Phần 6 - Chương 2: Nhân Quả Bồ Tát Đạo - Tạo Cơ Hội Cho Chúng Sinh Tác Phước
-
Luận Về Nhân Quả
- Vân Họa , Thích Chân Quang
- 1950 chữ
- 2020-05-09 03:59:15
Số từ: 1947
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nguồn: sachvui.com
(Trích Từ Bi Thủy Sám, tựa)
Thuở xưa về triều Vua Đường Ý Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt. Ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất kinh sư trong một ngôi chùa. Nhà sư ấy mắc bệnh cùi, ai cũng ghê tởm lánh xa, chỉ có ngài Tri Huyền khởi lòng thương cảm đến chăm sóc hầu hạ tận tình. Đến lúc nhà sư sắp ra đi mới dặn Tri Huyền rằng:
– Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm ta, và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ ta trú ngụ.
Sau đó ngài Ngộ Đạt cũng dời đến chùa An Quốc thì Đạo Đức của Ngài vang khắp. Vua Ý Tôn thân hành đến Pháp Tịch nghe Ngài giảng đạo và phong làm quốc sư. Vua dâng cúng Ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương. Một hôm ngài ngồi một mình trên chiếc tọa ấy, tâm khởi niệm mãn nguyện hài lòng trước sự thành đạt của mình, hốt nhiên Ngài nghe đau nhói tột độ nơi đầu gối muốn xỉu. Khi xem lại thì đầu gối xuất hiện một mụt ghẻ mặt người. Nỗi đau hoành hành Ngài vô tận mà không một danh y nào chữa nổi. Ngài chợt nhớ lời căn dặn năm xưa của vị sư nên sắm sửa đi về Tây Thục.
Trên đường đi trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mờ Ngài nhìn xem bốn phía bỗng thấy dạng hai cây tùng. Ngài mới tin rằng lời ước hẹn không sai. Ngài liền đi ngay đến chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa, nhà sư đang đứng chờ đón Ngài một cách thân mật.
Ở lại đêm, Ngài Ngộ Đạt mở tỏ hết tâm sự đau khổ của mình. Nhà sư nói:
– Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa, mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn Ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụt ghẻ kêu lên:
– Đừng rửa vội! Ông học nhiều biết rộng, đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Án, Triệu Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
Kinh ngạc vô cùng, Ngài đáp:
– Tôi có đọc.
– Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Án giết Triệu Thố! Triệu Thố bị chém ở chợ phía đông oan ức biết dường nào! Viên Án là ông. Triệu Thố là tôi. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao Tăng, giới luật tinh nghiêm nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù ông được. Nay nhờ tôn giả Ca Nhã Ca lấy nước pháp tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa. Nước vừa chạm vào thì cơn đau xảy ra kịch liệt Ngài bất tỉnh hồi lâu. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Ngài mới biết thánh hiền ẩn dấu Bồ Tát thị hiện, kẻ phàm phu không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó lại thì điện các uy nghi đã biến mất tự bao giờ. Ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo đời Nhà Tống mới sắc hiệu là
Chí Đức Thiền Tự
có một vị cao tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng.
NHẬN XÉT:
Chẳng biết có ai đọc truyện Tây Hán ra sao còn tôi không có đọc được cốt truyện ấy nên không rõ hết sự tình, chỉ theo chỗ dẫn trên để hiểu rằng Viên Án đã âm mưu giết Triệu Thố một cách rất oan ức. Lẽ ra Ngài Ngộ Đạt sẽ đền trả tội nghiệp này một cách đau đớn ở địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh. Nếu Ngài không có công đức lớn lao trong Phật Pháp. Ở đây ta thấy công lao tu hành chân chính của một người đã hóa giải khá nhiều trọng tội của họ. Sau đời giết oan Triệu Thố, Viên Án liên tiếp mười đời làm cao tăng trì giới nghiêm chỉnh. Không thể có sự kiện này nếu nhiều đời trước nữa Viên Án không từng kết duyên tu tập sâu dày trong Phật Pháp. Công đức trước và sau sự kiện Triệu Thố, Viên Án đã cảm ứng được sự cứu độ của Bồ Tát. Vị Bồ Tát xuất hiện ở đây chính miệng mụn ghẻ cho biết là tôn giả Ca Nhã Ca. Tôn giả Ca Nhã Ca là ai, chúng ta cũng không biết rõ ràng, chỉ chiêm ngưỡng phương tiện thiện xảo của tôn giả nơi câu chuyện này. Và tại sao Triệu Thố biết được điều này, lại nói rằng tôn giả đã giải oan cho ông rồi? Sự liên hệ riêng giữa tôn giả Ca Nhã Ca và Triệu Thố còn nằm trong bí mật. Chỉ có sự liên hệ giữa tôn giả Ca Nhã Ca và Ngài Ngộ Đạt được biểu hiện cụ thể nơi đây.
Thuở còn là sai di, Ngài Ngộ Đạt nổi tiếng thần đồng, đã từng đăng đàn thuyết pháp cho tăng chúng tỳ kheo. Ngài được Lý Thương Ẩn đề thơ khen tặng.
Sa Di mười bốn giỏi giảng kinh
Tuổi nhỏ như ông chỉ cầm bình
Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
Chẳng bởi tuổi cao, trọng tánh linh
(Thập Tứ Sa Di năng giảng kinh
Tợ sư niên kỷ chỉ huề bình
Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
Bất tại niên cao tại tánh linh)
Nhưng chẳng những Ngài thông minh trí tuệ thôi mà đức hạnh cũng rất chu toàn đặc biệt. Nhà sư bịnh cùi bị mọi người ghê tởm xa lánh, thế mà Ngài lại ân cần chăm sóc trị liệu chu đáo. Không ngờ Ngài đã tác thành phước duyên to lớn là hầu hạ một bậc Bồ Tát siêu phàm. Chính tôn giả cố ý thị hiện bệnh nặng để tạo cơ hội cho Ngộ Đạt làm phước. Và rồi chính phước nghiệp đó sẽ hóa giải oan ức về sau mà tôn giả biết trước Ngộ Đạt không thể nào vượt qua nổi. Tôn giả là người chứng ngộ, thấu suốt đường đi phức tạp của Nhân Quả Nghiệp báo nên không dùng thần thông phép lạ để chận đứng Nghiệp báo của Ngộ Đạt. Tôn giả chỉ dùng thần thông tạo cơ hội cho Ngộ Đạt tác phước và có lẽ trong cõi giới khác đã khuyên bảo Triệu Thố khá nhiều.
Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sinh không chỉ bằng cách đem tài vật bố thí cho họ, mà phải biết tạo điều kiện cho họ tác phước, sự thọ nhận tài vật giúp họ qua cơn thiếu thốn nhất thời nhưng lại tiếp tục tổn phước về sau. Còn sự chịu khó tạo phước mới đem lại cho họ an vui lâu dài. Những khi Bồ tát ra đời làm vua, quan, hướng dẫn sư... đều dùng uy lực của mình khuyên bảo nhân dân tu hành thập thiện, khuyên họ vui vẻ cùng nhau đắp đường, sửa đê, đào kinh, cất trường học, mở bệnh viện, trồng rừng... Những công trình phúc lợi công cộng là cơ hội để nhiều người tạo phước. Nó khác với những công trình bắt dân xu dịch khổ sở để kiến tạo điện đài cho tập đoàn thống trị phong kiến. Nếu chúng ta có tâm từ ái với chúng sinh nào, hãy khéo léo tạo điều kiện cho chính họ tác phước. Điều kiện đó là những lời khuyên bảo ân cần, là ý kiến chỉ vẻ phương pháp, là phương tiện tài vật cụ thể. Ví như ta khuyên họ hãy đắp lại đoạn đường trong làng, ta sẽ bảo họ cố gắng lên, chỉ họ cách thức tu sửa đường sá, cấp cho họ thức ăn và dụng cụ. Làm được điều này, họ sẽ bớt khổ về sau.
Chúng ta cũng thấy công đức trì giới tinh nghiêm có năng lực chận đứng nghiệp lực quá khứ. Mười đời làm cao tăng khiến cho oan hồn Triệu Thố không có cơ hội đột nhập phá tán Viên Án. Nếu chúng ta phát tâm tu hành chân chính, trì giới cẩn trọng, Thiền Định chuyên cần thì những nghiệp lực cũ bị chận lại. Nhờ vậy chúng ta được yên ổn thuận tiện tiến tu đạo nghiệp cho đến viên mãn. Tới khi đạo nghiệp viên thành, quả báo cũ xuất hiện, chúng ta không cảm thấy đau khổ.
Chỉ vì niệm tự mãn bất ngờ khởi lên không kiểm soát được, uy đức bị khiếm khuyết, ác nghiệp xưa mới có cơ hội làm thành mụt ghẻ mặt người gây ra đau đớn. Vì vậy, người phát tâm tu hành cần phải giữ gìn chánh niệm trong từng phút giây miên mật, kiểm soát đừng để ác niệm, tà niệm xen vào làm tổn thương uy đức. Nhưng ngài Ngộ Đạt có công đức quá khứ giữ gìn nên oan hồn Triệu Thố không xâm nhập vào trong tư tưởng để gây thành đồng cốt điên loạn, chỉ biểu lộ nơi cơ thể, dưới đầu gối làm thành mụn ghẻ đau đớn mà thôi! Có những người thiếu công đức quá khứ, chê bai thánh hiền, đã từng dùng bùa chú hại người, đời này những oan trái xưa trổ quả, thường báo ứng vào tư tưởng để sai sử làm thác loạn mê mờ.
Tôn giả Ca Nhã Ca thấy trước cái lúc vinh quang trong đời Ngộ Đạt và biết cơ hội cho nghiệp cũ sẽ đến nên đã ân cần dặn dò mọi điều. Khi nạn xảy ra, Ngộ Đạt tìm đến nơi hẹn ước thì trông thấy cảnh chùa viện nguy nga, lầu vàng điện ngọc, ánh sáng chói lọi giao xen rực rỡ. Sáng hôm sau khi bệnh được chữa xong, thì tất cả biến mất, chỉ còn lại núi rừng tĩnh mịch hoang vu như thuở nào.
Do công đức vĩ đại từ nhiều kiếp, một vị Bồ tát được tùy nguyện tạo thành những Tịnh độ theo ý muốn để giáo hóa chúng sinh. Tôn giả Ca Nhã Ca đã thị hiện một chút Tịnh độ của mình qua một đêm làm chỗ trú ngụ cho Ngộ Đạt và cũng để an ủi gây thêm niềm tin sức mạnh cho Ngài. Khi công việc đã xong, Tôn giả thâu hồi thần lực, trả lại núi rừng cảnh cũ người xưa. Tịnh độ không phải là cứu cánh của chư Phật. Nó chỉ là huyễn cảnh được dựng nên tạm thời để giáo hóa chúng sinh. Cứu cánh mà chư Phật, chư Bồ tát nhắm đến là làm sao cho chúng sinh thành tựu giới định huệ giải thoát. Còn tịnh độ chỉ là việc bên ngoài không chân thật. Nếu chúng sinh ngay nơi tự tâm được thanh tịnh giải thoát thì Tịnh độ là thừa.