạn không bắt nạt tôi như bố mẹ lo ngại, mà chúng tránh xa tôi. Không ai đến gần tôi. Toàn bộ câu chuyện vượt xa sự hiểu biết của đám trẻ tiểu học. Không ai trong bọn chúng biết phải cư xử thế nào với một bạn học đã từng bị bắt cóc.
Thế nhưng, thế giới bên ngoài không thật sự tồi tệ đến vậy. Lúc ở trường hoặc trong giờ chơi, tôi thường nhìn một cách vô định vào khoảng không trước mắt. Thời gian cứ thế trôi qua trong lúc tôi đọc sách, hay nhìn bầu trời. Tôi vui vì không ai đến bắt chuyện với mình. Tôi vui vì không ai hỏi han mình.
Ở nhà lại khá khổ sở. Tôi phải làm cho bố mẹ yêu quý, dù chẳng biết họ sẽ phản ứng thế nào. Khi trò chuyện với bố mẹ, tôi vẫn nói giọng địa phương ở đảo; tôi mở đầu hầu hết các câu nói bằng từ Ahna thay vì Ah-no-ne theo phát âm chuẩn của tiếng Nhật. Việc này làm mẹ tôi điên tiết lên. Bà cáu kỉnh nhắc lại từng câu tôi đã nói bằng giọng chuẩn, đồng thời nhấn mạnh từng từ giống như một phát thanh viên.
Khi ở một mình, tôi nói khá tốt: đó là lúc ở sân chơi, trên đường đi học về, trong bếp, hoặc trong bóng tối khi tôi kéo áo ngủ quá đầu.
Ah-no-ne
, tôi tập phát âm ba từ đó đầu tiên, rồi giới thiệu tên mình, cố gắng dùng no thay vì na, và da-ke-do thay vì ya-ke-do. Tôi chú ý nghe mẹ trò chuyện với bố, em gái trò chuyện với bố mẹ, lắng nghe tất cả các mẫu đối thoại trên tivi, và cẩn thận lặp lại từng từ một cách chính xác nhất. Nhưng dù đã rất cố gắng, mỗi lần nói với bố hoặc mẹ, vì sợ mình sẽ dùng từ sai, tôi đâm ra căng thẳng và lại thốt lên
Ahna
.
Một lần, mẹ đã ghì lấy hai cánh tay tôi và lắc mạnh, cố ép tôi phải nói cho đúng. Bố phải la:
Đủ rồi! Em làm con bé sợ đấy. Cứ để nó nói giọng của nó. Từ từ nó sẽ sửa!
.
Mẹ tôi quay ngoắt lại phía bố hét lên:
Trời ơi, tại sao con ruột của tôi lại nói với tôi bằng cái giọng mọi rợ đó?
. Sau đó bà quỳ sụp xuống sàn và không ngừng than khóc. Mẹ lúc nào cũng đáng sợ như vậy mỗi khi bà nổi giận, nhưng lần này, ngay cả bố tôi, người luôn dễ chịu hơn, cũng đã nổi cơn thịnh nộ. Tôi có cảm giác thái độ điềm tĩnh của ông thật ra là pha trộn giữa sự thờ ơ và nhẫn nhục.
Sâu trong thâm tâm, hẳn bố sợ người ta bảo kẻ phạm tội không phải Kiwako mà chính là ông ấy. Chính nỗi sợ này đã khiến bố mẹ tôi không ngừng tự bảo nhau rằng họ đều là nạn nhân. Nhưng khi mẹ tôi mất bình tĩnh, những lời của bà rất cay độc, như thể bà muốn đổ hết mọi tội lỗi lên đầu bố. Còn bố, như bản tính vốn có, cố ngăn cơn bão tố bằng cách tỏ ra dửng dưng và cam chịu những lời buộc tội.
Lúc tôi cảm thấy thoải mái nhất là khi ở cùng em Marina. Những ngày đầu khi tôi bất ngờ xuất hiện, trong suy nghĩ thơ ngây của Marina, tôi đã giành mất bố mẹ nó. Dĩ nhiên nó ghét tôi. Thỉnh thoảng nó giấu đồ của tôi, hoặc khi té ngã, nó la khóc và bảo tôi đẩy nó. Nhưng sau khi chuyển đến Kawasaki, có lẽ vì cuộc sống ở đây không mấy dễ chịu nên hai chị em tự động xích lại gần nhau. Trong khi chờ mẹ đi làm về, hai chị em thường trốn trong tủ quần áo và kể cho nhau nghe các bí mật. Tôi có thể kể với Marina mọi điều, về những bóng ma trong ao nước, về ngôi trường gỗ bên bờ biển, về cảnh hoàng hôn trên biển tuyệt đẹp. Tôi cũng kể nó nghe những câu chuyện bịa, rằng tôi là nàng công chúa ở một vương quốc xa xôi, rằng chúng tôi đã thua trong cuộc chiến và tất cả trẻ em ở đó, có cả tôi, bị đày đến Nhật Bản. Marina tin mọi lời của chị. Khi tôi dặn dò con bé đừng kể lại với bố mẹ, nó gật đầu một cách nghiêm trang.
Một ngày nào đó chị sẽ trở lại nơi đó hả, chị Eri?
, Marina thì thầm hỏi. Tôi trả lời:
Ừ, có lẽ vậy
. Thế là con bé mếu máo. Chỉ đến khi tôi lắc đầu:
Không, chị không thể về đó được nữa
, nó mới tươi cười trở lại.
Nhiều khi tôi gần như tin chuyện mình kể cho Marina là có thật. Đó là lý do tại sao cuộc sống ở Kawasaki với tôi trở nên dễ thở hơn nhiều.
Ở Hachioji, cuộc sống quá bấp bênh, những người xung quanh đều xa lạ, vì vậy trong một thời gian dài, tôi hoàn toàn không hiểu điều gì đang xảy đến với mình. Sau khi chuyển đến Kawasaki, cuộc sống gia đình mới bắt đầu trở lại bình thường, ít nhất là bình thường trong mắt người ngoài. Không còn nhiều khách đến thăm nhà, mẹ ra ngoài làm việc, tôi và Marina đến trường. Khi còn ở Hachioji, sự khác biệt giữa cuộc sống hiện tại và trước đó của tôi thể hiện ở chỗ căn hộ lúc nào cũng bừa bộn, và thiếu không gian xanh. Mãi đến lúc chuyển đến Kawasaki, tôi mới nhận ra sự khác biệt lớn nhất chính là lối sống của gia đình.
Chẳng hạn mỗi sáng, không ai đánh thức hai chị em. Lúc chúng tôi thức giấc, bố đã đi làm, mẹ vẫn đang ngủ. Tôi luôn là người gọi Marina dậy. Nếu hai chị em dậy muộn, chúng tôi sẽ trễ học. Cho tới khi tôi biết cách đặt chuông báo thức, mỗi buổi sáng là một trò chơi may rủi đúng nghĩa. Tối nào tôi cũng tự hỏi: ngày mai mình có đi học đúng giờ không? Tôi lo lắng đến nỗi đêm nào cũng không yên giấc. Trước đây, tôi chưa bao giờ tè dầm, vậy mà từ lúc về ở với nhà Akiyama cho đến lúc lên cấp hai, thỉnh thoảng tôi vẫn làm ướt đệm.
Sáng dậy, chúng tôi không có gì để ăn sáng. Nồi cơm điện lạnh ngắt, tủ lạnh không bao giờ có gì trừ trứng sống và rau. Nếu trong nhà có món gì, tôi chia với Marina. Sau giờ học, con bé chờ tôi ở sân chơi rồi hai chị em dắt nhau về. Chúng tôi ăn bữa tối sau khi mẹ đi làm về, thường là thức ăn đóng gói bà mang từ siêu thị: khoai tây chiên, rau luộc ăn cùng cơm. Buổi tối chỉ là vậy. Chúng tôi vừa ăn vừa xem tivi, và ăn xong thì bố về đến. Vừa thấy bố, mẹ bỏ ra ngoài. Không phải đêm nào mẹ cũng bỏ đi, nhưng số lần bà ra ngoài nhiều hơn ở nhà. Trong một thời gian dài, tôi và Marina tưởng mẹ phải làm việc ca tối. Dần dần, hai chị em mới biết mẹ ra ngoài đi chơi. Bà đi uống rượu hoặc hát karaoke với đám bạn, có khi đi sàn nhảy.
Mẹ không biết phải làm gì
. Một lần bà nói với tôi. Lúc đó tôi đang học cấp hai.
Mỗi lần nhìn con, mẹ lại nhớ đến người đàn bà đó. Và nghĩ đến bà ta mẹ lại ghét bố con kinh khủng. Tại sao vậy, tại sao lúc nào người chịu đau khổ cũng là mẹ? Mẹ không thể chịu nổi cuộc sống này nữa
.
Rõ ràng mẹ muốn trốn chạy. Người mẹ ruột của tôi đang trốn chạy khỏi căn nhà mà bà vừa mang tôi trở về.
Mỗi lần mẹ ra ngoài, bố thường ngồi ở bàn ăn uống rượu. Thỉnh thoảng, lúc hai chị em đang xem tivi, ông hỏi chúng tôi đã tắm hay làm bài về nhà chưa, như thể ông chợt nhớ ra mình còn có hai đứa con. Nhưng hầu hết mọi lúc, ông đều ngồi đó như tượng đá. Tôi nghĩ bố cũng đang trốn chạy. Điều duy nhất cả bố lẫn mẹ biết làm lúc này là trốn chạy.
Bởi vì không ai dọn dẹp, căn nhà lúc nào cũng nhếch nhác và đầy bụi bẩn. Chưa đầy mười tuổi, tôi đã biết tự mang đệm ra phơi sau mỗi lần tè dầm. Nếu không làm vậy, cả đêm tôi phải ngủ trên chiếc đệm ẩm ướt.
Được đánh thức mỗi sáng, có sẵn điểm tâm; được bạn bè dẫn ra ngoài chơi, cùng nhau cười đùa trong bữa cơm trưa; được mẹ đưa về nhà sau giờ tan học và bữa tối đã dọn sẵn; được mẹ đọc truyện cho nghe đến lúc thiếp ngủ; được sống trong một ngôi nhà luôn tươm tất gọn gàng, bên ngoài rợp bóng cây xanh; được sống ở một nơi mà mọi người luôn mỉm cười chào nhau khi gặp trên đường; và đại dương thẳm xanh chỉ cách vài bước... đó là cuộc đời mà tôi đã đánh mất, cuộc sống của nàng công chúa ở vương quốc xa xôi kia.
Mẹ hiếm khi nào về nhà trước khi hai chị em đã ngủ, nhưng cũng có vài lần bà về sớm. Trong những lần đó, mẹ luôn ở bên tôi. Bà ôm tôi thật chặt, tắm chung, kỳ cọ khắp người tôi, rồi vào nằm cạnh.
Erina
, bà gọi tên tôi không ngừng.
Con có yêu mẹ không? Mẹ có tốt hơn người đàn bà độc ác đã mang con đi không?
Hoặc đôi lúc bà nói:
Mẹ thật hạnh phúc vì con đã trở về, nhưng con có hạnh phúc như mẹ không?
rồi nức nở. Tôi ghét những lúc nhìn thấy bà khóc. Nó làm tôi có cảm giác mình đã phạm phải một lỗi lầm khủng khiếp.
Năm học lớp năm, tôi có người bạn đầu tiên. Đó là Satomi Manabe. Satomi được nhận vào trường tôi sau khi chuyển đến Tokyo. Hình như Satomi không để ý rằng các bạn học đều biết chuyện quá khứ của tôi, bạn đến bắt chuyện khi thấy tôi đứng một mình. Chính nhờ Satomi, tôi đã hiểu ra được toàn bộ câu chuyện bắt cóc.
Satomi sống trong một ngôi nhà có vườn. Mỗi lần đến đó chơi, mẹ bạn ấy luôn chuẩn bị sẵn thức ăn vặt cho hai đứa, nhiều đến nỗi chúng tôi không tài nào ăn hết. Một Chủ nhật nọ, tôi đến nhà dự sinh nhật Satomi và biết mình là người duy nhất trong lớp được mời. Khung cảnh tại gia đình Satomi lúc này giống như trong một vở kịch tôi vẫn thường xem trên tivi. Bố mẹ, con cái nô đùa, tươi cười với nhau, tất cả những món ăn trong bữa tiệc sinh nhật đều là đồ tự nấu. Tôi vẫn còn nhớ khi đó mình đã rất bối rối, như vừa lạc vào một thế giới khác. Bố Satomi tắt đèn để tất cả cùng xem video. Ông đã nối lại những đoạn phim quay cảnh Satomi từ lúc sinh ra đến giờ để mọi người có thể xem lại quá trình lớn lên của bạn ấy. Lúc ngồi với gia đình Satomi, xem những hình ảnh cô bạn khóc trong bồn tắm, sau đó tập bò, rồi bước những bước đi chập chững đầu tiên trên bãi cỏ xanh ngắt, tôi đột nhiên hiểu hết những gì đã xảy ra trong bốn năm đầu tiên của cuộc đời mình.
Khi con mới sinh, con đã bị một người vô cùng xấu xa bắt đi
, tôi đã nghe bố mẹ, ông bà nói câu này rất nhiều lần, nhưng đến lúc này, lần đầu tiên trong đời, tôi mới thật sự hiểu câu nói đó nghĩa là gì. Mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng. Tôi đã biết tại sao cuộc đời mình lại trở nên kỳ lạ như vậy. Tôi không phải là nàng công chúa từ vương quốc xa xôi nọ. Căn hộ bừa bộn tôi đang sống đó chính là nhà tôi. Bố đối xử với tôi như một đứa trẻ xa lạ, mẹ luôn la hét và khóc lóc, những buổi tối vắng nhà triền miên của mẹ - tất cả bắt nguồn từ vụ bắt cóc. Nhưng không, không phải tự nhiên mà vậy, chính người đàn bà mà tôi gần như quên lãng đã gây ra tất cả những điều này - bà đã hủy hoại gia đình tôi. Suốt những năm qua, tôi không thể kết bạn, không bạn học nào chịu bắt cặp với tôi trong lớp thể dục, nhà cửa luôn luôn bừa bộn, cảm giác đau đớn vì nghĩ mình là người có lỗi... tất cả, tất cả những khổ sở tôi đã trải qua đều là lỗi của người đàn bà đó. Tôi không có lỗi.
Lúc ngồi xem video trong căn phòng khách tối om của nhà Satomi, đầu tôi tràn ngập những suy nghĩ bắt đầu bằng từ
nếu
. Nếu không phải vì người đàn bà đó, gia đình chúng tôi sẽ đầm ấm như bao gia đình khác. Nếu không phải vì người đàn bà đó, bố mẹ sẽ hết mực yêu tôi như mọi ông bố bà mẹ yêu con gái mình. Nếu không có người đàn bà đó, các bạn học sẽ không xa lánh tôi. Nếu không có người đàn bà đó... nếu, nếu, nếu.
Lúc đó, tôi cảm thấy thế giới quanh mình đã xoay chuyển hoàn toàn. Người đàn bà xấu xa nhất trên trái đất này. Lần đầu tiên, tôi nhận ra tất cả những điều bố mẹ mình nói đều là sự thật.
Buổi tiệc sinh nhật kết thúc, bố Satomi lái xe chở tôi về nhà. Tôi bước ra khỏi xe và vẫy tay chào Satomi. Chiếc xe vừa rời đi, tôi thấy đau dữ dội trong người. Tôi gập người xuống và nôn ngay tại chỗ tất cả những gì mình đã nuốt vào bụng tối hôm đó. Gà nướng, sushi, bánh kem - tôi đã nôn xuống đường tất cả những món mẹ Satomi kỳ công chuẩn bị.
Cuối năm học đó, Satomi xa lánh tôi. Tôi nhìn thấy cô bạn nói chuyện và cười đùa với các bạn khác trên đường đi học về. Có lẽ Satomi đã nghe các bạn học kể chuyện về tôi nên không chơi với tôi nữa. Tôi không giận Satomi. Tất cả những giận hờn và thù hận trong tôi đều dành cho
người đàn bà đó
, người đã tước đoạt của tôi một cuộc sống bình thường.
Tôi không thấy kinh đã hai tháng nay. Tháng Chín chờ mãi không thấy, tôi cho rằng vòng kinh của mình không đều, nhưng tháng này cũng vậy, trễ 10 ngày rồi. Không thể lờ đi được, tôi phải đối diện với thực tế rằng mình đã tắt kinh.
Tháng Tám, kỳ nghỉ hè kết thúc, cuộc sống của tôi lại trở về như trước, cuộc sống mà tôi vô cùng chán ghét: mỗi sáng thức dậy đến trường, nghe giảng, từ chối những lời mời tụ tập, sau đó làm việc năm ngày mỗi tuần. Thỉnh thoảng gặp Kishida vào thứ Hai. Anh dẫn tôi đi ăn tối, hoặc cả hai về nhà tôi uống bia. Tôi thật sự lo lắng vì kinh nguyệt của mình. Suốt giờ học, tôi không tiếp thu được gì. Giáo sư kết thúc bài giảng và rời khỏi lớp, các bạn nô đùa cười nói râm ran, còn tôi ngồi lặng thinh, nghĩ ngợi. Chỉ là trễ thôi, ngày mai mình sẽ thấy kinh. Nguyên kỳ nghỉ hè mình luôn bỏ bữa trưa, có lẽ thiếu chất nên mới vậy... Trong lúc cố luận ra nguyên do, một ý nghĩ ập đến làm tôi lạnh người.
Chiều nay, lúc bước vào lớp, tôi thấy toàn những gương mặt lạ. Cả vị giáo sư cũng lạ nốt. Hình như tiết bốn đã kết thúc và đây là tiết năm. Tôi không biết những sinh viên ngồi đây học năm nhất hay năm hai. Tôi cũng không biết mình vừa bước vào lớp học môn gì. Giảng đường này khá nhỏ nên không thể tự ý đứng lên, tôi đành ngồi tại chỗ, đầu cúi thấp. Giáo sư đang giảng bài bằng tiếng Nhật nhưng tôi không biết ông nói gì. Tôi chỉ biết nhìn ra cửa sổ, ngắm những chiếc lá mới lúc trước còn sáng lên trong nắng, giờ đã chìm trong bóng râm của ánh chiều tà.
Mình phải làm gì nếu thực sự bị tắt kinh? Nếu có
thứ gì đó
đột ngột chui vào bụng mình? Tôi không bao giờ hành động như người đàn bà đó, vì tôi không ngốc như bà ta - ai đã hùng hồn tuyên bố như vậy? Mặt tôi nóng bừng, mồ hôi túa xuống hai má, nhưng trong người run lẩy bẩy.
Buổi học vừa kết thúc, tôi xách cặp lao ra khỏi giảng đường. Nép vào một góc hành lang giữa nhóm sinh viên tụ tập chung quanh, tôi gọi đến quán rượu xin nghỉ một buổi vì bị ốm. Vừa nghe ông chủ bảo
Giữ gìn sức khỏe nhé
, tôi dập máy ngay, rồi dò danh bạ điện thoại bằng những ngón tay run rẩy. Tôi muốn nói chuyện với ai đó. Tôi muốn được ai đó trấn an mình rằng mọi chuyện vẫn ổn. Những cái tên thay phiên nhau nhấp nháy trên màn hình. Bố - không thể nói chuyện này với ông. Mẹ - nào có thân thiết. Marina - phải bắt đầu thế nào? Kishida - biết mở lời ra sao?
Em có một tin tuyệt vời cho anh đây?
Những cái tên xuất hiện dày đặc trên màn hình, đồng nghiệp tại chỗ làm, bạn học - chẳng một ai gần gũi. Chigusa. Chigusa - trong lúc đang tự hỏi mình sẽ nói gì với chị, tay tôi đã tự động nhấn vào nút
Gửi tin nhắn
.
Lúc ngồi cùng nhau trong một quán nướng gần trường đại học, tôi thấy được an ủi vô cùng vì có Chigusa ở cạnh.
- Em có chuyện gì muốn nói với chị? Tin nhắn của em có vẻ nghiêm trọng. Em nhớ thêm được gì hả?
Chigusa mở sổ tay ra. Chị vừa gọi bia và vài xiên thịt nướng. Tôi nhìn cuốn sổ.
Bia được mang đến, tôi uống ngay một ngụm rồi vừa nói vừa cười:
- Hình như em đang có thai.
Tôi thấy ngạc nhiên với chính mình vì có thể cười trong hoàn cảnh như vậy.
- Cái gì? - Chigusa suýt làm đổ ly bia.
Tôi vội trấn an Chigusa vì thấy chị mở to mắt nhìn tôi:
- Em không chắc nữa. Em bị trễ kinh hai tháng rồi.
Nhưng có thể nay mai lại có. Kinh nguyệt ở tuổi bọn mình vẫn chưa ổn định mà.
Chị vẫn nhìn tôi sững sờ.
- Chị thấy em giống bà ta quá phải không? Chả máu mủ gì với nhau mà hành động y hệt nhau. - Tôi cười.
Chigusa đặt ly bia của mình xuống bàn. Cuối cùng chị cũng mở miệng:
- Có phải là người chị nhìn thấy ở con hẻm hôm nọ? Người đàn ông trông có vẻ tức giận đó?
Những lời của chị làm tôi đau nhói. Chị nói tiếp:
- Em không được uống bia mới phải chứ?
Tôi vẫn cười, trong khi Chigusa trông cực kỳ lo lắng.
- Tại sao không? Em cứ uống. Em sẽ uống bao nhiêu tùy ý, miễn là em thích.
Tôi cố tỏ vẻ thản nhiên, nhưng giọng tôi lại quá cay đắng đến nỗi nó khiến tôi rùng mình. Trễ kinh hai tháng không phải là điều quá bất thường, nhưng tôi vẫn cảm giác mình đã mang thai. Một giọng nói bên trong tôi đang cầu nguyện cho cái bào thai đó hãy chết đi.
Giọng Chigusa vô cùng buồn bã:
- Nào, thôi đi. Em không được nói như vậy. Giờ hai chị em mình về nhà em. Trên đường về, mình sẽ ghé hiệu thuốc mua que thử. Chị sẽ đi cùng em, mình cần kiểm tra xem có phải em có thai thật hay không.
Chigusa thì thầm rồi nắm lấy hai tay tôi. Nhân viên phục vụ đặt một đĩa thịt nướng xiên to tướng xuống bàn.
- Ăn một chút gì đã. - Tôi nói rồi cầm lên một xiên thịt. Tôi ép chặt hai khuỷu tay đang run rẩy xuống bàn để Chigusa không thể thấy, rồi cắn một miếng thịt và quay mặt đi. Miếng thịt nhạt nhẽo, vô vị.
Chigusa đề nghị đi tàu điện ngầm, nhưng khi tôi khăng khăng muốn dạo bộ về nhà, chị không phản đối. Chị cầm một túi ni-lông nhỏ xíu đựng que thử thai mua ở hiệu thuốc. Không khí mát lạnh của buổi tối mơn man hai má cộng thêm men bia làm tôi thấy phấn chấn. Chúng tôi thư thả bước cạnh nhau. Đường vắng bóng người, chỉ có ánh đèn pha của những chiếc ô-tô lướt quang qua.
- Lúc nãy em nói gì đó về việc giống hệt người đàn bà đó. Ý em là sao?
- À, chắc em chưa nói với chị. Người đàn ông chị nhìn thấy ở con hẻm hôm nọ là người em đang hẹn hò.
Anh ta có vợ con rồi. - Tôi đáp lại, giả vờ như đó chẳng phải chuyện gì to tát. Trong bóng tối, tôi có thể nhận thấy Chigusa bối rối nhìn mình rồi quay đi. - Không ngờ em cũng có kết cục giống người đàn bà đó. Chắc chị thấy em ngu ngốc lắm hả. Chính em cũng thấy mình quá ngốc nghếch.
- Vậy là em thật lòng yêu anh ta.
- Em chẳng biết nữa. - Tôi nói. Đó là sự thật. - Có khi nào chị thấy mình quen biết rất nhiều người, trò chuyện với họ mỗi ngày, nhưng thật ra... Chị hiểu em nói gì không? Hàng ngày em gặp gỡ bạn bè ở trường, nhưng em thấy bọn chúng chẳng khác gì những người xa lạ gặp trên tàu điện. Thật khó có thể gặp được một người mà mình có thể thoải mái tâm sự, cười đùa, hỏi han thân tình... ít nhất là em cảm thấy như vậy. Còn khi ở với Kishida, dù mỗi tuần có một ngày được ở bên anh ấy, nhưng em thấy dễ chịu lắm.
- Nhưng chị thì sao? Chị cũng đang ở cùng em mà. Hai chị em mình gặp nhau rất nhiều lần, đúng không? - Giọng Chigusa nghe lo lắng đến nỗi tôi lại bật cười thêm lần nữa.
- Nhưng chị là phụ nữ. Ở bên chị đâu giống với lúc ở bên người yêu.
Chigusa không nói gì, cúi đầu lặng lẽ bước. Phía trước có ánh sáng hắt ra từ một cửa hàng tiện lợi. Tôi vừa định rủ Chigusa ghé vào đó một chút thì chị cất tiếng:
- Chị chưa cùng ai cả. Chị vẫn còn nguyên. - Giọng Chigusa nhẹ bổng và thản nhiên, tôi biết chị cũng đang cố tỏ ra dửng dưng như lúc tôi kể với chị về chuyện Kishida đã có gia đình. - Vậy nên chị thật sự không hiểu. Chị không hiểu cảm giác khi ở bên một người đàn ông, khi yêu một ai đó và gần gũi họ. Chị chẳng biết gì về mấy chuyện đó hết. Nên có lẽ chị không thể hiểu cảm giác của em.
- Ừm. - Tôi khẽ gật.
- Việc lớn lên ở Gia đình Thiên thần, nhất là khi đó không phải sự lựa chọn của mình, nhiều lúc khiến chị rất giận. Chẳng hạn chị chẳng thể quen với trường học, hoặc bị các bạn bắt nạt. Nhưng dù sao mấy chuyện đó cũng qua rồi. Chỉ có một chuyện mà đến bây giờ chị vẫn buồn phiền, đó là chị chẳng thể thích nổi đàn ông. Họ vẫn làm chị sợ. Nếu cứ như thế này mãi, chắc chắn chị sẽ không bao giờ yêu được ai. Đôi lúc, chị thật sự sợ hãi khi nghĩ rằng mình sẽ phải cô đơn cả đời. Vì vậy chị không thể tha thứ cho mẹ chị và chị không ngừng tự hỏi
Tại sao?
Tại sao mẹ không cho chị sống một cuộc đời bình thường?
- Chigusa nhìn xuống chân, hình như chị đang đá mấy hòn đá cuội trên đường.
Tôi chợt đề nghị:
- Này, mình vào kia mua thêm bia nhé? Chigusa trợn mắt hỏi:
- Em muốn uống nữa hả?
Hai chị em ngồi uống bia trên một chiếc ghế đá trong công viên.
Lạnh quá
Tối nữa
Sao không về nhà em mà uống?
Đầu tiên Chigusa than vãn, nhưng cuối cùng chị vẫn ngồi cạnh tôi với một lon bia trong tay. Những cột đèn tỏa bóng xuống đường tạo thành dãy khối vuông lờ mờ. Tàn cây che mất ánh đèn đường, công viên tối đen. Tôi nhìn thấy tấm bạt nhựa màu xanh giữa mấy bụi cây. Hình như có người sống ở đó.
- Em không muốn về nhà à? Em sợ phải thử thai, đúng không?
Chigusa nói đúng. Tôi biết nhưng không đáp lại. Không khí lạnh lẽo buổi tối làm bia mất đi vị ngon. Nhưng tôi vẫn không ngừng nốc bia.
Tôi xoay tròn lon bia trong tay:
- Chị nghĩ gì khi lần đầu tiên nghe kể về những con ve sầu?
Chigusa nhìn tôi. Tôi hỏi tiếp:
- Chị có sốc không khi biết rằng những con ve sầu phải sống dưới lòng đất chừng ấy năm, để rồi chết ngay sau khi chui ra khỏi mặt đất?
- Em nói cụ thể xem nào.
- Bọn chúng chỉ sống được khoảng ba hoặc bảy ngày, em không nhớ chính xác. Khi còn bé, em thấy như vậy thật bất công, tại sao sau bao nhiêu năm chờ đợi trong lòng đất, đến lúc thoát khỏi, chúng chỉ được sống có vài ngày?
Tôi ngước mắt nhìn bức tường tối, bóng cây che khuất tầm nhìn. Vài tháng trước, mỗi lần tôi đạp xe qua công viên này, bầu không khí mùa hè như rung lên vì tiếng ve sầu. Có lúc tôi dừng lại, ngước mắt lên những ngọn cây nghiêng nghiêng dưới ánh mặt trời để tìm những con ve sầu. Bọn chúng chắc chắn đang ở đâu đó, nhưng hiếm khi nào tôi thấy được dù chỉ một con.
- Còn bây giờ, khi đã lớn, em thấy như vậy hóa ra lại tốt. Bởi vì đó là kết cục chung của tất cả bọn chúng. Những con ve sầu sẽ không còn ngừng tự hỏi sao chúng phải chết quá sớm. Nhưng sẽ thế nào nếu vẫn còn một con sống sót sau bảy ngày?
Con ve sầu đơn độc này sẽ ra sao khi đồng loại của mình đều đã ra đi?
Lon bia vẫn còn một phần ba; tôi dốc ngược nó xuống. Có tiếng xèo xèo trên mặt đất.
- Sống vậy thì buồn đau biết bao.
Chigusa không nói một lời. Tôi lại ngẩng nhìn những tàn cây chìm trong bóng tối. Có lẽ trên đó vẫn còn một con ve sầu, nó vẫn sống và đang bám vào vỏ một thân cây. Nó vẫn kêu nhưng tiếng kêu quá nhỏ và lẻ loi nên chẳng ai hay nó vẫn còn đó.
Chigusa nói khẽ;
- Mình về thôi.
Tôi cố lấy giọng tỉnh rụi:
- Em phải đi vệ sinh. Và sẵn tiện, em sẽ kiểm tra luôn.
- Sao? ở đây luôn á? - Giọng chị đầy lo lắng.
- Bây giờ em say quá rồi, nên ra sao thì ra, chứ về nhà, em sợ mình tỉnh lại thì không biết làm thế nào.
Chigusa lấy ra chiếc hộp giấy thuôn dài, cầm tờ hướng dẫn đưa ra phía ánh sáng và đọc.
- Hướng dẫn bảo em phải tiểu vào cái này nè.
Tôi lấy hộp nhựa từ tay Chigusa rồi vào phòng vệ sinh. Nhà vệ sinh nằm trong góc công viên, nó sáng bật lên giữa đêm tối, trông như một chiếc đĩa bay vừa đáp xuống. Tôi ngồi tiểu trong căn phòng bốc mùi, nhìn những hình vẽ bằng sơn đầy trên tường, bỗng thấy những gì mình đang làm thật lố bịch.
Lúc ra ngoài với que thử thai vẫn đang nhỏ nước tiểu, tôi bật cười. Chigusa xuất hiện ngay bên cạnh tôi với vẻ mặt lo lắng.
- Em phải đợi năm phút. Nếu không có gì hiện lên ở khung này thì không sao cả.
Chigusa đẩy tôi đến chỗ cột đèn. Cả hai im lặng nhìn chằm chặp vào que thử. Không biết lúc này trông mình thế nào nhỉ, đứng ở một nơi như thế này đợi chờ xem mình có thai hay không, tôi tự hỏi. Đến khi một đường màu xanh từ từ hiện lên thì bao sợ hãi hay lo lắng bỗng nhiên biến đi, tôi chấp nhận sự thật như là nó phải vậy.