Quyển II: Đường của kiến
-
Cái trống thiếc
- Günter Grass
- 6418 chữ
- 2020-05-09 03:50:23
Số từ: 6394
Dịch giả: Dương Tường.
Đánh máy & Hiệu đính: galazyrulz, tducchau, Ct.Ly
Nguồn: casau - NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN - VNthuquan.net
Xin quý vị hãy tưởng tượng một cái bể bơi lát gạch men xanh da trời. Một số thanh niên da rám nắng, dáng dấp lực sì vùng vẫy dưới nước và quanh bờ, nhiều nam nữ khác ngồi hoặc nằm trước những ca-bin. Nhạc êm nhẹ từ loa phóng thanh. Buồn tẻ lành mạnh, một chút gợi dục nhẹ nhàng mà lấp lửng. Gạch men nhẵn bóng nhưng không ai trượt ngã. Chỉ có vài cái biển cấm, nhưng không cần thiết vì những người tắm chỉ đến đây một, hai giờ, họ có chỗ khác để làm những gì bị cấm. Thi thoảng, một người nào đó lao xuống từ cầu nhảy ba mét nhưng không thu hút được sự chú ý của những người trong bể, cũng chẳng khiến được những người nằm trên lớp gạch men rời mắt khỏi những quyển họa báo hằng tuần. Đột nhiên, một thiên thần bay ngang! Không, không phải một thiên thần, mà là một chàng trai đang từ từ nhưng kiên quyết vươn tay nắm từng bậc leo lên cái thang dẫn tới tháp nhảy mười mét. Họa báo rơi xuống, những con mắt ngước lên, những người đang nằm dướn lên, một cô gái khum khum bàn tay trên trán cho khỏi chói mắt, một người nào đó quên phắt mình đang nghĩ gì, một lời nói bỏ lửng, một cuộc tán tỉnh vừa bắt đầu bỗng đột ngột kết thúc giữa một câu dở chừng - vì kìa, chàng đang đứng, lực lưỡng và cường vượng nam tính, nhún lên nhún xuống trên ván cầu, dựa vào ống lan can cong cong, ném một cái nhìn ngán ngẩm xuống phía dưới, tách rời khỏi lan can với một cái lắc mông duyên dáng, mạnh bạo tiến ra trên cái ván nhảy cứ rung lên theo từng bước của chàng, nheo mắt nhìn tập trung vào cái bể bơi xanh da trời, bé dễ sợ, đầy những mũ bơi trộn lẫn vào nhau: vàng, xanh, trắng, đỏ, vàng, xanh, trắng, đỏ, vàng, xanh... Chắc là các bạn chàng ngồi ở chỗ kia, Doris và Erika Schiller, và Jutta Daniels với tay bồ chẳng hợp với cô ta chút nào. Họ vẫy kìa, cả Jutta cũng vẫy. Thận trọng giữ cho thăng bằng, chàng vẫy lại. Họ la to. Họ muốn gì vậy? Dấn tới đi, họ la to, nhảy đi, Jutta kêu. Nhưng chàng leo lên đây không phải với ý đồ ấy, chàng chỉ muốn xem nhìn từ trên này, mọi thứ ra sao rồi từ từ xuống, từng bậc từng bậc một, thế thôi. Vậy mà bây giờ họ lại đang la ầm lên cho tất cả mọi người nghe thấy: nhảy đi, dấn tới và nhảy đi. Tiến lên.
Đây - quý vị hắn sẽ thừa nhận, mặc dù từ tháp nhảy cầu chỉ còn một bước nữa là tới trời - quả là một tình thế cùng quẫn. Vào tháng giêng năm 1945, mặc dù đó không phải là mùa tắm, băng Quét Bụi và tôi đã ở trong một tình thế tương tự. Chúng tôi đã mạo hiểm lên cao, tất cả bọn tôi chen chúc trên tháp nhảy cầu, và bên dưới, ngồi thành hình móng ngựa quanh một cái bể bơi không có nước là các quan toà, các nhân chứng và các thư ký tòa.
Störtebeker bước ra cái cầu nhảy mềm không có tay vịn. "Nhảy đi!" các quan toà kêu.
Nhưng Störtebeker không thích thế.
Thế rồi từ hàng ghế nhân chứng, một dáng người thanh mảnh mặc một chiếc váy xám xếp nếp và một cái áo vét kiểu Bavaria đứng lên. Một bộ mặt trắng nhợt nhưng không mờ - tôi vẫn khẳng định là nó chành ba góc -ngước lên như một tấm biển chỉ bia tập bắn: Lucy không la, cô ta chỉ thì thầm: "Nhảy đi, Störtebeker, nhảy đi!"
Thế là Störtebeker nhảy và Lucy ngồi xuống chiếc ghế băng nhân chứng và kéo tay áo vét Bavaria xuống trùm kín cổ tay.
Moorkähne tập tễnh bước ra cầu nhảy. Các quan toà ra lệnh cho gã nhảy. Nhưng Moorkähne không thích thế. Mỉm cười bối rối với những móng tay mình, gã chờ cho Lucy vén tay áo lên để thò hai nắm tay ra và phô cái hình tam giác với khung tóc đen, mắt như hai sợi chỉ, Thế là gã giận dữ lao vào hình tam giác nhưng trượt.
Ngay cả trong khi leo lên, Ăn Cắp Lửa và Mát-Tít đã lườm nguýt nhau; trên cầu nhảy, họ đấm nhau; Ăn Cắp Lửa phủi bụi Mát-Tít và đến lúc nhảy vẫn không chịu buông.
Choi Choi nhắm đôi mắt nai sâu và buồn có hàng lông mi dài óng ánh trước khi nhảy.
Hai bổ trợ quân Luftwaffe phải cởi bỏ quân phục trước khi nhảy.
Cả anh em nhà Rennwand cũng không được phép mặc đồng phục ban hát nhà thờ trong cú nhảy lên trời của họ. Điều đó là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với em gái họ là Lucy đang ngồi ở hàng ghế nhân chứng trong chiếc áo vét len thời chiến mòn xơ và đang khuyến khích đám con trai nhảy cầu.
Bất chấp lịch sử, Belisarius và Narses nhảy trước, rồi mới đến Totila và Teja. Râu Xanh nhảy, Sư Tử Tâm nhảy, rồi đến đám tốt đen. Thính Mũi, Người Rừng, Tàu Chở Dầu, Sáo Sĩ, Bình Mù -tạc, Yatagan và Thợ Thiếc.
Người nhảy cuối cùng là Stuchel, một học sinh trung học mắt lác đến nỗi chỉ nhìn cậu ta đã đủ chóng mặt. Cậu ta chỉ gia nhập băng một cách nửa vời và do tình cờ thôi. Rồi trên ván nhảy chỉ còn một mình Jêxu. Gác quan toà gọi gã là Oskar Matzerath và yêu cầu gã nhảy, nhưng Jêxu không chịu làm theo. Bấy giờ, Lucy, con người kiên định phụng sự công lý, bèn đứng dậy từ hàng ghế nhân chứng, hai bím tóc khắng khiu lúc lắc giữa đôi vai, hai cánh tay dang ra và thì thầm, hồ như không thấy mấp máy môi: "Nhảy đi, Jêxu thân yêu, nhảy đi!" Lúc đó tôi mới hiểu sức cám dỗ của một cái cầu nhảy từ trên cao mười mét. Một lũ mèo con màu xám bắt đầu ngọ nguậy trong các khớp đầu gối tôi; nhím phủ nhau dưới gan bàn chân tôi; én con tập bay trong nách tôi và nhìn xuống phía dưới, tôi thấy không phải chỉ Châu Âu mà cả thế giới. Những người Mỹ và Nhật đang múa đuốc trên đảo Luzon, họ nhảy hăng dến nỗi mất cả khuy quần. Nhưng đúng vào lúc ấy, một thợ may ở Stockholm đang đính khuy cho một bộ quần áo dạ hội sang trọng. Mountbatten 1 đang cho voi Miến Điện ăn đạn đủ các cỡ. Một bà góa ở Lima đang dậy con vẹt của mình chửi thề: "Caramba". Giữa Thái Bình Dương, hai hàng không mẫu hạm kếch xù, trang hoàng như những nhà thờ Gôtích, đối mặt nhau, phóng máy bay lên và cùng một lúc đánh chìm nhau. Các máy bay không còn chỗ hạ cánh, lượn lờ bơ vơ như những thiên thần bất lực trong không trung, tiêu cạn nhiên liệu trong tiếng gầm rú khủng khiếp. Tất cả những cái đó không làm bận tâm một tay lái xe điện ở Haparanda vừa hết giờ làm việc. Anh ta đang đập trứng vào chảo, hai quả cho mình và hai quả cho vợ chưa cưới, cô ta có thể đến bất cứ lúc nào vì họ đã định trước kế hoạch cho cả buổi tối. Hiển nhiên là các đạo quân của Koniev và Joukov có thể lại ồ ạt tiến; trong khi mưa rơi ở Alien, thì họ đột phá ở sông Vistula, chiếm Vacxava quá muộn và Königsberg quá sớm, và mặc dù thế vẫn không ngăn nổi một phụ nữ năm con một chồng ở Panama khỏi làm khê xoong sữa mà chị ta đang hâm trên bếp ga.
Một cách tất yếu, sợi chỉ các sự kiện xoắn vòng và thắt nút, cuối cùng cũng dệt thành Lịch sử. Tôi lấy làm lạ thấy vô vàn hoạt động (như vân vê đầu ngón tay, cau mày, nhìn lên nhìn xuống, bắt tay, sinh con đẻ cái, làm bạc giả, tắt đèn, đánh răng, bắn người, thay tã...) đang được thực hành trên khắp thế giới, tuy ở những mức độ khéo léo khác nhau. Đầu óc mụ mị vì những suy nghĩ ấy, tôi quay lại tòa án vẫn tiếp tục phiên xử tôi ở dưới chân tháp nhẩy cầu. " hảy đi, Jêxu thân yêu, nhảy đi," Lucy Rennwand thì thầm, Lucy-nhân-chứng-đồng-trinh-và-kẻ-cám-dỗ. Cô ta ngồi trên lòng Xa- tăng, do đó càng nổi bật nét trinh trắng. Xa-tăng đưa cho cô ta một chiếc xăng-đuých. Cô ta cắn nập răng khoái trá nhưng không mảy may mất vẻ trinh bạch. "Nhảy đi, Jêxu thân yêu, nhảy đi," cô ta vừa nhai vừa nói, phô với tôi cái hình tam giác nguyên vẹn.
Tôi không nhảy và quý vị sẽ không bao giờ bắt gặp tôi nhảy hoặc lao đầu xuống từ một tháp nhảy cầu. Đây không phải là phiên toà cuối cùng xử Oskar. Người ta đã nhiều lần tìm cách thuyết phục tôi nhảy và lần cuối cùng rất gần đây thôi. Tại phiên toà Ngón Tay Đeo Nhẫn - mà tôi ưng gọi là vụ án thứ ba của Jêxu - cũng có rất đông khán giả quanh cái bể bơi không có nước. Họ ngồi trên hàng ghế nhân chứng, quyết một lòng thưởng thức vụ án của tôi.
Nhưng tôi quay đằng sau, bóp nghẹt những con én non trong nách tôi, giẫm bẹp cặp nhím phủ nhau dưới gan bàn chân tôi, bỏ chết đói lũ mèo con xám trong các khớp gối tôi. Coi khinh cái thú nhảy cầu, tôi bước những bước cứng ngắc đến lan can, bắt đầu xuống thang và mỗi bậc thang lại củng cố thêm trong tôi niềm tin rằng người ta có thể không chỉ leo lên những tháp nhảy cầu mà còn tụt xuống mà không cần nhảy.
Bên dưới, Maria và Matzerath đang đợi tôi. Cha Wiehnke ban phước cho tôi mặc dù tôi không yêu cầu. Gretchen Scheffller mang đến cho tôi một cái áo măng-tô nhỏ và ít bánh ngọt. Kurt đã lớn và không chịu nhận tôi là bố hoặc anh cùng cha khác mẹ. Bà ngoại Koljaiczek của tôi khoác tay ông anh Vincent, ông lão này hiểu biết thế giới và nói chuyện chẳng đâu vào đâu.
Trong khi chúng tôi rời toà án, một quan chức mặc đồ dân sự lại gần Matzerath, đưa cho ông một tờ giấy và nói: "Ông cần phải suy nghĩ về chuyện này, ông Matzerath. Thằng bé cần được cách ly khỏi đường phố. Ông thấy đấy, nó yếu đuối và khờ dại, lúc nào cũng có thể bị những phần tử bất hảo lợi dụng."
Maria khóc và đưa cho tôi cái trống mà Cha Wiehnke đã lo bảo quản trong thời gian xử án. Chúng tôi đi đến bến xe điện cạnh Ga trung tâm. Matzerath bế tôi đi nốt quãng đường cuối. Tôi ngoái nhìn qua vai ông, tìm trong đám đông một khuôn mặt tam giác, tự hỏi thầm: cả cô ta nữa, liệu cô ta có phải leo lên tháp và nhảy, sau Störtebeker và Moorkähne không? Hay cũng như tôi, cô ta đã chọn cái khả năng tụt xuống thang?
Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa bỏ được cái thói quen đảo mắt quanh phố xá hoặc những nơi công cộng tìm một thiếu nữ gày gò, không xinh mà cũng chẳng xấu, nhưng luôn luôn cắn đàn ông. Ngay cả khi nằm trên giường của bệnh viện tâm thần này, tôi vẫn hoảng hốt mỗi khi Bruno báo có khách lạ. Cơn ác mộng của tôi là bỗng nhiên Lucy Rennwand xuất hiện dưới dạng một mụ pbù thuỷ độc ác và, lần cuối cùng, ra lệnh cho tôi nhảy.
Trong mười ngày liền, Matzerath suy nghĩ xem có nên ký và gửi tờ giấy đó lên Bộ Y Tế hay không. Khi, vào hôm thứ mười một, ông ký và bỏ nó vào thùng thư bưu điện, thì thành phố đã bị pháo kích và không ai dám chắc rằng bức thư của ông có tới nơi hay không. Những mũi nhọn thiết giáp thuộc đạo quân của Nguyên soái Rokossovski đã tới Elbing. Quân đoàn 2 của Đức do Weiss chỉ huy chiếm lĩnh những cao điểm xung quanh Danzig. Như mọi người khác, chúng tôi bắt đầu sống trong hầm rượu.
Như quý vị đã biết, hầm rượu của chúng tôi ở ngay dưới cửa hàng. Có thể xuống bằng lối cửa trong hành lang, đối diện phòng vệ sinh. Đi xuống mười tám bậc, qua hầm nhà ông Heilandt và hầm nhà bà Kater là đến, sau đó là hầm nhà Schlager. Ông già Heilandt vẫn ở lại, nhưng bà Kater, bác thợ đồng hồ Laubchad, gia đình Eyke và gia đình Schlager đã khăn gói gió đưa trên đường di tản. Nghe nói về sau, họ cùng với Alexander và Gretchen Scheffler, vào phút cuối, đã lên được một con tàu của tổ chức "Sức Mạnh thông qua Niềm Vui"; theo hai lời đồn khác nhau, thì con tàu hoặc đã tới được Stettin hay Lubeck gì đó, hoặc đã vấp phải mìn; dù thế nào đi nữa, quá nửa số căn hộ và hầm rượu đã trống không.
Hầm nhà chúng tôi được cái thuận lợi là có một lối vào thứ hai: đó là cái cửa xập ngay đằng sau quầy trong cửa hàng, như quý vị cũng đã biết. Do đó, người ngoài không ai có thể thấy Matzerath đưa xuống hầm những gì hoặc lấy từ hầm lên những gì. Nếu không thì người ta ắt đã chẳng để yên cho đống lương thực thực phẩm mà Matzerath tích trữ trong những năm chiến tranh. Căn hầm ấm áp, khô ráo đầy ắp những đậu khô các loại, mì sợi, đường, mật ong nhân tạo, bột mì và mác-ga-rin. Những hộp bánh quy Thụy Điển chồng chất trên những hòm Grisco. Matzerath rất khéo tay, ông đã tự tay đóng những cái giá để chứa hoa quả hộp. Nhờ có những cột chống mà theo lời khuyên của Greff, Matzerath đã dựng vào quãng giữa cuộc chiến, hầm kho trở nên an toàn như một hầm phòng không đúng quy cách. Nhiều lần, Matzerath đã nghĩ đến việc dỡ những cột chống vì không có cuộc không kích nào ghê gớm. Nhưng khi Greff, trưỏng ban phòng không khu vực, không còn nữa để Chỉnh đốn ông, đến lượt Maria đòi ông phải để nguyên các cột chống. Nàng đòi hỏi ông phải đảm bảo an toàn cho Kurt và đôi khi cho cả tôi nữa.
Trong những cuộc không kích đầu tiên vào cuối tháng giêng, ông già Heilandt và Matzerath hợp lực lại để khiêng Mamăng Truczinski cùng cái ghế của bà xuống hầm nhà chúng tôi. Sau đó, có lẽ theo yêu cầu của bà, cũng có lẽ để tránh hao tổn sức vào việc khiêng bà, họ để bà lại ngồi cạnh cửa sổ trong căn hộ của bà. Sau cuộc oanh kích lớn vào nội thành, Maria và Matzerath thấy bà già hàm dưới trễ xuống, mắt trợn ngược như có con muỗi mắt dính vào tròng con ngươi.
Người ta phải nhấc cánh cửa phòng ra khỏi bản lề. Ông già Heilandt mang đồ nghề và mấy mảnh ván hòm đến. ông vừa đo đạc vừa hút thuốc lá Derby của Matzerath cho. Oskar phụ việc cho ông. Những người khác biến xuống hầm vì các cuộc pháo kích lại bắt đầu.
Ông già Heilandt vội, ông định làm một cỗ áo quan hình chữ nhật đơn giản thôi. Nhưng Oskar một mực đòi làm theo hình dạng truyền thống. Tôi giữ ván cho ông cưa theo những chỉ dẫn cụ thể của tôi và kết quả là một cỗ quan tài thuôn thuôn đằng chân như mọi thi thể người đều có quyền đòi hỏi như vậy.
Cuối cùng, chúng tôi có một cỗ áo quan đẹp. Lina Greff rửa ráy cho Mamăng Truczinki, mặc cho bà một chiếc áo ngủ tươm tất lấy từ tủ quần áo, cắt móng tay cho bà, soạn lại búi tóc và lấy chiếc kim đan chống lên, tóm lại cố làm sao cho Mamăng Truczinski, ngay cả khi chết, vẫn giống một con chuột nhắt xám thích ăn bánh khoai tây và uống cà-phê hạt muồng.
Con chuột nhắt cứng đơ trong khi cuộc ném bom chưa dứt nên đầu gối không duỗi ra được nữa. Trước khi đậy nắp áo quan, lợi dụng lúc Maria ra ngoài, ông già Heilandt đã phải bẻ gãy chân bà.
Thật không may, chúng tôi không kiếm được sơn đen, mà chỉ có sơn vàng. Mamăng Truczinski được khiêng ra khỏi phòng và xuống cầu thang trong quan tài không sơn, nhưng thuôn đằng chân đàng hoàng. Oskar theo sau với cái trống, đọc hàng chữ trên nắp áo quan: Vitello Margarine - Vitello Margarine - Vitello Margarine: cách quãng đều đặn và lặp lại ba lần, những chữ này chứng tỏ khẩu vị của Mamăng Truczinski lúc sinh thời. Vì quả thật, bà thích loại mác-ga-rin Vitello hoàn toàn làm bằng dầu thực vật ấy hơn cả loại bơ tốt nhất vì mác-ga-rin luôn luôn tươi, lành và bổ và làm cho người ta vui tươi.
Ông già Heilandt đặt quan tài lên chiếc xe ba-gác của cửa hàng rau quả Greff và kéo qua các phố Louise, Đức Bà, xuôi đường Anton Mõllercó hai ngôi nhà đang cháy, hướng về phía Bệnh viện phụ khoa. Bé Kurt ở lại với bà goá Greff ở hầm nhà chúng tôi. Maria và Matzerath đẩy, Oskar ngồi trên xe bên cạnh quan tài, gã những muốn trèo lên trên, nhưng không được phép. Phố xá chật ních người tỵ nạn từ Đông Phổ và vùng châu thổ. Hầu như không thể qua cầu chui theo lối Cung Thể Thao. Matzerath đề nghị xuyên qua vườn của trường Conradinum. Ý kiến nàv không lọt tai Maria cũng như ông già Heilandt vốn bằng tuổi Mamăng Truczinski. Tôi cũng phản. đối. Tuy nhiên, không thể đến nghĩa trang thành phố được vì từ Cung Thể Thao trở đi, đại lộ Hindenburg bị chặn, không cho bất cứ phương tiện nào qua lại trừ xe quân sự. Vì vậy, không thể chôn bà chuột nhắt bên cạnh con trai Herbert, chúng tôi đành kiếm cho bà một chỗ trong Công viên Steffens, cách Cánh Đồng Tháng Năm không xa.
Đất đông cứng. Trong khi Matzerath và ông già Heilandt thay phiên nhau cuốc và Maria cố nhổ đám cây trường xuân cạnh những ghế đá, Oskar lẻn ra đại lộ Hindenburg. Ôi, sao mà lắm xe thế! Những chiến xa và xe bọc thép rút lui từ những cao điểm và vùng châu thổ, một số phải kéo nhau. Nhiều lính và dân quân bị treo lủng lẳng trên cây - những cây đoạn, nếu tôi nhớ không nhầm. Trên áo ca-pốt của họ, những tấm biển các-tông nêu rõ đó là những tên phản quốc. Tôi nhìn những bộ mặt rúm ró của đám người bị xử giảo đó và làm những so sánh - với những người chết treo nói chung và với Greff- Rau- Quả nói riêng. Trong số những người bị treo cổ, có hàng đám thiếu niên trong những bộ quân phục quá rộng đối với chúng và nhiều lần tôi ngỡ nhận ra Störtebeker - nhưng những thiếu niên lủng lắng ở đầu một sợi dây thì đứa nào chả giống đứa nào. Tuy nhiên tôi tự bảo: "Vậy là họ đã treo cổ Störtebeker, không biết họ có làm thế với Lucy Rennwand không?"
Ý nghĩ đó chắp cánh cho Oskar. Gã sục các hàng cây bên trái bên phải tìm một một đứa con gái gày gò lủng lắng và thậm chí còn lách giữa những xe tăng băng qua đường, nhưng bên ấy, gã cũng chỉ thấy toàn lính và dân quân và những thiếu niên nom hao hao như Störtebeker. Thất vọng, tôi lóc cóc đi đến tận tiệm cà-phê Bốn Mùa bị phá huỷ và chỉ lộn lại một cách miễn cưỡng. Trong khi tôi đứng bên mộ Mamăng Truczinski, giúp Maria rắc lá khô và dây trường xuân lên lớp đất mới đắp, hình ảnh một Lucy lủng lẳng trên cây vẫn hiện lên trong trí tôi, rõ đến từng chi tiết.
Chúng tôi không trả lại cái xe ba-gác cho cửa hàng rau quả. Matzerath và ông già Heilandt tháo nó ra và chất các bộ phận bên cạnh quầy. "Có thể chúng ta sẽ còn cần đến nó nữa," Matzerath nói. " Để đây là an toàn rồi." Đoạn ông cho ông già Heilandt ba gói thuốc lá Derby.
Ông già Heilandt không nói gi, nhưng lấy mấy gói mì sợi và hai túi đường từ những giá gần như chẳng còn gì. Rồi ông bỏ đi, lệt xệt đôi dép dạ mà ông đã mang để đưa đám, để Matzerath dọn nốt những thứ còn lại trên các giá mang xuống hầm.
Sau đó, chúng tôi rất ít khi thò ra khỏi lỗ. Người ta nói quân Nga đã tới Zigankenberg, Pietzendorf và ngoại ô Schidlitz. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chiếm những cao điểm vì họ bắn thẳng xuống thành phố. Nội Thành và Ngoại Thành, Khu Phố cổ, Khu Phố Tân Cổ và Khu Phố Mới, Khu Phố Dưới và Khu Phố Thực Phẩm - những gì đã phải mất bảy trăm năm để xây dựng giờ cháy trụi trong ba ngày. Tuy nhiên, đây không phải lần đầu tiên Danzig bốc cháy. Trong nhiều thế kỷ, người Pomerelia, người Brandenburg, các Hiệp sĩ Tơtông người Ba Lan, người Thuỵ Điển, rồi lại người Thuỵ Điển lần nữa, người Pháp, người Nga, và thậm chí cả người xắc-xông nữa, đã làm lịch sử bằng cách cứ mấy năm một lần lại quyết định rằng Danzig là thành phố đáng đốt. Và bây giờ đến lượt người Nga, người Ba Lan, người Đức và người Anh đồng loạt đốt những kiến trúc Gô-tích bằng gạch của thành phố này lần thứ một trăm có lẻ. Phố Câu Liêm, Phố Dài, Phố Rộng, Phố Thợ Dệt Lớn, Phố Thợ Dệt Nhỏ đều bốc lửa, Phố Tobias, Phố Chó Ngao, Hào Phố cổ, Hào Ngoại ô, Luỹ và cầụ Dài cháy tất. Cửa sếu làm bằng gỗ cháy mới ngon làm sao. Ở Phố Quần Cốc, lửa đã đặt may cho mình một lọat quần óng ánh. Nhà Thờ Nữ Thánh Mary cháy cả trong lẫn ngoài, nhìn qua những cửa sổ như ánh sáng ngày hội. Những quả chuông nào chưa được sơ tán khỏi các nhà thờ các thánh Catherine, Jean, Brigit, Barbara, Elisabeth, Pierre và Paul, Nhà Thờ Chúa Ba Ngôi đều chảy ra trong gác chuông và nhỏ giọt không kèn không trống, ở cối Xay Lớn, người ta xay bột đỏ rực. Phố Hàng Thịt sực mùi thịt quay cháy. Nhà Hát thành phố công diễn vở kịch một hồi nhưng hai nghía nhan đề Giấc mơ của kẻ phóng hoả. Ở Toà Thị Chính, người ta quyết định tăng lương cho lính cứu hoả sau vụ cháy này. Tu viện dòng Thánh Francisco hoan hỉ bùng lên nhân danh Thánh Francisco, người đã yêu lửa và hát ngợi lửa. Phố Đức Bà cháy vì cả Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con cùng một lúc. Khỏi phải nói, Chợ Gỗ, Chợ Than và Chợ Cỏ Khô đã tan thành khói. Phố Bánh Mì, lò và bánh chia lửa với nhau. Phố Bình Sữa, sữa tràn ra ngoài. Chỉ riêng toà nhà của hãng Bảo hiểm Cháy, thuần tuý vì lý do tượng trưng, là không chịu bốc cháy.
Oskar vốn chưa bao giờ quan tâm nhiều đến lửa. Khi Matzerath chạy lên sân thượng để nhìn quang cảnh Danzig bốc cháy, tôi ắt đã ngồi lại dưới hầm nếu tôi không bất cẩn đề mấy vật sở hữu ít ỏi rất dễ bắt lửa trên tầng áp mái. Tôi nhất quyết phải cứu cái cuối cùng trong số trống mà Bebra đã cho tôi và cuốn sách Goethe-Rasputin. Giữa những trang sách, tôi lưu giữ một chiếc quạt nhẹ như tơ với những hình vẽ tinh tế mà lúc sinh thời Roswitha của tôi đã phe phẩy một cách vô cùng duyên dáng. Maria ở lại dưới hầm. Nhưng bé Kurt muốn lên mái nhà với tôi và Matzerath để xem đám cháy. Thoạt đầu, tôi bực mình vì sự phấn khích không kìm nổi của con trai tôi, nhưng rồi Oskar tự nhủ có lẽ Kurt thừa kế tính máu mê lửa ấy từ cụ ngoại nó tức ông ngoại tôi, Koljaiczek-trùm-phóng-hỏa. Maria giữ Kurt ở dưới, còn tôi được phép lên cùng Matzerath. Tôi thu gom tài sản của mình, ghé mắt nhìn qua cửa sổ tầng áp mái và ngạc nhiên thấy cái thành phố cổ kính của chúng tôi lại có thể bùng lên một sức sống mãnh liệt như vậy.
Khi đạn pháo bắt đầu rót vào gần đấy, chúng tôi xuống dưới nhà. Về sau, Matzerath lại định lên nữa, nhưng Maria không để cho ông lên. Ông nhượng bộ. Ông vừa khóc vừa tả lại chi tiết cảnh thành phố cháy cho bà góa Greff nghe. Một lần nữa, ông trở lại căn hộ và mở đài nhưng chẳng nghe thấy gì cả, Thậm chí tiếng lách tách lửa thiêu trụ sở Đài phát thanh cũng không thấy, nói chi đến một bản tin đặc biệt.
Matzerath đứng đó, giữa căn hầm, giựt giựt đai đeo quần, ngơ ngác như một đứa trẻ không biết có nên tin ở ông già Nô-en nữa hay không và lần đầu tiên, nói lên những nghi ngờ về thắng lợi cuối cùng. Theo lời khuyên của bà góa Greff, ông tháo cái huy hiệu Đảng khỏi ve áo nhưng không biết xử trí với nó như thế nào vì sàn hầm lát bằng bê-tông. Lina Greff thì không muốn rước lấy cái của nợ ấy, Maria gợi ý nên vùi dưới đống khoai tây vụ đông, nhưng Matzerath thấy chỗ đó không an toàn và ông sợ không dám lên tầng trên, vì họ sắp đến đây bây giờ, họ đang trên đường, khi ông nhìn từ gác thượng thì họ đã tới Brenntau và Oliva rồi và ông lấy làm tiếc đã không để nó lại trên ấy trong đống cát phòng không, vì nếu họ thấy ông cầm cái của nợ này trong tay thì rắc rối to. Ông vứt nó xuống sàn bê-tông, định giẫm lên nó, nghiền nát nó, nhưng cả Kurt lẫn tôi cùng nhảy tới. Tôi nhặt được nó trước và giữ chặt lấy khi Kurt bắt đầu thụi như nó bao giờ cũng làm thế mỗi lúc đòi cái gì, nhưng tôi không muốn con trai mình giữ cái huy hiệu Đảng rất nguy hiểm cho nó, vì theo những gì Oskar đọc trong Rasputin, thì đừng có đùa với người Nga. Trong khi Kurt đấm tôi và Maria cố gỡ hai chúng tôi ra, tôi tự hỏi không biết đây sẽ là Nga Trắng nay Nga Lớn, Gô-dắc hay Gru-di-a, Kalmouk hay Tacta vùng Crưm, Ruthenia hay Ukraina hoặc thậm chí có thể là Kirghiz, bọn họ sẽ tìm thấy chiếc huy hiệu Đảng trên người Kurt nếu Oskar nhượng bộ dưới những cú đòn của con trai gã.
Khi Maria, với sự giúp đỡ của bà goá Greff, gỡ được chúng tôi rời nhau ra, tôi đang thắng nghĩa là đang nắm chặt chiếc huy hiệu Đảng trong tay. Matzerath vui mừng vì đã dứt bỏ được nó. Mariạ bận dỗ Kurt đang gầm thét. Ghiếc ghim cài bật ra đâm vào tay tôi. Trước đây tôi không bao giờ thích cái vật này và bây giờ cũng thế. Nhưng đúng lúc tôi đang tìm cách gài nó trở lại lưng áo Matzerath - nói cho cùng thì cái đảng của ông ta dính dáng gi đến tôi cơ chứ? - thì họ đã ở trong cửa hàng trên đầu chúng tôi và, bằng vào tiếng phụ nữ la hét, thì ở cả những hầm bên cạnh nữa.
Khi họ nhấc cánh cửa xập lên, chiếc huy hiệu vẫn nằm trong tay tôi. Tôi còn biết làm gì ngoài việc ngồi xuống bên cạnh đôi đầu gối run bần bật của Maria và quan sát hoạt động của đàn kiến trên sàn bê-tông? Chúng đã vạch một con đường chiến lược từ đống khoai tây vụ đông, qua suốt sàn hầm, đến một bì đường. Những, người Nga hoàn toàn bình thường, hơi lai một chút, tôi nghĩ thầm khi sáu, bảy người tay lăm lăm tiểu liên, mắt giương to, xuất hiện trên cầu thang xuống hầm. Giữa những tiếng la thét, thật là an tâm khi thấy lũ kiến không hề đếm xỉa đến sự xuất hiện của quân đội Nga. Chúng vẫn chỉ quan tâm đến khoai tây và đường, mặc cho những người cầm tiểu liên đặt những mục tiêu chinh phục khác lên trước. Tôi thấy việc những người lớn giơ tay lên là hoàn toàn bình thường. Cái đó, tôi đã được biết qua những đoạn phim thời sự và tôi đã chứng kiến cái cử chỉ khuất phục như thể sau khi Sở Bưu Chính Ba Lan thất thủ. Nhưng tại sao Kurt lại phải bắt chước những người lớn, điều ấy tôi không hiểu. Lẽ ra nó phải noi gương tôi, cha nó hoặc nếu không làm theo cha nó thì chí ít cũng theo đàn kiến. Lập tức, ba trong số những bộ quân phục chữ nhật tập trung chú ý vào Lina Greff và điều đó đem lại chút sống động cho toàn cảnh từ nãy đến giờ vẫn tĩnh lặng. Nàng Greff, sau thời gian dài goá bụa và những năm chay tịnh trước đó, hầu như không chờ đợi một sự săn đón đột ngột thế, thoạt đầu thốt lên mấy tiếng kêu ngỡ ngàng, nhưng rồi mau chóng thích ứng trở lại với cái tư thế nằm ngang mà nàng đã hồ như quên mất.
Tôi đã đọc trong sách Rasputin rằng người Nga rất yêu trẻ con. Điều này, như tôi nhanh chóng nhận thấy, là hoàn toàn đúng. Maria đã run sợ một cách không cần thiết. Nàng không hiểu tại sao bốn gã Ivan không bận bịu với Lina lại để Kurt ngồi lên lòng thay vì thay phiên bọn kia vào cuộc; nàng rất ngạc nhiên thấy họ âu yếm thằng bé, nói đa-đa-đà với nó, vỗ vỗ má nó và thi thoảng cả má nàng nữa.
Có ai nhấc tôi cùng cái trống của tôi len khỏi sàn bê-tông. Tôi không thể quan sát đàn kiến và đo sự trôi chảy của thời gian qua nhịp độ hoạt động của chúng được nữa. Cái trống lủng lẳng trước bụng tôi và gã người Nga to lớn với những lỗ chân lông nỗ rộng khua những ngón tay chuối mắn gõ mấy nhịp khả di có thể nhảy múa theo, ờ, người lớn mà đánh thế cũng không hổ, tôi nghĩ. Oskar cũng muốn trổ tài, nhưng không thể được vì chiếc huy hiệu Đảng của Matzerath vẫn cồm cộm trong lòng bàn tay trái của gã.
Một không khí bình yên, gần như là ấm cúng, bao trùm căn hầm. Mỗi lúc một lặng lẽ hơn, nàng Greff nằm dạng dưới ba gã Ivan kế tiếp nhau. Khi một gã hoàn tất lượt mình, tay trống tài năng của tôi liền trao Oskar cho gã thanh niên mắt sếch, mình đẫm mồ hôi, một gã Kalmouk chắc thế. Tay trái bế tôi, tay phải gã cài khuy quần, trong khi người tiền nhiệm của gã, tức là tay chơi trống, làm ngược hẳn lại. Tuy nhiên, đối với Matzerath, thì không có gì thay đổi. Ông vẫn đứng bên cái giá đầy thịt hầm hộp Leipzig, hai tay giơ lên, phô rõ các đường chỉ tay; nhưng không ai muốn xem tướng tay cho ông. Trong khi đó, phụ nữ tỏ ra có khả năng thích ứng đáng kể: Maria học những từ Nga đầu tiên, đầu gối nàng không run nữa, thậm chí nàng còn cười thành tiếng và có thể đã chơi ác- mô-ni-ca nếu như nó nằm trong tâm tay.
Oskar, vốn khó thích ứng hơn, nhìn quanh tìm một cái gì thay thế đàn kiến và phát hiện ra một loại côn trùng khác nâu nâu xam xám béo núc đang bò quanh gờ cổ áo gã Kalmouk. Tôi muốn bắt một con để xem cho kỹ vì tôi đã đọc khá nhiều về rận, lác đác ở Goethe, nhưng chủ yếu là ở Rasputin. Nhưng bắt rận bằng một tay thì rất khó, cho nên tôi quyết định dứt bỏ chiếc huy hiệu Đảng. Oskar cảm thấy có thể giải thích cách ứng xử của mình, ờ, đây là điều tốt nhất gã có thể làm: cái huy hiệu cồm cộm ngăn không cho tôi bắt được rận. Ngực gã Kalmouk thì đã đầy huân chương và huy hiệu rồi. Cho nên nhân Matzerath đang đứng ngay bên cạnh, tôi giơ bàn tay nắm hờ cho ông.
Quý vị có thể bảo rằng lẽ ra tôi không nên làm như vậy. Nhưng có lẽ tôi cũng có quyền trả lời rằng đáng ra Matzerath không nên nắm lấy tay tôi.
Dù sao mặc lòng, ông đã nắm lấy nó, tôi thoát được của nợ. Một nỗi kinh hoàng từ từ xâm chiếm Matzerath khi ông cảm thấy cái vật biểu trưng cho Đảng của ông giữa những ngón tay. Giờ đây, khi tay tôi đã tự do, tôi không cần thấy Matzerath làm gì với cái huy hiệu của ông. Tư tưởng còn đang phân tán khó bề bắt được rận, Oskar cố tập trung vào đàn kiến, nhưng một cử động nhanh của bàn tay Matzerath đã không lọt khỏi mắt tôi. Tôi không nhớ lúc đó tôi nghĩ gì, bây giờ nhớ lại, tôi chỉ có thể nói: giá ông cứ giữ cái vật hình thoi nhiều màu ấy trong tay thì khôn ngoan hơn.
Nhưng, trong bước đường cùng, ông lại muốn dứt bỏ nó cơ và mặc dầu ông luôn luôn tỏ ra giàu tưởng tượng trong việc làm bếp và trang trí quầy hàng, lúc này ông không nghĩ ra chỗ giấu nào tốt hơn là miệng mình.
Có khi một cử chỉ vặt vãnh lại có tầm quan trọng rất lớn. Cái động tác nhỏ từ tay lên miệng đó đủ làm giật mình hai gã Ivan đang bình yên ngồi bên trái và bên phải Maria và khiến họ bật dậy, dí tiểu liên vào bụng Matzerath: ai nấy đều có thể thấy rành rành là ông ta đang định nuốt một cái gì.
Gía như trước hết, ông đã khéo lựa ngón tay đóng lại cái ghim cài! Lúc này, ông nghẹn, mặt ông đỏ tía lên, mắt lồi ra, ông ho, cười, khóc và tất cả những cái đó khiến ông không thể tiếp tục giơ hai tay lên được. Nhưng về điểm này, các tay Ivan rất kiên quyết. Họ quát, họ muốn thấy lòng bàn tay ông. Nhưng Matzerath đang có chuyện với khí quản của mình. Thậm chí ông không thể ho cho tử tế nữa. Ông bắt đầu nhảy và khoa tay loạn xạ, gạt phăng một hộp thịt hầm Leipzig khỏi giá. Gã Kalmouk của tôi, từ nãy đến giờ vẫn lặng lẽ nhìn, thận trọng đặt tôi xuống đất, quài tay ra sau lưng lấy một vật gì, cầm ngang hông ở tư thế nằm ngang và bắn. Gã trút cả một băng trước khi Matzerath hết sặc.
Khi Định Mệnh ập đến, người ta có thể làm những điều thật kỳ quặc! Trong khi ông bố hờ của tôi đang nuốt Đảng và hấp hối, thì tôi bất giác bóp bẹp giữa hai ngón tay một con rận mà tôi vừa bắt được trên áo gã Kalmouk. Matzerath đã ngã nằm ngang con đường của đàn kiến. Đám Ivan rời căn hầm bằng lối cầu thang dẫn lên cửa hàng, lấy theo mấy gói mật ong nhân tạo. Gã Kalmouk của tôi lên sau cùng, gã không lấy gói mật ong nào vì còn bận thay băng tiểu liên. Nàng goá Greff nằm rũ rượi, tóc rối bù giữa những hòm mac-ga-rin. Maria ghì lấy bé Kurt như muốn nghiền nát nó. Một câu của Goethe vụt qua đầu tôi. Đàn kiến đứng trước một tình thế mới, nhưng không nao núng vì trở ngại, chúng vạch một con đường chiến lược mới vòng quanh cái xác co quắp của Matzerath; vì đường vãi ra từ cái bì rách toạc vẫn không kém ngọt chút nào trong khi Nguyên soái Rokossovski chiếm đóng thành phố Danzig.
--- ------ ------ ------ -------
1. Bá tước thứ nhất Louis Mountbatten còn gọi là Mounbatten of Burma tức Mountbatten của Miến Điện (1900-1970). Đô đốc Anh, con trai hoàng thân Louis de Battenberg. Trong Thế chiến II, từng chỉ huy các tàu sân bay (1941), chỉ huy các chiến dịch không-hải quân phối hợp (1942). Tổng chỉ huy liên quân đồng minh ở Đông Nam Á. Đánh đuổi quân Nhật khỏi Ấn Độ Dương và Miến Điện. Trở thành phó vương Ấn Độ từ 1946 đến 1947. Bị IRA ám sát năm 1970.