Phần 5 - Chương 13: Nhân Quả Xuất Thế Gian - Khoe Khoang


Số từ: 2306
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nguồn: sachvui.com
(Trích Tọa thiền chỉ quán tr 8)
.....Ngài Trí Khải từ biệt tổ Nam Nhạc cùng với huynh đệ 27 người đến Kim Lăng. Lúc đầu chưa ai biết Ngài nên không có người thỉnh pháp, khi ấy có vị Tăng hiệu Pháp Tế, tự khoe thiền học, gặp Ngài đến, nằm dựa ghế hỏi:

Có người ở trong định nghe đất núi rúng động, biết có vị Tăng quán lý vô thường, ấy là định gì?

Ngài đáp:

Là biên định chưa sâu, là tà chứng ám nhập. Nếu chấp, nếu nói, thì định ấy chắc chắn phải mất
.
Pháp tế nghe nói kinh hãi đứng dậy thưa:

Tôi thường được cái định này, vì nói cho người nghe nên đã mất.

Từ đây, tiếng tăm Ngài đồn khắp. Vua quan cho đến dân dã đều rầm rộ tìm đến cầu pháp quy y...
NHẬN XÉT:
Ngài Trí Khải là một nhân vật lừng lẫy của Phật giáo Đông phương. Cuộc đời Ngài đầy những huyền thoại huy hoàng và chói ngời ánh sáng chứng ngộ. Vừa nghe Pháp Tế trình bày sở đắc, Ngài liền biết chỗ sâu cạn của vị này và cũng biết luôn cái nguy hiểm của sự khoe khoang đó.
Pháp Tế nói ra cảnh giới đến được này cho người biết nên bị thối thất lập tức. Sự nói ra ấy mang theo hai ý nghĩa:
Một, chấp cảnh giới đó là thật.
Hai, có ý khoe khoang.
Hai ý nghĩa này bẻ gãy công đức đã có.
Đôi khi phước quá khứ còn nhiều thì dù người này có khoe khoang vẫn không bị thối thất ngay sau đó. Nhưng khoe thêm vài lần nữa thì chắc chắn mất liền. Ai có kinh nghiệm tu hành để ý điều này thì biết rõ. Có người khoe rằng mình ít bịnh, ít não, vài hôm sau bịnh ập tới. Có người khoe mình giữ giới trong sạch, ít lâu liền bị khuyết trong giới bổn.
Có người khoe mình ngồi thiền không bị hôn trầm, chẳng bao lâu cơn buồn ngủ phá quấy thời tọa thiền của họ.
Có người khoe mình dược giác ngộ thanh tịnh, kể từ đó tâm khởi sinh loạn tưởng phiền muộn đủ thứ.
Có khi khoe mình ngồi thiền được lâu giờ, lần sau khiến có duyên sự nơi thân phải giảm giờ ngồi thiền lại.
Muốn đánh giá một người tu hành còn bị trắc trở hay không, ta cứ việc xem người này còn có những lời nói khoe khoang hay không. Nếu họ chấm dứt mọi hình thức khoe khoang thì đời tu của họ bắt đầu ổn định. Nếu họ vẫn còn chút khoe khoang dù thô hay tế, thì công phu của họ vẫn còn bị tăng giảm bất thường.
Những bậc có công phu Thiền Định sâu xa thường rất kín đáo, không bao giờ tiết lộ về mình. Những bậc đạt đạo viên mãn như Đức Phật và chư vị Alahán thì đôi khi có nói lên sở đắc của mình để gây niềm tin cho chúng sinh nổ lực tu tập, nhưng vĩnh viễn không còn bị thối thất nữa dù có nói ra. Nhưng sự trình bày sở đắc của họ rất là hiền lành, khiêm hạ, đúng đối tượng và đúng lúc, không phải luôn luôn tiết lộ. Có nghe các Ngài trình bày những mầu nhiệm tu chứng, chúng ta vẫn nhận thấy vẽ điềm đạm, hiền hậu và khiêm cung. Nhưng đời nay ít người đạt đạo viên mãn lắm, chúng ta nên cẩn thận.
Gần đây có ngưuời dạy môn đồ rằng hãy tin chính mình là Phật, đừng cầu nguyện bên ngoài nữa. Mới nghe người môn đồ thấy ngờ ngợ khó chấp nhận, mình là Phật đâu sao mình không biết. Lâu ngày nghe ông thấy ám thị mãi nên họ bắt đầu chấp nhận
Mình là Phật
. Kể từ khi chấp nhận mình là Phật, họ phát ngôn cao vót tận mây xanh, như:

Phiền não vọng tưởng chỉ là cái bóng hư dối, không dính dáng gì đến tự tánh.


Tự tánh vốn thanh tịnh và đầy đủ diệu dụng, không cần tu chứng thêm chút nào nữa.


Mọi hành vi nói năng cử động đều từ tự tánh lưu xuất, nhận được chỗ này thì Phật đã hiện hữu từ lâu.

Vân vân và vân vân.
Mặc dù họ nói nghe rất cao nhưng người bên ngoài khách quan tìm thấy họ càng lúc càng mất dần tư cách, ngông nghênh, ngạo mạn, bừa bãi và tranh hơn thua trong từng câu nói với mọi người. Thậm chí họ đi dần đến phá hoại giới bổn nữa. Họ cho rằng giới là để dạy những kẻ tiểu căn tiểu trí, còn người đốn ngộ tối thượng thừa thì không cần giữ giới, vì dù có hành các dục lạc vẫn không mất ông chủ. Người có duyên lành chánh kiến thì tránh xa họ. Người có chủng tử tà kiến thì đi theo họ để rơi vào hố sâu tội lỗi.
Tại sao lại có hiện tượng lạ như vậy? Nếu chỗ hiều biết của họ là đúng thì cớ sao họ mất dần đức hạnh như thế? Còn nếu kiến giải của họ là sai thì sai ở chỗ nào?
Cái sai thứ nhất của họ là có ý khoe khoang và lạm nhận TỰ TÁNH, mặc dù họ chưa từng sống trọn vẹn như tự tánh, cái sai thứ hai là, những kiến giải của họ rơi hẳn vào tà kiến đoạn thường mà thời tại thế Đức Phật không bao giờ nói tới. Chính vì tà kiến đoạn thường này nên họ đi vào tối tăm tội lỗi.
Tâm ví như nước mênh mông biển cả, chưa quyết định là động hay tịnh. Nếu ai chấp tâm vốn tịnh là sai vì từ vô thủy đã có sóng vô minh nhấp nhô mãi. Nhưng nếu ai chấp tâm động vĩnh viễn cũng sai vì nếu đủ nhân duyên tu tập thì tâm sẽ an định, sóng thức sẽ dừng. Nói tâm không động không tịnh, chẳng có nghĩa là tâm có một cảnh giới nào khác siêu việt ngoài động tịnh, mà chỉ có nghĩa tâm không cố định, chưa nhất định là động hay tịnh. Nếu tâm kẻ phàm phu khởi sóng chập chùng và người này khéo dùng phương tiện tu tập để nhập định thì sóng tâm dừng lại. Nhưng do nhân duyên tái sinh (Nhập được định nhưng chưa rốt ráo) sóng tâm sẽ khởi dậy trở lại ở đoạn đầu của thân kế tiếp. Chủng tử tu tập đời trước sẽ giúp họ an tâm mau chóng hơn người thường.
Cũng cái tâm đó chứ không cái tâm nào khác, sẽ đưa đến tai họa, đau khổ luân hồi nếu nó sẽ làm cho phiền động lăng xăng. Cũng cái tâm đó chứ không cái tâm nào khác, sẽ đưa đến bình an, hạnh phúc, giải thoát, trí tuệ nếu nó được làm cho an tĩnh tịch nhiên.
Ai cho rằng tâm vốn tịnh là rơi vào thường kiến mà Trung Quán Luận đã định nghĩa rõ ràng. Thường là cái gì có sẵn và kéo dài đến hôn nay mai sau.
Ai cho rằng vọng tưởng không dính dáng gì với tự tánh thì rơi vào đoạn kiến giống như tách đôi sóng và nước. Nếu tự tánh không liên quan với phiền não thì tự tánh không thể khởi dụng phá trừ phiền não để giải thoát.
Có người lại cho rằng cái tánh ướt của nước vốn không có tướng động hay tịnh. Dĩ nhiên cái tánh đó không nói động tịnh, nhưng có gì là mầu nhiệm ích lợi nếu tâm vẫn chập chùng loạn tưởng. Cái tánh đó chỉ phát huy được tác dụng ích lợi nếu cái tướng của nó là tịnh.
Hỏi: Nhưng chúng ta chỉ cần nhận ra tánh để sống thì thoát ngoài tướng động tịnh.
Đáp: Nhận ra tánh đó rồi còn vọng tưởng chăng?
Hỏi: Tuy còn vọng tưởng mà không dính dáng gì đến tự tánh.
Đáp: Nếu còn một chút vọng tưởng thì cả quyết ông chưa biết tự tánh là gì. Có khi ông chỉ biết được một chút tâm rỗng rang sáng tỏ mà lạm nhận là ngộ được tự tánh. Đây là lỗi Tăng thượng mạn làm tổn nhiều công đức.
Hỏi: Vọng tưởng giống như hình ảnh trên màn Ciné, chỉ tại người sợ hãi chớ nó đâu có tác dụng gì!
Đáp: Nếu ông cho rằng vọng tưởng không có tác dụng, biết ông rơi vào chấp KHÔNG. Có thể ông được sức tỉnh giác để kiểm soát vọng tưởng dễ dàng, nhưng nếu vì thế mà ông cho rằng vọng tưởng không có tác dụng thì rơi vào tà kiến chấp không. Khi sóng lăn tăn thì ta cho sóng không có tác dụng, nhưng nếu nó vùng dậy thì có thể lật úp thuyền bè, cuốn trôi nhà cửa. Khi tâm nhỏ nhiệm thì dường như không có tác dụng, nhưng nếu nó vùng dậy thì chẳng chuyện gì mà không làm, giết người, đốt nhà, cướp của... là chuyện dễ dàng. Nếu chấp không như ông thì đánh mất sự tinh tấn của mọi người. Thời tại thế Nguyên thủy, Đức Phật đề cao sự tinh tấn vì Ngài thấy được tính cách trung đạo không cố định của TÂM. Nếu khéo tu thì tâm đó được an tịnh. Nếu vụng tu thì tâm đó lăng xăng, và nếu tâm đó lăng xăng thì sinh ra si mê mờ mịt, nếu tâm đó an tịnh thì hiện thành trí tuệ từ bi.
Hỏi: Tại sao Lục Tổ Huệ Năng khi ngộ thốt lên câu nào ngờ tự tánh mình vốn thanh tịnh?
Đáp: Thể tánh thì vốn thanh tịnh, trùm khắp và vô ngã, không của riêng ai. Chữ tự trong tự tánh của Lục Tổ vẫn còn hàm ý riêng rẻ, dễ làm người sau hiểu lầm. Bản ngã phiền động là riêng, nhưng thể tánh thanh tịnh thì không riêng. Chỉ có những người nhập chánh định, hòa chung với Chư Phật một Bản thể duy nhất, cảm ứng khế hợp với tất cả chư Thánh, mới gọi là người biết rõ thể tánh đó. Phi trường hợp này, dù có được tâm rỗng rang thanh tịnh vẫn chưa phải là thể tánh.
Tâm thức của phàm phu thì phiền động lăng xăng, không sẵn thanh tịnh. Phải nhờ nhân duyên tu tập rất nhiều mới dừng lắng được tâm thức, phá hết vô minh, đoạn trừ bản ngã. Gán ép tâm thức đó là sẵn thanh tịnh liền rơi vào thường kiến của ngoại đạo. Đức Phật không nói tâm sẵn thanh tịnh vì nó còn tùy duyên tu tập, không cố định.
Những kẻ có kiến giải dường như cao vót, không ngờ rơi vào hố đoạn thường nên kết quả của tà kiến đó là mất dần dần đức hạnh và tiếp theo là ác đạo đợi chờ.
Các thiền sư hay dùng các thiền ngữ là những câu nói ngắn gọn nhưng rất cô đọng ý nghĩa, rất bí hiểm và độc đáo. Ví dụ:
Tăng hỏi:
– Thế nào là ý Tổ sư?
Cửu Phong đáp:
– Một tấc lông rùa nặng chín cân.
Tăng hỏi:
– Thế nào là ý Tổ sư?
Triệu Châu đáp:
– Chân răng mọc lông (Không cốc tập)
Tăng hỏi:
– Thế nào là trần trần tam muội?
Vân Môn đáp:
– Cơm trong bát, nước trong thùng.
Đời nay các thiền giả cũng bắt chước các thiền sư dùng thiền ngữ để đối đáp, nhưng không ngờ bị sai sử bởi tâm khoe khoang và hơn thua vi tế ở trong. Người khôn ngoan có khi bị gạn hỏi bằng thiền ngữ, vẫn làm bộ không biết gì để tránh được cái lỗi khoe khoang và hơn thua. Chúng ta tu tập giải thoát theo con đường Phật dạy hãy cố gắng kiểm soát trong từng cử chỉ lời nói đừng để lộ sự khoe khoang ra ngoài. Được như vậy thì công phu ít bị lui sụt.
Hơn nữa, trong tiến trình tu tập Thiền Định, người sắp nhập định đều phải trải qua một qua ải nguy hiểm do tưởng ấm biến hiện. Đủ hình thức quái dị sẽ xuất hiện trong giai đoạn này. Có người thấy mình xuất hồn đi vân du các cõi; có người xuất hiện thần nhãn thấy xa ngàn dặm; có người thấy hào quang, hoa sen...; có người biết được tâm niệm kẻ khác; có người biết chuyện quá khứ vị lai; hoặc nghe bên tai có tiếng nói văng vẳng giảng giải đạo lý; hoặc thấy Phật đến xoa đầu thọ ký khen ngợi; hoặc thấy chư Phật tu tập ngồi đầy cả bầu trời; hoặc tay chân cứng đờ như sắp chết; hoặc duỗi tay ra lửa cháy phừng phừng; hoặc chỉ tay lên trời liền đổ mưa xuống vân vân..., rất nhiều những tướng lạ lừa gạt người tu thiền ở ải ma cửa quỷ này. Người tu thiền không biết dùng phương tiện để phá tan những quái trạng trên sẽ lọt vào đường tà, vọng tưởng chưa hết mà đã có thần thông. Rất nhiều người tu đến giai đoạn này liền tự xưng là thành Phật thành Tổ.
Pháp Tế đang ở trong tình trạng này nên bị Ngài Trí Khải quở là:

Tà chứng, ám nhập

Phải phá tan các quái trạng đó mới có thể vào sâu trong chánh định được. Người đắm đuối theo các quái trạng đó sẽ phát điên.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Luận Về Nhân Quả.