Quyển II: Trò chơi Nô-en
-
Cái trống thiếc
- Günter Grass
- 5713 chữ
- 2020-05-09 03:50:37
Số từ: 5690
Dịch giả: Dương Tường.
Đánh máy & Hiệu đính: galazyrulz, tducchau, Ct.Ly
Nguồn: casau - NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN - VNthuquan.net
Dạo ấy, người ta nói nhiều đến vũ khí bí mật và thắng lợi cuối cùng. Băng Quét Bụi chúng tôi chẳng bàn bạc gì về cả hai đề tài đó, nhưng chúng tôi có vũ khí bí mật của mình.
Bước đầu tiên của Oskar sau khi tiếp nhận quyền lãnh đạo băng (gồm 30-40 thành viên) là bảo Störtebeker giới thiệu mình với Moorkähne, thủ lĩnh băng ở Neufahrwasser. Đó là một thiếu niên mười sáu tuổi, con trai một viên chức Phòng hoa tiêu ở Neufahrwasser; khuyết tật cơ thể - chân phải gã ngắn hơn chân trái khoảng hai xăngtimét - đã khiến gã không được tuyển quân dịch hoặc vào Bổ trợ quân Luftwaffe. Tuy hơi phô cái chân tập tễnh, nhưng Moorkähne lại là người rụt rè và nói năng nhỏ nhẹ, với một nụ cười tinh tế thường trực trên môi. Gã được coi là học sinh xuất sắc nhất lớp hết cấp của trường Conradinum. Gã hoàn toàn có triển vọng đỗ tú tài loại ưu, nếu quân đội Nga không phản đối; gã định sau đó sẽ học triết.
Cũng như Störtebeker mà tôi đã tranh thủ được sự tôn trọng hoàn toàn, Moorkähne công nhận tôi là Jêxu đứng đầu toàn băng Quét Bụi. Ngay lập tức Oskar yêu cầu cho xem kho chứa và quỹ chung, vì cả hai nhóm đều tập trung chiến lợi phẩm vào cùng một chỗ, căn hầm rộng rãi của một biệt thự yên tĩnh, sang trọng ở đường Jeschkenthaler thuộc khu Langfuhr. Ngôi nhà phủ đầy dây leo và trường xuân này là chỗ ở của ông bà Von Puttkamer, bố mẹ của Mát-Tít. Ông von Puttkamer, một quý tộc gốc Pomerania, Ba Lan và Phổ, huân chương Hiệp sĩ, đang viễn chỉnh ở nước Pháp tươi đẹp, chỉ huy một sư đoàn; bà Elisabeth von Puttkamer, mấy tháng gần đây, an dưỡng ở vùng cao nguyên Bavaria vì lý do sức khoẻ. Wolgang von Puutkamer, tên thật của Mát-Tít, được giao cho trông nom nhà; còn bà vú già nghễnh ngãng lo việc hầu hạ cậu chủ nhỏ, thì không bao giờ xuống đến dưới tầng trệt, và chúng tôi chẳng bao giờ trông thấy bà vì chúng tôi vào hầm qua lối phòng giặt.
Trong kho, chất đống các loại đồ hộp, thuốc lá sợi và nhiều dùi cui bằng vải dù. Treo ở một cái giá, là hai tá đồng hồ của quân đội mà Störtebeker ra lệnh cho Mát-Tít phải giữ cho chạy đúng giờ. Một nhiệm vụ khác của Mát-Tít là giữ cho hai khẩu súng liên thanh, một khẩu súng trường và các súng ngắn luôn luôn sạch bóng. Chúng còn cho tôi xem một khẩu ba-dô-ka, một lô đạn súng máy và hai mươi lăm quả lựu đạn. Tất cả những thứ đó và rất nhiều can xăng là để chuẩn bị cho cuộc tập kích vào Phòng Phân phối Lương thực Thực phẩm. Mệnh lệnh đầu tiên của Oskar-Jêxu là: "Chôn các loại súng và các can xăng trong vườn. Giao các dùi cui cho Jêxu. Chúng ta dùng vũ khí loại khác kia."
Khi bọn chúng đưa tôi xem một hộp xì-gà đựng đầy các huân chương, huy chương và huy hiệu ăn cắp được, tôi mỉm cười bảo chúng có thể giữ những thứ đó. Nhưng đáng ra tôi nên tịch thu loại dao của lính dù. Về sau, quả nhiên chúng dùng những lưỡi dao lắp vừa khít vào chuôi như thể chỉ cầu xin được phục vụ.
Rồi chúng đem hòm quỹ đến. Oskar bảo chúng đếm, rồi tự mình kiểm tra lại toàn bộ. Quỹ tiền mặt của Quét Bụi lên tới hai nghìn bốn trăm hai mươi reichmark. Đó là vào đầu tháng chín 1944. Đến giữa tháng giêng 1945, khi Koniev và Joukov 1 chọc thủng phòng tuyến sông Vistula, Mát-Tít thú nhận và chúng tôi buộc phải nộp quỹ của băng cho chính quyền. Ba mươi sáu nghìn reichmark được xếp thành từng chồng, từng bó trên chiếc bàn dài của Toà án Quận.
Đúng với bản chất của mình, trong mọi hoạt động, Oskar chỉ đứng ở hậu trường. Ban ngày, tôi đi ra ngoài, một mình hoặc cùng với Störtebeker, để kiếm những mục tiêu đáng đánh cho những cuộc ra quân đêm. Còn việc tổ chức thực tế, tôi giao cho Störtebeker hay Moorkähne. Sau khi đêm xuống, tôi không bao giờ ra khỏi căn hộ của Mamăng Truczinski. Phương pháp đó dẫn chúng tôi đến vũ khí bí mật. Tôi đứng ở phòng ngủ của mình, phóng giọng tới một tầm xa chưa từng thấy, nhằm vào vào những cửa sổ tận đầu đằng kia thành phố. Tôi huỷ diệt kính cửa của nhiều trụ sở Đảng, một xưởng in in các tem và thẻ phân phối lương thực-thực phẩm và một lần, miễn cưỡng chiều theo yêu cầu của các chiến hữu, phá tan những cửa sổ bếp của nhà một tay hiệu trưởng trường trung học đã xúc phạm họ.
Đó là vào tháng 11. Trong khi các rốc-két V-1 và V-2 bay sang Anh quốc, thì giọng tôi bay cao trên Langfuhr, dọc theo những hàng cây ở đại lộ Hindenburg, vượt qua Nhà ga Trung tâm và Khu phố cổ, tìm đến Viện Bảo tàng ở phố Hàng Thịt. Tôi đã lệnh cho quân của tôi vào đó kiếm bức tượng gỗ Niobe.
Họ kiếm không ra. ở phòng bên, Mamăng ngồi bất động, chỉ có cái đầu hơi lúc lắc. Cách nào đó, chúng tôi có một cái gì chung, bởi vì trong khi Oskar đang hát tầm xa thì bà bận bịu với những ý nghĩ tầm xa. Bà sục sạo Thiên đường của Chúa tìm con trai Herbert và chiến tuyến của Quân khu Trung tâm tìm con trai Fritz. Bà còn phải bay đến một nơi xa khác tìm con gái cả Guste lấy chồng hồi đầu năm 1944, rồi theo chồng về tít tận Düsseldorf vì đó là quê của trưởng bồi bàn Köster, mặc dù anh này phần lớn thời gian phải ở Courland. Guste chỉ được ở bên chồng cho quen hơi bén tiếng trong vỏn vẹn có hai tuần khi anh về phép.
Đó là những tối bình yên. Oskar ngồi dưới chân Mamăng Truczinski, ứng tấu một đoạn trên trống, lấy một quả táo nướng trong bếp lò rồi mang cái quả nhăn nhúm dành cho bà già và trẻ con ấy vào phòng ngủ. Gã nhấc lớp giấy che sáng phòng không ra, mở hé cửa sổ, để cho một chút đêm băng giá lọt vào, rồi nhằm mục tiêu và bắt đầu phóng giọng hát tầm xa. Gã không nhằm các vì sao, dải Ngân Hà không phải là đường đi của gã. Tiếng hát của gã hướng tới Quảng trường Winterfeld, không nhắm vào Đài Phát thanh, mà vào cái nhà hộp dùng làm trụ sở Quận của Đoàn Thanh niên Hitler.
Vào lúc trời quang đãng, công việc của tôi chỉ mất không đầy một phút. Trong thời gian đó quả táo của tôi đã nguội đi một chút bên cạnh cửa sổ mở hé. Tôi vừa nhai vừa quay lại với Mamăng Truczinski và cái trống của mình. Lát sau, tôi về giường, tin chắc rằng trong khi Oskar ngủ thì băng Quét Bụi, nhân danh Jêxu, đang vơ vét của cải của Đảng, lấy đi các thẻ phân phối thực phẩm, những con dấu, những mẫu đơn in sẵn hoặc danh sách đoàn viên của một đôi tuần tra Thanh niên Hitler.
Tôi rộng lượng cho phép Störtebeker và Moorkähne dùng giấy tờ giả để tiến hành nhiều vụ áp-phe gian lận. Kẻ thù số một của băng là Sở Tuần tra. Tôi không phản đối nếu họ ưng bắt cóc kẻ địch, quét bụi cho chúng và - nói theo cách của Ăn Cắp Lửa, người phụ trách loại hoạt động này - "đánh bóng chim" cho chúng một tí.
Vì tôi không trực tiếp tham gia các cuộc ra quân ấy (đó chỉ đơn thuần là khúc dạo đầu, qua đó khó bề hình dung ra những kế hoạch thực sự của tôi), nên tôi không thể nói chắc có phải băng Quét Bụi, vào tháng chín 1944, đã trói gô hai sĩ quan cao cấp của Sở Tuần tra, trong đó có tên Helmut Neitberg hung dữ, và dìm chết chúng ở sông Mottlau, mé trên cầu Bò Cái.
Tuy nhiên, với tư cách là người ra mệnh lệnh cho những kẻ Quét Bụi, tôi, Oskar-Jêxu, thấy cần phải bác bỏ một số chuyện được lan truyền sau đó: chẳng hạn chuyện băng Quét Bụi có liên lạc với bọn hải tặc Edelweiss ở Cologne hay du kích Ba Lan ở Tuchlerheide đã có ảnh hưởng đối với chúng tôi, thậm chí đã chỉ đạo những hành động của chúng tôi nữa. Tất cả những cái đó hoàn toàn là bịa đặt.
Tại phiên toà xử chúng tôi, người ta còn kết tội chúng tôi có dính líu đến vụ âm mưu ngày 20 tháng bảy vì cha của Mát-Tít, Agust von Puttkamerlaf, từng là người thân cận của Thống chế Rommel và đã tự sát. Từ khi bắt đầu cuộc chiến, Mát-Tít chỉ gặp cha không quá năm, sáu lần và mỗi lần chỉ vừa đủ lâu để nó quen với sự thay đổi phu hiệu cấp bậc trên quân phục của ông. Mãi tới khi chúng tôi bị ra toà, nó mới lần đầu tiên nghe nói đến sự khờ dại của vị sĩ quan đó, mà thật tình chúng tôi chẳng hề quan tâm. Khi nghe vậy, nó khóc thảm hại đến nỗi Ăn Cắp Lửa, ngồi kề bên, phải quét bụi nó ngay trước mặt các quan toà.
Trong quá trình hoạt động của chúng tôi, chỉ có độc một lần người lớn tiếp cận chúng tôi. Một số công nhân đóng tàu - đảng viên cộng sản, tôi chỉ liếc nhìn một cái là biết ngay - tìm cách gây ảnh hưởng với chúng tôi qua các thợ học việc của xưởng đóng tàu Schichau trong băng chúng tôi và biến chúng tôi thành một phong trào đỏ bí mật. Đám thợ học việc có phần ngả theo. Nhưng cánh học sinh trung học trong chúng tôi khước từ mọi khuynh hướng chính trị. Me-xừ, bổ trợ quân Luftwasse, cây lý luận khuyển nho của băng chúng tôi, tuyên bố quan điểm của mình trong một cuộc họp băng như sau: "Chúng ta chẳng dinh dáng gì với các chính đảng cả. Chúng ta đấu tranh chống cha mẹ chúng ta và tất cả những người lớn khác, bất kể họ ủng hộ hay chống cái gì."
Đúng là nó dùng lời lẽ hơi quá mạnh, nhưng cả đám học sinh đều đồng ý; kết quả là đi đến chỗ phân liệt. Đám thợ học việc đóng tàu tách ra lập một câu lạc bộ riêng - tôi rất buồn vì đó là những gã rất tốt. Bất chấp sự phản đối của Störtebeker và Moorkähne, họ vẫn tiếp tục lấy tên là Quét Bụi. Tại phiên toà - bọn họ bị bắt cùng lúc với bọn tôi - họ bị khép tội đã đốt cái tàu-ngầm-trường-huấn-luyện ở trong lưu vực của xưởng đóng tàu. Hơn một trăm học sinh sĩ quan đã chết thảm khốc. Đám cháy bùng ra ở trên boong; đoàn thuỷ thủ bị mắc kẹt và khi các học sinh sĩ quan - những thanh niên mười tám đôi mươi - tìm cách thoát thân qua những lỗ bên sườn tàu, hông họ không lọt và lửa bắt vào họ từ phía sau; họ cứ chới với ở đó mà la thét và cách duy nhất để chấm dứt đau đớn cho họ là đưa một cái xuồng máy đến xả súng vào họ.
Chúng tôi không liên quan gì đến vụ cháy đó. Có thể là đám thợ học việc ở Schichau, cũng có thể là Hội Westerland. Băng Quét Bụi không phải là những kẻ đốt nhà mặc dù tôi, người dẫn dắt tinh thần của họ, có thể thừa kế một chút gien phóng hỏa từ ông ngoại Koljaiczek.
Tôi nhớ rõ người thợ cơ khí đến gặp chúng tôi ở hầm kho ít lâu trước khi băng tách đôi - hắn ta vừa từ xưởng Deutsche Werke ở Kiel chuyển tới Schichau. Erich và Horst Pietzger, hai con trai của một công nhân bốc dỡ ở Fuchswall, dưa hắn ta đến. Hắn ta xem xét kho của chúng tôi với một vẻ chuyên nghiệp, lấy làm tiếc là không có vũ khí tiện dụng, nhưng rồi cũng nặn ra vài lời khen ngợi miễn cưỡng. Khi hắn ta ngỏ ý muốn nói với sếp, Moorkähne hơi ngần ngừ còn Störtebeker thì dứt khoát chỉ sang tôi. Thế là hắn bật ra một tràng cười xấc xược và kéo dài đến nỗi Oskar gần như muốn ra lệnh cho anh em quét bụi hắn một trận.
"Các cậu gọi cái chú lùn này là gì?" hắn nói với Moorkähne, ngón tay cái chĩa qua vai về phía tôi.
Moorkähne mỉm cười, rõ ràng là bối rối. Trước khi cậu ta kịp nghĩ ra điều gì để nói, Störtebeker trả lời với một vẻ điềm tĩnh dễ sợ: "Đó là Jêxu của chúng tôi."
Đến đây thì tay thợ cơ khí tên là Walter này hết chịu nổi; hắn tự cho phép mình lăng mạ chúng tôi ngay tại sở chỉ huy của chúng tôi. "Này, các cậu là những người cách mạng hay một bầy trẻ trong ban hát nhà thờ chuẩn bị làm một trò chơi Nô-en?"
Lưỡi của một con dao lính dù bật ra từ ống tay áo Störtebeker; gã mở cửa hầm, ra hiệu cho Ăn Cắp Lửa và nói, với băng mình hơn là với tay thợ cơ khí: "Chúng ta là ban hát nhà thờ và chúng ta đang chuẩn bị cho một trò chơi Nô-en."
Nhưng không có gì hung bạo xảy ra cho tay thợ cơ khí cả. Hắn bị bịt mắt và dẫn đi khỏi. ít ngày sau, chính cái tay Walter này tổ chức các thợ học việc đóng tàu thành một câu lạc bộ riêng và tôi dám chắc chính họ đã phóng hỏa đốt con tàu-ngầm- trường-huấn-luyện.
Theo quan điểm của tôi, Störtebeker đã có câu trả lời đúng. Chúng tôi không quan tâm đến chính tri; Sau khi đã làm cho bọn tuần tra thuộc Đoàn Thanh niên Hitler sợ vãi đái, đến mức hầu như không dám rời trụ sở, trừ một vài lần ra xét giấy bọn gái lẳng lơ lảng vảng ở ga xe lửa, chúng tôi bèn chuyển diện hoạt động sang các nhà thờ và bắt đầu - như tay thợ cơ khí cộng sản nói - chuẩn bị những trò chơi Nô-en.
Trước hết, chúng tôi phải lo bổ sung lực lượng thay thế đám thợ học việc bị tha hóa. Cuối tháng mười, Störtebeker kết nạp hai anh em Felix và Paul Rennwand, cả hai đều là thành viên ban đồng ca của Nhà thờ Thánh Tâm. Störtebeker đã làm quen với hai cậu này qua Lucy, cô em gái mười sáu tuổi của họ. Bất chấp sự phản đối của tôi, Lucy đã được phép dự lễ tuyên thệ kết nạp. Đặt tay trái lên cái trống của tôi - mà hai chàng lãng mạn này ưa coi như một thứ biểu tượng - anh em nhà Rennwand nhắc lại lời thề trung thành, một bài văn ngớ ngẩn đầy từ ngữ hẩu lốn, bí ẩn đến nỗi tôi không tài nào nhớ nổi.
Oskar quan sát Lucy trong lễ tuyên thệ. Một miếng xăng-đuých hơi rung rung trong tay, cô ta nhún vai và cắn môi dưới: Bộ mặt cáo ba góc của cô ta trống trơn vô biểu cảm, đôi mắt xoáy vào lưng Störtebeker. Tự dưng tôi bỗng thấy lo cho tương lai của băng Quét Bụi.
Chúng tôi bắt đầu trang hoàng lại căn hầm. Với sự cộng tác chặt chẽ của anh em Rennwand, từ căn hộ của Mamăng Truczinski tôi chỉ đạo việc kiếm trang thiết bị. Chúng tôi lấy của điện Nữ thánh Catherine một tượng Joseph thế kỷ 16 nửa cỡ (sau đó, qua giám định thì đúng là đồ "gin"), mấy đài nến, nhiều bình, ly thờ các loại và một cờ Minh Thánh Chúa. Một cuộc thăm viếng Nhà thờ Chúa Ba Ngôi vào ban đêm mang lại cho chúng tôi một tượng gỗ thiên thần thổi kèn không mấy giá trị về nghệ thuật và một bức thảm màu sao lại một bản gốc cổ, trên đó dệt hình một cô nàng rất yểu điệu thục nữ và giả dối và một con vật huyền thoại gọi là kỳ lân phủ phục dưới chân nàng. Nụ cười của nàng, như Störtebeker nhận xét, có gì na ná như cái vẻ đùa cợt nanh ác bao trùm bộ mặt cáo của Lucy và tôi mong rằng người phụ tá của tôi đừng để cô ta khuất phục như con kỳ lân kia. Chúng tôi treo bức thảm lên mảng tường cuối căn hầm, trước đó được trang trí bằng những thứ vớ vẩn như "Đầu Tử Thần", "Bàn Tay Đen" v.v... và chẳng bao lâu cái môtip kỳ lân dường như trở thành chủ đạo trong mọi cuộc thảo luận của chúng tôi. Trong khi đó, Lucy cứ thoải mái giữa chúng tôi như ở nhà mình, cười mũi sau lưng tôi, muốn đến lúc nào thì đến, muốn đi lúc nào thì đi. Tại sao, tôi tự hỏi, tại sao chúng ta lại phải rước về thêm một cô Lucy thứ hai, cái cô Lucy dệt này; cả hai đang biến những phụ tá của mày thành những con kỳ lân; dù thật hay dệt, cả hai đều đang nhằm vào mày, Oskar, là chính, bởi vì trong toàn băng Quét Bụi, chỉ mình mày là thực sự huyền thoại và duy nhất, mày là người kỳ lân.
Nhưng rồi Mùa Vọng tới và đó là dịp làm ăn tốt cho chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu thu gom các tượng về đề tài Giáng sinh từ khắp các nhà thờ trong vùng và chẳng bao lâu, chúng che lấp bức thảm đến nỗi ảnh hưởng của câu chuyện huyền thoại bị chìm đi - hoặc là tôi nghĩ thế. Giữa tháng 12, Rundstedt mở cuộc tấn công ở vùng núi Ardennes và chúng tôi cũng hoàn tất việc chuẩn bị cho Cú Đòn lớn của mình.
Mấy chủ nhật liền, tôi dự buổi lễ chầu mười giờ cùng với Maria giờ đây đã hoàn toàn đắm mình vào Thiên Chúa giáo, khiến Matzerath rất buồn. Theo lệnh của tôi, anh em trong băng Quét Bụi cũng thường xuyên đi lễ nhà thờ. Đó là cách thám thính trận địa của chúng tôi. Cuối cùng, đêm 18 tháng chín, chúng tôi đột phá vào Nhà thờ Thánh Tâm. "Đột phá" là một cách nói thôi vì nhờ hai anh em Rennwand, thành viên ban hát lễ, chúng tôi chẳng cần phải phá gì cả. Thậm chí Oskar cũng không lần nào phải cất giọng để đập thuỷ tinh.
Đêm ấy có mưa tuyết, nhưng tuyết vừa rơi đã tan liền. Bọn tôi dúi ba chiếc xe ba gác đằng sau phòng để đồ lễ. Rennwand-em có chỉa khóa cửa chính. Oskar vào trước, dẫn các chiến hữu lần lượt đến trước bồn nước thánh và bảo họ quỳ gối hướng về ban thờ chính. Rồi ra lệnh lấy tấm mền đánh cắp ở Sở Lao động phủ lên pho tượng Thánh Tâm để Chúa Kirixitô khỏi cản trở công việc của chúng tôi bằng cái nhìn xanh lơ của Người. Choi-Choi và Me-xừ mang dụng cụ đến khu vực hành động - ban thờ bên trái. Phải dọn sạch cái máng cỏ với những tượng Giáng sinh cùng những cành thông xanh cho khỏi vướng. Chúng tôi đã có các mục đồng và thiên thần, cừu, lừa và bò đủ số cần thiết. Căn hầm của chúng tôi ê hề vai chạy cờ, chỉ thiếu những nhân vật trung tâm. Belisarius cắt bỏ hoa khỏi ban thờ. Totila và Teja cuộn tấm thảm lại. Ăn cắp Lửa giở gói đồ nghề. Quỳ sau một cái ghế nguyện, Oskar giám sát các công đoạn.
Đầu tiên là phải cưa rời chú bé Jean Baptiste quấn tấm da thuộc màu sô-cô-la ra khỏi bệ. May sao chúng tôi lại có cái cưa kim khí vì bên trong lớp thạch cao có cốt sắt to bằng ngón tay nối liền chú ta với đám mây. Ăn cắp Lửa làm nhiệm vụ cưa. Nó thực thi việc này như một nhà trí thức, nghĩa là rất vụng về. Một lần nữa, tôi lại cảm thấy tiếc các tay thợ học việc ở xưởng đóng tàu Schichau. Störtebeker thay phiên Ăn cắp Lửa. Gã có khéo hơn một chút và sau nửa tiếng đồng hồ kẽo kẹt, chúng tôi ngả được Jean xuống và bọc cu cậu vào một cái chăn len. Rồi chúng tôi thỗ hổn hển một lúc trong im lặng giáo đường lúc nửa đêm.
Việc cưa rời Chúa Jêxu hài đồng mất nhiều thời gian hơn một chút vì cả cặp mông dính vào đùi Đức Mẹ Đồng Trinh. Choi-Choi, Rennwand-anh và Sư Tử Tâm hì hục cả bốn mươi phút đồng hồ. Nhưng Moorkähne đâu nhĩ? tôi tự hỏi. Cậu ta đã đề xuất ý kiến là sẽ đưa quân từ Neufahrwasser đến thẳng nhà thờ gặp chúng tôi, như vậy sẽ đỡ thu hút sự chú ý hơn. Störtebeker có vẻ bồn chồn và bực bội. Mấy lần gã hỏi anh em Rennwand về Moorkähne. Khi, cuối cùng, như tất cả chúng tôi đều chờ đợi, cái tên Lucy được thốt ra, thì Störtebeker không hỏi gì nữa mà giựt phắt cái cưa kim khí từ đôi tay lóng ngóng của Sư Tử Tâm và cưa như điên, giáng coup de grace 2 cho Chúa Jêxu hài đồng.
Khi ngả Jêxu xuống, vòng hào quang trên đẩu bị vỡ. Störtebeker xin lỗi tôi. Khó khăn lắm mới tự kiềm chế được - vì bản thân tôi cũng bị lây tâm trạng bực bội chung - tôi bảo anh em nhặt những mảnh vỡ gom vào hai cái mũ cát-két. Ăn cắp Lửa cho rằng vòng hào quang có thể gắn lại được. Jêxu được gói trong mền có gối đệm.
Kế hoạch của chúng tôi là cưa Đức Mẹ Đồng Trinh ở chỗ eo, làm một nhát cắt thứ hai giữa đám mây và gan bàn chân của Người. Chúng tôi sẽ để đám mây lại nguyên chỗ, chỉ lấy đi những hình người: Jêxu, hai nửa của Đức Mẹ Đồng Trinh và chú bé Jean Baptiste, nếu còn chỗ trong một chiếc xe ba-gác. Chúng tôi lấy làm mừng khi thấy các bức tượng nhẹ hơn chúng tôi chờ đợi. Cả nhóm tượng đều được đổ rỗng. Thành tượng không dày quá hai phân và phần nặng duy nhất là cốt sắt.
Anh em đều mệt nhoài, nhất là Ăn Cắp Lửa và Sư Tử Tâm. Phải tạm ngừng công việc cho họ nghỉ một chút vì những người khác, kể cả anh em nhà Rennwand, không biết cưa. Mọi người ngồi run rẩy trên những ghế nguyện, Störtebeker đứng vò nhàu chiếc mũ nhung mà gã đã cất khỏi đầu khi bước vào nhà thờ. Tôi không thích cái không khí này. Phải làm một cái gì. Anh em đang bị tác động bởi kiến trúc tôn giáo đầy khoảng trống và đêm tối. Một số băn khoăn về sự vắng mặt của Moorkähne. Anh em Rennwand có vẻ sợ Störtebeker; họ đứng né một bên thì thầm cho đến khi Störtebeker ra lệnh cho họ im.
Tôi thở dài và từ từ đứng dậy khỏi chiếc đệm lót đầu gối, đi thắng đến chỗ Đức Mẹ Đồng Trinh vẫn đang ở nguyên chỗ cũ. Mắt Người, vừa nãy hướng về Jean, giờ nhìn xuống những bậc ban thờ trắng xóa bụi thạch cao. Ngón trỏ bên tay phải, ít phút trước vẫn còn chỉ Jêxu, giờ chĩa vào khoảng không, hay đúng hơn vào lối đi bên trái tối om của gian giữa. Tôi lên từng bậc một, rồi ngoái lại, tìm cách thu hút sự chú ý của Störtebeker. Đôi mắt sâu của gã đang ở tận đâu đâu. Mãi tới khi Ăn Gắp Lửa hích gã một cái, gã mới nhìn tôi nhưng vói một vẻ thiếu tự tin mà tôi chưa bao giờ thấy ở gã. Thoạt đầu, gã chưa hiểu ý tôi, rồi gã hiểu ra, hoặc hiểu một phần và chậm rãi, rất chậm rãi tiến lên. Nhưng đến các bậc ban thờ thì gã nhảy có một bước rồi nhấc bổng tôi đặt lên vết cưa vụng về trăng trắng, lòm xờm trên đùi Đức Mẹ Đồng Trinh, khuôn gần đúng hình mông Chúa hài đồng Jêxu.
Störtebeker lập tức quay lại và chỉ một bước, gã đã đứng trên sàn đá lát. Suýt nữa gã lại buông mình vào trạng thái mơ mộng lúc nãy, nhưng rồi gã tự lay mình dậy và nheo mắt lại. Cũng như số còn lại ngồi rải rác ở các ghế nguyện, gã không giấu nổi xúc động khi thấy tôi ngồi hết sức tự nhiên vào chỗ của Jêxu, sẵn sàng cho thiên hạ thờ phụng.
Gã nhanh chóng hiểu ra ý đồ của tôi và còn đẩy thêm lên nữa. Gã ra lệnh cho Narses và Râu Xanh chiếu mấy chiếc đèn bấm quân đội vào tôi và Đức Mẹ Đồng Trinh. Thấy ánh sáng trắng làm tôi lóa mắt, gã bảo họ dùng tia đỏ. Rồi gã gọi hai anh em Rennwand đến và thì thầm hội ý với họ một lúc. Thấy họ chần chừ không muốn làm theo lời Störtebeker, Ăn Cắp Lửa tiến lại và giơ những khớp ngón, sẵn sàng quét bụi. Hai anh em nhượng bộ và biến vào trong nhà để đồ lễ cùng với Ăn Cắp Lửa và Me-xừ. Oskar bình tĩnh chờ, dịch cái trống vào vị trí và không hề ngạc nhiên khi anh chàng Me-xừ cao lêu đêu trở ra trong bộ áo tế theo sau là hai anh em Rennwand trong trang phục trắng-đỏ của ban đồng ca. Ăn Cắp Lửa mặc đồ cha xứ mang ra tất cả những thứ cần thiết cho một buổi lễ chầu, đặt lên đám mây rồi rút lui. Rennwand-anh mang bình hương, Me-xừ bắt chước Cha Wielnhke khá giống. Mới đầu, còn pha chất trâng tráo học sinh vào, nhưng rồi bốc đồng lên bởi lời lẽ và động tác, Me-xừ cho chúng tôi, nhất là bản thân tôi, thưởng thức không phải là một kiểu nhái ngớ ngẩn, mà là một lễ Mi-xa hẳn hoi mà ngay cả tại phiên toà xử chúng tôi, người ta vẫn nhất quán gọi là một lễ Mi-xa, dĩ nhiên là lễ đen.
Ba gã bắt đầu bằng bài kinh ở chân ban thờ; quân ta ở các ghế nguyện và trên sàn đá lát quỵ gối và làm dấu thánh giá và Me-xừ, đã tương đối thuộc lời nguyện, bắt đầu hành lễ với sự hỗ trợ thành thạo của hai thành viên ban đồng ca. Tôi bắt đầu dạo trống khẽ khàng vào bài Nhập lễ, nhưng rồi mạnh hơn khi sang bài Kyrie. Gloria in excelsis Dea - tôi ngợi ca Chúa Lời trên trống, kêu gọi giáo đoàn đến cầu nguyện, thay phần Thánh Thư bằng một đoạn solo trống. Bài Halleluia của tôi thành công mỹ mãn. Đến bài Credo, tôi nhận thấy là anh em đặt lòng tin vào tôi. Sang phần Cúng, tôi ghìm nhỏ tiếng trong khi Me-xừ dâng bánh mì và hòa rượu vang với nước. Chia sẻ khói hương với ly rượu thánh, tôi quan sát Me-xừ rửa tay ra sao. Orate, fratres, tôi dạo trống trong ánh sáng đỏ của đèn bấm, rồi đến phần lễ Thánh Thể. Đây là Thân Thể của Ta. Or emus, Me-xừ hát, đáp lại lời thánh từ trên trời - anh em ở các hàng ghế nguyện đọc hai dị bản khác nhau của kinh kính mừng Cha Chúng Ta, còn Me-xừ thì dung hoà Tin Lành và Thiên Chúa trong một lễ Thánh Thể. Trống tôi bắt vào kinh Xám Hối. Đức Mẹ Đồng Trinh chỉ ngón tay vào Oskar người đánh trống. Quả là tôi đã kế tục thành công Chúa Kirixltô. Lễ Mi-xa tiến hành rất trôi chảy. Giọng Me-xừ lên lên xuống xuống trầm bổng.
Gã đọc lời ban phước mới tuyệt làm sao: tha thứ, khoan dung và xá tội. "Ite, missa est - Đi đi, cho con lui." Khi những tiếng cuối cùng ấy vang lên trong âm u của nhà thờ, tất cả chúng tôi - tôi tin thế - đều cảm thấy một sự giải phóng tâm linh; cánh tay thế tục không thể cầm tù một cộng đồng Quét Bụi đã được Oskar và Jêxu ban lễ Thánh Thể.
Trong lúc hành lễ, tôi đã nghe thấy tiếng ô-tô và Störtebeker cũng đã ngoảnh đầu lại. Chỉ có hai chúng tôi là không ngạc nhiên khi có tiếng người lao xao và tiếng gót giày nặng nề tiến về phía chúng tôi từ cửa trước, cửa nách và nhà để đồ lễ.
Störtebeker định nhấc tôi khỏi đùi Đức Mẹ Đồng Trinh. Tôi xua tay. Gã hiểu ý, gật đầu và ra lệnh cho anh em cừ quỳ như cũ. Mọi người ai ở chỗ nấy, run rẩy đợi cảnh sát đến. Một số mất thăng bằng, có cậu khuỵu cả hai gối, nhưng vẫn im lặng đợi cho đến khi bọn cớm, chia làm ba tốp vây quanh ban thờ bên trái.
Cảnh sát cũng chiếu đèn bấm, nhưng không dùng tia đỏ. Störtebeker đứng dậy, làm dấu thánh giá, tiến vào giữa vùng sáng, đưa chiếc mũ nhung cho Ăn Cắp Lửa vẫn đang quỳ. Đi vòng thật nhanh qua một cái bóng béo phị không cầm đèn bấm - Cha Wiehnke - Störtebeker túm lấy một cáí bóng khác gầy mảnh, nó giãy giụa, cố tự vệ - Lucy Rennwand. Gã tát và đấm túi bụi vào bộ mặt ba góc nhăn nhó dưới chiếc mũ bê-rê cho đến khi một cú đòn của một cảnh sát quật gã lăn vào giữa hàng ghế nguyện.
Vẫn vắt vẻo trên đùi Đức Mẹ Đồng Trinh, tôi nghe thấy một tên cớm kêu lên: "Lạy Chúa, Jeschke, đó là con trai của sếp!"
Oskar cảm thấy khá mãn nguyện khi được biết người phụ tá xuất sắc của mình là con trai viên chánh cẩm. Rồi không hề chống cự, tôi vào luôn vai một thằng bé lên ba khóc thút thít vì bị bọn găngxtơ dụ dỗ. Tôi chỉ muốn được dỗ dành và che chở. Cha Wiehnke bế tôi lên.
Tất cả đều im lặng trừ đám cảnh sát. Các thành viên Quét Bụi được giải đi. Cha Wiehnke chóng mặt, phải ngồi xuống, nhưng trước đó Cha đặt tôi xuống sàn, gần chỗ đám đồ nghề của chúng tôi. Đằng sau những búa và xà beng, tôi thấy một giỏ đầy xăng- đuých do Choi Choi chuẩn bị từ trước khi chúng tôi ra quân.
Tôi cầm lấy cái giỏ, đi đến chỗ Lucy đang run rẩy trong chiếc áo mỏng, và đưa cho cô ta mớ xăng-đuých. Cô ta bế hai chúng tôi lên (tức là Oskar và cái giỏ). Lát sau, một miếng xăng-đuých nằm giữa hai hàm răng cô. Tôi nhìn kỹ bộ mặt đỏ bừng bị đánh sưng vù: đôi mắt liên láo giữa hai cái khe thâm quầng, một cái hình tam giác đang nhai, một con búp-bê, một mụ phù thuỷ độc ác ngấu nghiến xúc xích và càng ăn càng gầy đét, càng đói, càng chành ba góc, càng giống búp-bê. Hình này in dấu đậm trong tôi. Ai sẽ xóa cái hình tam giác ấy khỏi tâm trí tôi? Nó sẽ sống trong tôi bao lâu nữa, nhai xúc xích, nhai người và phô cái nụ cười mà chỉ những hình tam giác hoặc những nàng thuần phục kỳ lân trên tranh thảm mới có thể cười như thế.
Trong khi bị hai thanh tra cảnh sát điệu đi, Störtebeker quay bộ mặt bê bết máu về phía Lucy và Oskar. Tia mắt tôi vượt qua gã, có nghĩa không nhìn vào gã. Tôi không công nhận gã nữa. Khi tất cả bọn mới đây còn là môn đồ của tôi đã đi khỏi, tôi cũng được đưa đi, vẫn trên tay cô ả Lucy nhồm nhoàm nhai xăng-đuých.
Còn ai ở lại? Cha Wiehnke giữa hai cây đèn bấm của chúng tôi, vẫn chiếu tia đỏ, và những áo lễ mà Cha Me-xừ cùng những người phụ lễ đã trút vội trút vàng xuống đất. Ly và bình đựng rượu thánh nằm trên những bậc dẫn lên ban thờ. Jean và Jêxu bị cưa rời ra vẫn đó bên cạnh Đức Mẹ Đồng Trinh mà chúng tôi định mang về làm đối trọng với cô nàng dắt kỳ lân trong hầm tổng hành dinh của chúng tôi.
Oskar được đưa ra xử ở một phiên toà mà tôi vẫn gọi là vụ án Jêxu lần hai, một phiên toà kết thúc bằng việc tha bổng Oskar, do đó cũng là tha bổng Jêxu.
--- ------ ------ ------ -------
1. Hai tướng lĩnh nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô trong Thế Chiến II.
2. Tiếng Pháp trong nguyên bản: phát súng/đòn kết liễu.