Phần 4 - Chương 17: Nhân Quả Thế Gian - Phỉ báng bậc Thánh


Số từ: 2156
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nguồn: sachvui.com
(Trích Tăng Chi Bộ kinh 3B, tr 163)
Rồi Tỳ kheo Kokalika đi đến Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Kokalika bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, Sariputta và Moggallana là ác dục, bị ác dục chinh phục.


Này Kokalika, chớ nói vậy, này Kokalika, chớ có nói vậy. Hãy để tâm tịnh tín đối với Sariputta và Moggallana, hiền thiện là Sariputta và Moggallana!

Lần thứ hai Koakalika bạch Thế Tôn:

Dầu Thế Tôn có lòng tin tưởng, đối với con, Sariputta và Moggallana là ác dục, bị ác dục chinh phục.

Ba lần Kokalika công kích, ba lần đức Thế Tôn cải chính.
Rồi tỳ kheo Kokalika từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi. Kokalika ra đi không bao lâu, toàn thân nổi lên những hạt to bằng hạt cải, rồi lớn bằng hạt đậu, lớn bằng hạt sỏi, hạt táo, trái cau, trái dưa (dưa hường), trái dưa chín. Rồi chúng bị nứt nẻ, mủ và máu chảy ra. Tại đấy Kokalika nằm trên lá chuối như con cá ăn phải đồ độc.
Rồi Phạm Thiên độc giác Tudu (Tudu là bổn sư của Kokalika. Khi Tudu mệnh chung, được Thế Tôn nói là chứng được Nhất lai) hiện trên hư không nói với Kokalika:

Này Kokalika, hãy đặt tâm tịnh tín nơi Sariputta và Moggallana. Hiền thiện là Sariputta và Moggallana!


Ngươi là ai?


Ta là độc giác Phạm thiên Tudu.


Thưa hiền giả, có phải hiền giả là người được Thế Tôn công nhận đã chứng Bất lai. Sao người lại đến đây? Phải chăng người không thật chứng Bất lai?

Phạm thiên Tudu thốt lên bài kệ:

Con người được sinh ra
với chiếc búa trong miệng
Người ngu nói điều xấu
là tự chém vào mình
Ai khen người đáng chê
ai chê người đáng khen
đều chất chứa bất hạnh
do từ miệng tạo thành
và bởi bất hạnh ấy
nên không được an lạc
.................................
Ai chỉ trích bậc Thánh
Với lời, với ác ý.
Trải qua trăm ngàn thời
Với địa ngục Nirab
còn thêm ba mươi sáu
với ngục Abuda
phải sanh vào địa ngục
chịu khổ đau tại đấy.

Rồi Tỳ Kheo Kokalika do chứng bệnh ấy mệnh chung và sanh vào địa ngục sen hồng (Padina) vì tâm khởi ác ý đối với Sariputta và Moggallana. Rồi Phạm Thiên Sahampati, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana hiện thân trước Thế Tôn đảnh lễ và đứng một bên, bạch Thế Tôn, thuật lại sự kiện Kokalika sinh về địa ngục, rồi đảnh lễ biến mất.
Rồi Thế Tôn, sau đêm đã qua, bảo các Tỳ Kheo về việc Phạm Thiên Sahampati thuật lại. Một Tỳ Kheo hỏi Thế Tôn về thời gian của địa ngục Padma. Thế Tôn dùng một thí dụ để các Tỳ Kheo hình dung thời gian không thể tính kể của địa ngục này (xin xem nguyên bản).
NHẬN XÉT:
Kokalika phải chịu một bất hạnh lớn vì đã phỉ báng các bậc Thánh, nhất là vị Thánh này lại chính là hai đại đệ tử của Đấng Chánh Đẳng Giác. Ác tâm của Kokalika nặng nề đến nổi chính Thế Tôn ba lần cải chính mà Kokalika vẫn không thay đổi quan niệm của mình. Ác ý đối với hai đại tôn giả Sariputta và Moggallana đã khiến Kokalika mất hết thiện căn, hiện đời cảm báo bệnh hoạn dơ dáy, khốn khổ. Rồi thêm một lần chính bổn sư của Kokalika là Phạm thiên Tudu, vị đã vào quả vị, hiện đến khuyên bảo mà Kokalika vẫn không đổi quan niệm lại còn chê Tudu chưa phải vào vị Thánh. Như người bị té xuống hầm phân không còn một chỗ sạch sẽ nào trên người để cho người ở trên có thể nắm lấy kéo lên, Cũng vậy ác tâm của Kokalika che phủ hết mọi thiện căn để có thể được người khác cứu vớt.
Cuối cùng Kokalika qua đời và sinh về địa ngục Padma với thời gian dường như vô hạn. Những vị Thánh giải thoát giống như thửa ruộng mầu mỡ tốt tươi, gieo một sẽ được trăm ngàn, người gieo hạt ớt, sẽ nhận lấy muôn ngàn cay đắng, người trồng hạt lê sẽ nhận lấy muôn nghìn thơm ngọt. Kokalika đã gieo vào thửa ruộng Sariputta và Moggallana hạt giống phỉ báng, ganh ghét để rồi phải nhận lấy khổ báo trong hiện đời bướu ghẻ đau đớn, nhận lấy khổ báo trong đời sau tại địa ngục mà sự đau khổ muôn vàn lần bi thảm hơn không thể diễn tả hết được.
Sự phỉ báng những vị Thánh giải thoát, những vị Tăng giữ giới thanh tịnh sẽ đưa người này đến địa ngục là điều không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên trong hiện đời, y sẽ bị lìa khỏi địa vị cao sang để trở thành thấp hèn hạ liệt. Người làm tăng sẽ mất phước làm tăng, người uy quyền sẽ bại hoại danh vọng.
Khi chư thiên sắp mệnh chung từ bỏ cõi đời để sinh xuống cõi nhân gian, các vị này có năm tướng xấu hiện ra báo trước, trong đó, họ khởi tâm nhàm chán thiên sứ hiện tại của mình. Chính nghiệp đã tác động đến tận trong tâm thức của chúng sinh. Cũng vậy, người xuất gia chợt khởi tâm nhàm chán địa vị làm tăng của mình, thích sống đời cư sĩ, có khi tự biện hộ bằng những lý lẽ siêu thoát rằng đạo vượt ngoài hình tướng tăng tục, rồi cởi áo casa khoác thế y. Phải biết trường hợp này nghiệp đã xen vào tác động trong vô thức. Vì một lý do nào đó, phước làm tăng của người này đã hết và ý tưởng bất thường khởi lên. Trong nhiều nguyên nhân mất phước làm tăng, có một nguyên nhân là chỉ trích, khinh thường, ganh ghét bậc Thánh.
Người đang ở địa vị cao sang, nếu khởi ba nghiệp bất kính đối với bậc Thánh, y sẽ đánh mất địa vị của mình không lâu để lui lại vị trí thấp kém. Những quả báo nặng hơn ở phía sau khi mệnh chung là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Người phỉ báng chánh pháp, chỉ trích bậc Thánh, quả báo ít nhất trong hiện đời là những khuyết tật về miệng. Miệng méo, sứt môi, câm, ngọng,... là sự thể hiện của nghiệp phỉ báng này. Và những kiếp được làm người về sau, họ thường bị công kích nhục mạ chê bai.
Chúng ta dễ mắc ác nghiệp này trong trường hợp bênh vực tôn giáo mình và công kích tôn giáo khác, tôn vinh giáo chủ mình và hủy báng giáo chủ khác. Có một thời gian Kitô giáo và Hồi giáo công kích nhau kịch liệt. Người Kitô giáo theo sự xúi giục của Euloge (thế kỷ 4) nổi lên công kích Mahomet là
tên gian dâm, bịp bợm và đại ác

tay sai của quỷ Satan
. Ngược lại sau này, Alibm Hazm (994 – 1064) viết trong cuốn
Tôn giáo và Thừa phái
phê bình:

Chúng ta không nên ngạc nhiên về óc mê tín của con người. Những dân tộc đông người nhất và văn minh nhất cũng không thoát khỏi tật mê tín... Số tín đồ Kitô giáo nhiều vô kể, chỉ Thượng đế mới đếm nổi, và họ có thể tự hào rằng có những ông vua sáng suốt, những triết gia danh tiếng... Họ tin rằng Chúa Kitô chính là đấng sáng tạo, đã bị quất, bạt tai, đóng đinh lên Thập tự giá và trong ba ngày vũ trụ không có ai làm chủ
.
Kinh Cựu Ước có nhiều điểm sơ hở khiến cho giới trí thức khoa học sau này mất niềm tin luôn cả Chúa Jésus. Những đoạn Phúc Aâm trong Tân Ước của Chúa Jésus rất cảm động, nhưng người có ác cảm vẫn moi móc đủ điều.
Kokalika được sinh ra với cái búa trong miệng, dễ dàng bất tín và chỉ trích mọi người. Ngay cả khi nghiệp quả bướu ghẻ nổi lên, được bổn sư từ cõi trời thương xót hiện đến nhắc nhở, Kokalika vẫn phớt lờ lại còn hạch sách tại sao Tudu đã chứng Bất lai còn trở lại đây, phải chăng điều này không đúng! Qua sự kiện này chúng ta hiểu thêm một điều. Quả vị của đạo Phật là năng lực tự tại đối với sinh tử, không phải là sự gò bó bắt buộc. Một vị chứng Bất lai có nghĩa là không còn bị nghiệp lôi kéo để trở lại cõi đời này, nhưng vị này vẫn có thể tùy nguyện trở lại làm lợi ích chúng sinh. Cũng vậy, Niết Bàn Alahán là vô sinh, không còn bị nghiệp lôi kéo để thọ thân trong tam giới, nhưng vị này vẫn có thể tùy nguyện trở lại làm lợi ích chúng sinh. Niết Bàn không phải là sự kềm tỏa trong khô tịch mà phải là năng lực đại tự tại nên bậc Alahán có khả năng đi vào sinh tử hóa độ chúng sinh mà khắp trời, người, ma, phạm không tìm thấy dấu vết.
Chúng ta chưa thực chứng Niết Bàn, theo ngôn từ trong sách vở, chia đôi Niết Bàn Tiểu thừa Đại thừa, rồi bênh vực Niết Bàn này, công kích Niết Bàn kia, không ngờ đó là gây tạo một bất hạnh lớn cho mai sau mà Bồ tát Long Thọ đã cảnh cáo:

... vì công kích quả vị Alahán, kẻ này bị đọa vào địa ngục.

Chúng ta thường độc tôn nơi cá nhân mình, chủ thuyết mình đi theo, tôn giáo mình quy hướng, giáo chủ mình phụng thờ, tông phái mình chọn lựa để rồi công kích sạch sẽ mọi phe nhóm khác. Chiến tranh tàn khốc máu đổ thịt rơi cũng chỉ vì khuynh hướng độc tôn sai lầm này. Biết bao nhiêu triều đại đã qua trong lịch sử, càng công kích chỗ dở của triều đại trước chừng nào thì họ càng vi phạm sai lầm nhiều hơn địch thủ của họ nhiều chừng nấy. Nhưng sở dĩ chúng ta thích công kích hơn ca ngợi chỉ vì chúng ta có cảm tưởng kẻ khác bị ngã quỵ tức là chúng ta vinh quang hơn, tài giỏi hơn, chúng ta thấy được cái dở của người khác tức là chúng ta giỏi hơn họ (!) Vì nghĩ vậy nên chúng ta chỉ trích thường xuyên. Muốn mặt mình đẹp bằng cách bôi nhọ lên mặt người khác mà không biết tự sửa soạn lại chính mình, muốn tông phái mình nổi bật bằng cách chê bai tông phái khác mà không biết hoàn thiện lại chính tông phái mình.
Phật dạy chúng ta phải biết ẩn ác dương thiện đừng bêu cái xấu của người ra, chỉ nên đưa cái tốt của họ ra mà thôi. Lòng từ bi không để cho chúng ta thấy người khác mất danh dự.
Tuy nhiên điều này không nên cố chấp một chiều. Rồi một ngày đẹp trời nào đó, người anh em của chúng ta muốn đến thọ giáo với một ông đạo có nhiều quyền năng phép lạ, tự xưng là Phật xuất thế, là giáo chủ ra đời, phong thánh cho người này người kia,... nếu chúng ta không kịp thời ngăn chận chỉ trích để cho người anh em chúng ta lạc vào đường tà, chúng ta cũng có lỗi lớn.

Không khen người đáng chê
không chê người đáng khen.

Đặt ngược vấn đề phỉ báng, nếu tán thán bậc thánh sẽ đưa đến quả báo ra sao?
Thiên giới, vinh quang và hạnh phúc là sự chờ đợi dành cho những người khởi tâm tịnh tín và tán thán đối với bậc thánh. Nếu chúng ta kính trọng ai về ưu điểm nào, chúng ta sẽ thành tựu về ưu điểm đó.
Nếu chúng ta kính trọng thánh Francisco bởi nhân cách nghèo nàn đơn giản, bởi lòng thương yêu phụng sự mọi người, chúng ta sẽ dần dần trở nên thành tựu những nhân cách đó.
Sở dĩ chúng ta khát khao sự giải thoát trong khi chúng ta chưa từng nếm qua mùi vị giải thoát, bởi vì trong quá khứ, có một bậc thánh giải thoát nào đó đã làm cho chúng ta kính phục. Sự kính phục phong cách, oai nghi, dung mạo, tâm hồn của vị thánh giải thoát đã ươm thành niềm khát khao giải thoát cho chính ta. Để rồi đời này, chúng ta chấp nhận bao nhiêu khó nhọc, bao nhiêu giới cấm và tiến tu Thiền Định mãi mãi.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Luận Về Nhân Quả.