Phần 5 - Chương 14: Nhân Quả Xuất Thế Gian - Pháp Môn Thích Hợp


Số từ: 1550
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nguồn: sachvui.com
(Trích Bổn Sanh 1, tr 21)
Một con gái của người triệu phú thông dâm với nô lệ trong nhà và cùng nhau trốn đi biệt tích. Họ sống với nhau và hạ sinh hai người con trai. Đứa lớn tên Maha Panthaka và đứa nhỏ tên Culla Panthaka. Cuối cùng hai đứa nhỏ được giao lại cho ông ngoại theo sự yêu cầu. Maha Panthaka thường đi với ông ngoại nghe Đức Phật thuyết pháp và rồi xin xuất gia. Sau khi xuất gia, đầy đủ tuổi thọ đại giới, làm tròn các bổn phận, Maha Panthaka chứng quả Alahán. Tôn giả liền tìm về độ cho Culla Panthaka được xuất gia và thọ giới Sa Di. Nhưng Sa Di Culla Panthaka tỏ ra rất ám độn, trong bốn tháng không thể học thuộc lòng một bài kệ ngắn. Có lẽ để thúc đẩy người em mình một lần quyết liệt, tôn giả Maha Panthaka đuổi Culla đi về.
Đó là ngày có người cư sĩ Jivaka Kòmarabhaca thỉnh Đức Phật và năm trăm Tỳ Kheo đến nhà thọ thực, nhưng Maha Panthaka từ chối sự có mặt của Culla. Culla Panthaka buồn bã khởi ý tưởng trở về thế tục để làm các công đức như bố thí.v.v... Trên đường đi ra khỏi Tinh xá, Culla gặp Đức Phật đảnh lễ và được hỏi đi đâu, Culla thưa lại mọi chuyện. Đức Phật đem Culla về hương phòng, giao cho một miếng vải được tạo bằng thần thông, bảo rằng:

Này Culla Panthaka, hãy hướng về phía đông, dùng miếng vải này lau qua lau lại và nói:
đồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi
.
Sau đó, Đức Phật đúng giờ, cùng các Tỳ Kheo đi đến Jivaka còn lại Culla Panthaka ngồi lau cho đến khi miếng vải bị nhớp. Culla suy nghĩ:

Vừa rồi, tấm vải này là rất sạch sẽ, nhưng nay vì ta, nó trở thành nhớp nhúa. Thật sự các hành là vô thường!

Culla an trú trên đoạn diệt, thiền quán được tăng trưởng. Bậc đạo sư biết tâm thiền quán của Culla đã đạt được viên mãn nên phóng hào quang, phân thân ngồi trước mặt Culla nói lên bài kệ rằng:Tham sân si mới là bụi cấu của tâm cần phải trừ bỏ. Cuối bài kệ Culla Panthaka chứng quả Alahán với vô ngại giải thấu suốt ba tạng kinh điển. Sau đó Đức Phật biến mất.
Khi ấy Jivaka dâng vật thực đến, Đức Phật lấy tay ngăn bình bát không nhận, hỏi:

Này Jivaka, trong Tinh Xá còn Tỳ Kheo hay không?

Maha Panthaka thưa:

Bạch Thế Tôn, trong Tinh xá không còn Tỳ Kheo nào!

Nhưng Đức Phật nói:

Này Jivaka, còn có Tỳ Kheo.

Jivaka liền sai một người đi xem thử. Tại Tinh xá Culla Panthaka hiện ra cả ngàn Tỳ Kheo đầy cả rừng xoài, tất cả đều khác nhau và làm các công việc khác nhau. Người kia thấy vậy trở về báo với Jivaka.

Trưởng lão Panthaka
hóa mình thành ngàn lần
Nơi rừng xoài xinh đẹp
chờ thời được gọi đến.
Đức Phật bảo cho gọi Culla Panthaka. Người kia trở lại hỏi thì tất cả đều trả lời:

Tôi là Culla Panthaka!

Người ấy về thuật lại. Đức Phật bảo hãy nắm tay và mời người xưng danh đầu tiên. Người ấy làm đúng như vậy. Ngay lúc ấy, cả ngàn Tỳ Kheo biến mất.
Sau thời thọ thực, Đức Phật khuyến khích Tôn giả Culla Panthaka rống tiếng sư tử làm cho sống động ba tạng kinh điển trong lời nói cám ơn của mình.
Chiều đến Đức Phật đã trả lời về nguyên cớ đặc biệt của Tôn giả Culla Panthaka cho các Tỳ Kheo. Trong thời Đức Phật Kassapa, Culla Panthaka xuất gia, có trí tuệ, cười khinh bỉ một Tỳ Kheo ám độn đang cố gắng học thuộc lòng một đoạn kinh. Tỳ Kheo ấy hổ thẹn vì cái cười ấy nên động tâm không thể nhớ và đọc lên được đoạn kinh. Do kết quả nghiệp ấy, đời này Culla xuất gia trở thành ám độn, những câu mới học làm Tôn giả quên ngay những câu đã học.
Và trong thời quá khứ, Ngài làm vua khi đang đi bộ hành xung quanh thành phố, mồ hôi chảy ra từ trán, Ngài lấy một miếng vải sạch lau trán. Miếng vải trở thành nhơ nhớp. Ngài suy nghĩ:

Do thân này, miếng vải sạch đã bỏ nguyên trạng trước và trở thành nhơ nhúa. Thật sự các hành là vô thường.

Ngài nắm được tư tưởng vô thường. Đấy là sự liên quan đến sự tu tập hiện tại.
NHẬN XÉT:
Bản chất Tôn giả Culla Panthaka là người trí tuệ biện tài, chỉ vì cười khinh bỉ một vị Tỳ Kheo ám độn nên Tôn giả cảm quả báo ám độn một thời gian. Phải qua một lần đau khổ tuyệt vọng cùng cực Tôn giả mới trả xong ác nghiệp u ám kia. Từ trường hợp Tôn giả, chúng ta có thể đánh giá rằng đôi khi một người ngu si ám độn, không phải vì bản chất nguời này là thiếu trí tuệ, có khi chỉ vì lở khinh chê sự dốt nát của người khác nên đời này cảm báo u tối. Còn người được thông minh trí tuệ là do khéo giữ gìn không khinh chê người khác, lại hay hướng dẫn giáo hóa làm lợi ích cho người.
Câu chuyện về Tôn giả cho chúng ta thêm niềm kính phục đạo nhãn phi thường của Đức Phật. Ngài biếr rõ một tác ý quán vô thường của Tôn giả khi nhìn miếng vải bị nhớp lúc Tôn giả làm vua trong đời quá khứ xa xôi nào đó. Đức Phật dùng đúng lại sự kiện để làm đề mục thiền quán cho Tôn giả, và hiệu quả xảy ra tức thì!
Sau khi nhìn xuống khăn bị nhớp, Tôn giả chợt nghiệm ra lý vô thường. Liền đó Tôn giả thâm nhập sâu vào các bậc Thiền Định. Đức Phật phân thân đến đánh thức Tôn giả lần cuối cùng bằng một bài kệ, và ngay đó Tôn giả thoát ra khỏi sự ràng buộc của tam giới.
Ai có thực hành Thiền Định đều có kinh nghiệm rằng, với pháp môn này mình dễ nhiếp tâm hơn là với pháp môn khác. Pháp môn thích hợp với mình cũng có nhân duyên từ nhiều đời quá khứ. Một người thành tựu công phu Thiền Định bằng pháp môn tùy tức. Có thể trong đời quá khứ họ đã từng tu tập theo pháp môn này, hoặc tán thán sự tùy tức.
Người thành tựu bằng công phu Thiền Định bằng pháp môn quán sát lý vô ngã, vô thường, nhân duyên, bởi vì trong đời quá khứ họ đã nói nhiều, suy nghĩ nhiều về giáo lý ấy.
Tuy nhiên điều đó cũng không cố định. Có khi họ có duyên với pháp môn này, nhưng lại gặp vị thầy chỉ dạy duy nhất pháp môn kia theo sở trường của ông. Lúc đầu họ khó áp dụng, nhưng huân tập mãi rồi cũng trở thành quen thuộc, mặc dù sẽ không thuận lợi bằng sự áp dụng một pháp môn đã có duyên từ trước.
Người điềm đạm ít kiến giải thì thích hợp với lối tu chỉ. Người lanh lợi thì thích hợp với lối tu quán. Tuy nhiên người tu chỉ dễ rơi vào si định nếu không có duyên (tự mình hay nhờ thiện tri thức) vượt qua. Người tu quán dễ rơi vào bệnh kiến giải và ngã mạn. Để tránh hai cái nhược điểm của hai hạng người này, đôi khi vị thầy sáng mắt đổi ngược hai pháp môn lại. Với người dễ rơi vào si định thì cho tu quán hoặc nghiên cứu công án. Với người kiến giải quá đáng thì cho tu chỉ để dừng tâm lại.
Pháp môn sở trường của mỗi người vẫn có thể xuất hiện những khuyết điểm của nó, mà nếu hoàn toàn tùy thuộc vào nó, chúng ta có thể mắc những thiên kiến chủ quan, nhất là vấn đề độc tôn pháp môn. Chúng ta có duyên với pháp môn của mình nhưng phải khách quan thấy những ưu điểm của pháp môn người khác. Đừng vội vàng chủ quan một chiều. Đức Phật viên mãn trí tuệ nên sử dụng mọi pháp môn một cách linh hoạt tài tình. Bài kinh giáo giới La Hầu La, chúng ta thấy, ban đầu buổi sáng Đức Phật dạy La Hầu La quán sự vô thường của Năm ấm. Chiều đến Ngài lại dạy La Hầu La dùng pháp Anban (Anàpanà) một pháp môn tùy tức. Nơi pháp Anban này, Tôn giả chứng quả Alahán. Pháp môn quán Năm ấm cần cho Tôn giả ban đầu, nhưng pháp Anban sẽ cần cho Tôn giả về sau.
Các vị chân sư về sau thường đem pháp môn sở trường của mình ra giáo hóa, ít có thông cảm rộng rãi với các pháp môn khác trong đạo Phật. Điều này đưa dần đến thảm kịch chia rẽ trong Phật giáo về sau.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Luận Về Nhân Quả.