Phần 5 - Chương 15: Nhân Quả Xuất Thế Gian - Trưởng Lão Losaka
-
Luận Về Nhân Quả
- Vân Họa , Thích Chân Quang
- 3133 chữ
- 2020-05-09 03:59:15
Số từ: 3128
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nguồn: sachvui.com
(Trích Bổn Sanh 1, tr 158. Chúng tôi trích bài này
vì nơi đây có nhiều ý nghĩa về Nghiệp báo)
Ai là trưởng lão Losaka? Đó là một người xứ Kosala, con một người đánh cá, một tai ương cho gia đình, một Tỳ Kheo không nhận được vật thực.
Nó đầu thai trong gia đình đánh cá, trong một làng đánh cá gồm một ngàn gia đình ở Kosala. Trong ngày nó đầu thai, cả làng không đánh được con cá nhỏ. Từ đó trở đi làng đánh cá gặp nhiều tổn hại. Khi nó còn ở trong thai, làng của chúng bị lửa đốt bảy lần, bị vua xử phạt bảy lần. Dần dần họ rơi vào túng thiếu. Họ suy nghĩ:
Giữa chúng ta phải có một người xúi quẩy
. Họ chia làng thành hai. Bên nào có Losaka thì tiếp tục bị tổn hại, còn bên kia thì tăng thịnh. Họ lại chia nhóm tổn hại làm hai, làm hai nữa, làm hai nữa, và cuối cùng tìm dược gia đình của đứa bé bất hạnh, gia đình ấy bị đánh đuổi khỏi làng. Người mẹ phải tìm sống một cách khó nhọc, bụng mang thai, và sau đó sinh đứa con trai. Đứa bé được sinh trong đời sống cuối cùng, do đó không thể bị giết hại. Như ngọn đèn trong chiếc ghè, điều kiện để thành Alahán cháy đỏ trong tim của nó. Người mẹ nuôi dưỡng nó, tập nó đi đứng vững vàng, đặt trong tay nó một bát đi xin, bảo nó đi đến các nhà, rồi bỏ trốn! Từ đó, nó sống một mình, tìm đồ ăn tại chỗ này, nằm ngủ tại chỗ khác, không để ý tắm rửa thân thể, và tìm sống một cách cực khổ. Nó dần dần lớn lên được bảy tuổi, lượm từng miếng cơm thừa nơi sàn nước rửa bát của các gia đình.
Rồi bậc tướng quân Chánh pháp (Sariputta) đang đi khất thực ở Savathi, thấy đứa bé đáng thương, khởi lòng từ bi với nó, gọi đến hỏi han.
Thưa Tôn giả, con sống không nơi nương tựa. Cha mẹ vì con sống quá mệt mỏi, nên bỏ rơi con rồi trốn đi.
Con có muốn xuất gia không?
Thưa Tôn giả, con muốn xuất gia nhưng ai sẽ xuất gia cho kẻ khốn cùng như con?
Ta sẽ xuất gia cho!
Lành thay! Hãy xuất gia cho con!
Trưởng lão Sariputta đem nó về săn sóc, tắm rửa cho ăn uống và thế phát. Khi đầy đủ tuổi nó được trao đại giới. Khi lớn tuổi được gọi là trưởng lão Losakatissa!
Trưởng lão Losakatissa ít phước, ít nhận được đồ cúng dường. Ai muốn đặt thức ăn vào bát của trưởng lão thì bỗng thấy bát như đã tràn đầy. Còn ai sớt chút cháo vào bát của Ngài, thì nơi dĩa của họ, phần cháo còn lại biến mất. Sau một thời gian dài, thiền quán được tăng trưởng, trưởng lão chứng quả Alahán tối thượng. Tuy nhiên trưởng lão vẫn được đồ ăn ít oi. Thọ hành trưởng lão dần dần giảm thiểu và ngày nhập Niết Bàn đã đến. Tướng quân Chánh pháp biết điều này, muốn trưởng lão được no bụng một lần cuối, đưa trưởng lão cùng vào thành Savathi khất thực. Nhưng hai vị không nhận được một cái xá chào huống nữa là miếng thức ăn! Sariputta bảo Losakatissa về ngồi tại pháp đường chờ đợi, còn Ngài xin được thức ăn gởi về nhưng những người được giao đem về đều quên đưa lại cho trưởng lão. Khi Tôn giả Sariputta trở về hỏi lại biết được sự tình thì bóng mặt trời đã bắt đầu chếch về phía tây. Tôn giả đích thân nhanh chóng (dùng thần lực) đến cung vua Kosala. Nhà vua dâng lên các loại bánh ngọt để ăn phi thời. Tôn giả trở về bảo Losakatissa hãy dùng bánh, trong khi Tôn giả cầm bát đứng một bên. Losakatissa vì lòng kính trọng không dám ăn trong tình trạng đó. Tôn giả bảo:
Này hiền giả hãy dùng. Ta sẽ cầm bình bát và đứng đây. Nếu ta rời bình bát này thì bánh sẽ biến mất
Vì thế trưởng lão Losakatissa an trụ chánh niệm thong thả dùng bánh. Do thần thông của bậc tối thượng thủ tướng quân chánh pháp, bánh ấy không biến mất. Hôm ấy, trưởng lão Losakatissa được ăn như ý, đầy đủ, no bụng. Ngày hôm ấy Losakatissa nhập Niết Bàn Vô Dư Y. Đức Phật đứng một bên và chứng kiến thân được hỏa táng, các xá lợi được thâu nhận và điện tháp được dựng lên trên.
Đức Phật đã kể lại bổn sanh như sau:
Thời Đức Phật Kassapa, Tôn giả Losaka làm một Tỳ Kheo trụ trì một Tinh xá nhỏ nơi ngôi làng và được một điền chủ hộ trì. Tỳ Kheo ấy tính tình bộc trực, hồn nhiên, giữ giới và chuyên tu tập thiền quán. Chợt có vị trưởng lão đã chứng Alahán từ đâu đi đến ngôi làng gặp vị điền chủ. Vị điền chủ hoan hỷ kính phục phong cách của trưởng lão nên đã đón tiếp mời mọc, cúng dường, nghe pháp, đảnh lễ và thưa.
Thưa Tôn giả, hãy đi đến ngôi Tinh xá trong làng, chúng con sẽ đến yết kiến Tôn giả vào chiều nay.
Vị trưởng lão Alahán đi đến Tinh xá, đảnh lễ Tỳ Kheo trụ trì và sau khi xin phép, ngồi xuống một bên, vị trụ trì thân mật hỏi han.
Thưa hiền giả, hiền giả đã thọ thực chưa?
Thưa, được rồi
Được tại dâu?
Tại nhà người điền chủ trong làng của tôn giả.
Trưởng lão hỏi chỗ nghỉ của mình, sau đó ngồi tọa thiền yên ổn đến chiều mới xuất.
Vào buổi chiều, người điền chủ đem theo hương hoa, đèn dầu đến hỏi vị trụ trì về trưởng lão lúc sáng. Rồi ông đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên nghe thuyết pháp. Sau khi nghe thuyết pháp, ông mời hai vị đến nhà vào ngày mai. Vị tỳ kheo trụ trì suy nghĩ:
Điền chủ này đã bị phân tán. Nếu tỳ kheo này còn ở đây, điền chủ ấy sẽ không còn đếm xỉa đến ta một chút nào nữa. Ta phải làm thế nào để vị ấy không ở được trong tinh xá này!
Vị trưởng lão biết tâm niệm của vị trụ trì nên lui về phòng tọa thiền. Hôm sau, vị trụ trì gọi khách bằng cái gõ nhẹ nơi cửa phòng và ra đi một mình đến nhà người điền chủ. Người điền chủ đón tiếp vị trụ trì và hỏi thăm vị khách.
Tôi có gọi ông ta, nhưng ông ta ngủ say chưa dậy. Có lẽ vì bữa ăn tại nhà ông hôm qua chưa tiêu hóa nên ông mệt.
Ở tinh xá, vị trưởng lão Alahán đến giờ khất thực, cầm bát đắp y bay lên hư không đến một nơi khác.
Sau khi cúng dường các món ăn thượng vị lên trụ trì xong, người điền chủ gởi thức ăn về cho vị tăng khách. Về ngang giữa đường, vị trụ trì đổ hết thức ăn ấy vào một đống than đang cháy bên đường. Đến tinh xá, không thấy vị khách ở đâu, vị trụ trì suy nghĩ:
Có lẽ tỳ kheo ấy đã đoạn tận lậu hoặc, biết được ý định của ta nên bỏ đi rồi chăng? Ôi! Ta vì sự ích kỷ đã làm một việc không thích đáng.
Với ưu sầu ray rứt, vị ấy bỗng như kẻ không hồn và không bao lâu mệnh chung sinh vào địa ngục. Trong nhiều ngàn năm, nó bị thiêu đốt ở địa ngục. Hết thân địa ngục lại làm thân quỷ đói năm trăm năm không ngày nào được no bụng. Chỉ có một ngày duy nhất nó được ăn no bụng bởi đồ uế nhiễm của thai. Hết thân quỷ đói, nó sinh làm chó ngót năm trăm đời. Trong thời gian này, nó chỉ được một ngày duy nhất được ăn no bụng bởi thức ăn mửa ra. Bỏ thân chó cuối cùng, nó sinh làm người trong một gia đình nghèo đói ở nước Kasi. Từ khi nó sinh ra, gia đình càng trở thành nghèo đói cùng cực. Nó không bao giờ được húp đến nửa bát cháo chua. Cha mẹ nó không thể chịu được sự đói khổ quá đáng này, đã đuổi nó đi. Không nơi nương tựa, nó đi lang thang và đến tại Balanại.
Lúc bấy giời Bồ tát (tiền thân Phật Thích Ca) sinh làm vị giáo sư nổi tiếng dạy nghề nghiệp cho năm trăm thanh niên. Dân Balanại trợ cấp đời sống cho những học sinh nghèo. Nó tên Mitavindaka vào học nghề và nhận trợ cấp. Nhưng tánh nó độc ác, khó dạy hay đánh bậy và đi chơi. Được Bồ tát khuyên dạy, nó vẫn không nghe theo. Trong một lần gây gỗ với bạn bè, nó trốn đi lang thang đến một làng biên địa, làm thuê sinh sống. Tại đấy nó sống với một người đàn bà nghèo khổ và sinh được hai đứa con. Người làng thuê nó dạy họ với những kiến thức trước đó, trả tiền và cho nó một cái chòi tại cửa làng. Từ khi Mitavindaka đến, dân làng bị vua xử phạt bảy lần, nhà cửa bị cháy bảy lần, hồ chứa nước bị cạn bảy lần. Đổ thừa cho nó, họ đuổi nó và vợ con đi. Nó đem vợ con đi lang thang lạc vào một khu rừng phi nhân bị phi nhân ăn thịt cả vợ và con, nó một mình chạy thoát. Ngày kia nó đến bến tàu, xin làm thuê trên một chiếc tàu đi biển. Khi chiếc tàu đi biển được bảy ngày, bỗng nhiên tàu dừng hẳn lại như có ai nắm giữ. Chúng rút thăm xem ai là người xui xẻo. Bảy lần thẻ rơi vào Mitavindaka. Chúng thả nó xuống biển cùng với chiếc bè, và tàu lại tiếp tục ra đi. Nó nằm trên bè tre trôi lang thang trên biển. Do kết quả giữ giới trong thời Đức Phật Ca Diếp, nó gặp một lâu đài bằng pha lê với bốn tiên nữ. Nó sống hưởng lạc thú trong bảy ngày. Nó lại lên bè tre đi chỗ khác và gặp tám tiên nữ trong lâu đài bằng ngọc. Nó lại đi và gặp 32 tiên nữ trong 16 lâu đài bằng vàng. Sau đó nó ra đi và gặp thành dạ xoa ở giữa hòn đảo. Có một nữ dạ xoa sống với hình thức con dê. Mitavindaka không biết, bắt lấy con dê để ăn thịt. Con dạ xoa nữ ấy dùng uy lực nhấc bỗng nó lên ném nó bay qua khỏi biển rơi xuống một bụi gai tại cái hào khô nước, lăn tròn rồi đứng trên đấy. Lúc bấy giờ tại cái hào ấy, ăn trộm thường hay đến giết dê của vua. Các người chăn dê đứng núp rình ăn trộm. Mitavindaka bị các người chăn dê tủa ra bắt kết tội trộm dê, đánh nó, trói nó và dẫn nó về cho vua. Lúc bấy giờ Bồ tát với năm trăm thanh niên đoanh vây, đi ra khỏi thành để tắm. Thấy Mitavindaka bị bắt, Bồ tát liền xin nhận đem về cho làm người nô lệ để tiếp tục học hỏi và sống với Bồ tát.
NHẬN XÉT:
Cuộc đời cuối cùng của trưởng lão quá thương tâm, ai nghe đến đều cảm thấy bùi ngùi bi lụy. Cái đói khát đã đeo đuổi tôn giả Losaka suốt bao nhiêu kiếp quá khứ và còn bám theo đến tận những giờ phút chót. Chỉ vì đã đổ bỏ phần ăn cúng dường cho một vị Alahán mà tôn giả phải chịu đựng sự thiếu kém cùng cực khó tưởng tượng như vậy!
Tôn giả vốn là người hiền lành bộc trực, nhưng tâm đố kỵ chưa được diệt trừ, hãy còn ngủ ngầm trong góc tối của tâm thức. Và đôi khi cảm thấy có người chia bớt quyền lợi của mình, tâm đố kỵ khởi lên mạnh mẽ. Không ngờ tôn giả đã đố kỵ với một người mà không một lạc thú nào của tam giới có thể ràng buộc được.
Rồi trong cuộc đời chúng ta sẽ phải đối diện với những trường hợp tương tự. Sẽ có những người tinh tấn hơn ta, tài giỏi hơn ta, đức hạnh hơn ta, được sự cung kính cúng dường hơn ta. Lúc đó ta sẽ có dịp nhìn thấy mặt mày của sự đố kỵ xuất hiện. Nếu từ bây giờ chúng ta không chuẩn bị dọn lòng mình thoát khỏi sự rình rập của tâm đố kỵ, thì sẽ có một lúc nào đó ta phải tác thành nhiều tội lỗi. Kể từ bây giờ chúng ta phải thường tự nhắn nhủ với lòng mình là sẽ hoan hỷ vui mừng khi thấy có người vượt trội hơn ta về các phương diện. Tâm tùy hỷ sẽ đem đến cho chúng ta rất nhiều công đức mà chúng ta không phải tốn một chút sức lực tài sản nào cả.
Nếu chúng ta tùy hỷ với người giới hạnh, chúng ta sẽ thành tựu giới hạnh. Nếu chúng ta tùy hỷ với người tài ba, chúng ta sẽ thành tựu tài năng. Nếu chúng ta tùy hỷ với người đắc định, chúng ta sẽ sâu vào Thiền Định. Dĩ nhiên ngoài sự tùy hỷ, chúng ta vẫn phải thực hành các điều kiện khác và ở đây, tâm tùy hỷ, là sự hỗ trợ lớn lao cho kết quả.
Tại sao sự bất hạnh của tôn giả lại lây sang những dân lành sinh sống chung quanh một cách khắc nghiệt như vậy?
Đó là cái duyên cớ để tôn giả bị họ xua đuổi đi lang thang và chịu đựng những khốn đốn khác.
Nhưng ít ra trong vô lượng đời sống quá khứ, họ đã chung nhau tạo những ác nghiệp nào đó rồi, và cái xui cho tôn giả là khi tôn giả hiện diện, quả báo của họ trổ ra.
Qua quá nhiều thời gian ở ba đường ác, tôn giả được sinh làm người, một người ác độc, khó dạy, hay gây gỗ. Những thói xấu của một người thường có nguồn gốc từ một đời sống súc sinh ngạ quỷ nào đó trong quá khứ. Người hiền lành tốt bụng là người đã có được thân trời người liên tục nhiều đời trước đấy. Sự chuyển đổi nghiệp thọ sinh của một người phải bắt đầu bằng sự chuyển đổi tâm hồn của họ. Sự thay đổi tâm hồn là gốc để đưa họ đến những cõi giới khác hơn. Nếu không kiểm soát và chuyển hóa tâm hồn của chính mình, vực thẳm đọa lạc luôn luôn là sự chờ đón gần kề.
Công đức trì giới từ thời Đức Phật Kassapa, thay vì đem đến quả báo xuất thế, lại đem đến cho tôn giả lạc thú trần gian nơi các lâu đài và tiên nữ trên biển. Chỉ vì qua nhiều đời kiếp lâu xa sinh trong ác đạo, Tôn giả đã đánh mất sự thú hướng về mục tiêu giải thoát. Và như vậy, quả báo của công đức cũ đã đi lạc sang đường khác. Cũng một hành vi cúng dường, nhưng người thì hướng đến lạc thú ở đời sau, người thì hướng đến quả vị giải thoát. Quả báo sẽ tùy theo sự thú hướng của họ mà trổ ra thích hợp.
Thế thì quả vị Alahán đời này của Tôn giả do đâu mà có?
Dĩ nhiên cũng bắt nguồn từ thuở làm tỳ kheo thời Đức Phật Kassapa, và sẽ nhạt nhòa theo dòng thời gian vô tận, nếu không có sự khám phá của Bồ tát Thiện Tuệ, tiền thân Phật Thích Ca. Chính vì khám phá ra hạt giống ít ỏi còn bị vùi dập nơi con người Mitavindaka khốn khổ và ác độc này nên Bồ tát đã chịu khó nhiếp thọ và giáo hóa dần dần. Câu chuyện bổn sinh trên, không kể tiếp đoạn sau nữa, nhưng chúng ta phải hiểu rằng ở những đời sau Mitavindaka tiếp tục được Bồ tát nhiếp hóa mãi. Những đạo tràng ẩn tu Thiền Định của Bồ tát nhiều lần xuất hiện tại Tuyết sơn làm sao không có mặt Mitavindaka! Bồ tát đã khéo léo và kiên nhẫn khơi lại hạt giống giải thoát của Mitavindaka, chăm bón giữ gìn cho nó tăng trưởng không dừng nghỉ. Và cuối cùng hạt giống đó đã vươn cao sum xuê cành lá để chờ đợi một thời tiết quyết định cần thiết. Thời tiết đó chính là lúc Bồ tát ra đời để thành tựu Phật quả và Mitavindaka vào thai nơi làng đánh cá.
Như ngọn đèn trong chiếc ghè, điều kiện để thành Alahán cháy đỏ trong tim của nó.
Câu nói này có một giá trị đặc biệt. Một người ra đời để thành tựu quả vị, hoàn toàn không phải là chuyện ngẫu nhiên trùng hợp, mà điều đó đã được quy định rõ ràng rồi. Dù đứa bé đó sống vất vưởng khổ sở như
con quỷ ăn bùn
, dù nó phải lang thang đầy đọa từ khi vừa biết đi, thì nó vẫn phải trở thành một vị Alahán tối thượng! Người ở thân tối hậu để thành Alahán thì không ai có thể làm tổn hại được nữa. Thật vậy dù Tôn giả bị ghét bỏ đến cùng cực, nhưng không một ai có ý định giết chết Tôn giả, và nếu có ý định, họ cũng không thể thực hiện được.
Tuy quả vị xuất thế tối thượng đã viên mãn rồi nhưng Nghiệp báo vẫn chưa chịu buông tha Tôn giả. Tôn giả vẫn sống một đói còn lại trong sự khó khăn đói kém. Nhưng điều này không có nghĩa tôn giả bị đau khổ. Không còn có đau khổ nơi một vị đã chứng Alahán, Mặc dù vị ấy có gặp nhiều chướng ngại nơi hoàn cảnh. Chúng ta thấy Nhân Quả thế gian và Nhân Quả xuất gian tuy có hỗ trợ nhau, nhưng vẫn độc lập với nhau mà Tôn giả Losaka Tissa là một bằng chứng rõ rệt. Các vị Alahán bình đẳng nhau trên đạo quả, nhưng vẫn sai biệt nhau trên phước nghiệp thế gian.