Phần III: ĐẦU THẬP NIÊN SÁU MƯƠI - Chương mười chín
-
Nửa Mặt Trời Vàng
- Chimamanda Ngozi Adichie
- 4060 chữ
- 2020-05-09 01:32:52
Số từ: 4049
Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà
NXB Lao Động
Nguồn: vietmessenger
Ugwu ngồi trên bậc thềm dẫn ra sân sau. Những giọt mưa rơi trên lá cây, không khí có mùi ẩm ướt, hắn và Harrison nói về chuyến đi sắp tới của Richard.
"Tufia! Không hiểu tại sao ông chủ lại muốn xem cái ngày hội quỷ ở làng của chú mày", Harrison nói. Ông ta ngồi dưới Ugwu vài bậc thềm; Ugwu có thể nhìn thầy khoảng đầu hói của ông ta.
"Có thể ông Richard muốn viết sách về quỷ sứ", Ugwu trả lời. Dĩ nhiên ori-okpa không phải là ngày hội quỷ, nhưng hắn không nên bất đồng ý kiến với Harrison. Hắn cần Harrison ở trong trạng thái vui vẻ để hắn có thể hỏi ông về hơi cay. Hai người im lặng một lúc lâu, nhìn mấy con kền kền bay lượn trên đầu; nhà hàng xóm vừa mới giết một con gà.
"À, mấy quả chanh này đã chín rồi", Harrison chỉ về phía cây chanh. "Tôi dùng mấy quả tươi để làm bánh meringue 1", ông nói thêm bằng tiếng Anh.
"Me-rinh là cái gì?" Ugwu hỏi. Harrison sẽ thích nghe những câu hỏi như thế này.
"Chú mày không biết nó là cái gì à?" Harrison cười. "Đó là thức ăn của người Mỹ. Tôi sẽ làm để ông chủ mang đến đây khi cô chủ của chú mày từ London về. Tôi biết cô ấy sẽ thích loại bánh này." Harrison quay sang liếc nhìn Ugwu. Ông ta trải tờ báo xuống trước khi ngồi lên bậc thềm; tờ báo nhăn nhúm lúc ông ta xê dịch. "Cả chú mày cũng sẽ thích nó."
"Vâng", Ugwu nói, mặc dù hắn thề là sẽ không bao giờ ăn thức ăn của Harrison sau khi hắn ghé qua nhà của Richard và nhìn thấy Harrison dùng thìa múc vỏ cam bỏ vào một nồi xốt. Có thể hắn sẽ ít cảnh giác hơn nếu nhìn thấy Harrison nấu bằng trái cam; nhưng đằng này lại nấu bằng vỏ, thật chẳng khác gì việc chọn miếng da đầy lông của con dê thay vì dùng thịt của nó.
"Tôi cũng sẽ dùng chanh để làm bánh; chanh rất tốt cho cơ thể", Harrison nói. "Thức ăn của người da trắng bổ dưỡng, không giống mấy thứ vô vị người mình hay ăn."
"Vâng, đúng vậy." Ugwu đằng hắng. Đáng lẽ hắn nên hỏi về hơi cay bây giờ nhưng hắn lại nói lảng sang chuyện khác, "Để cháu chỉ cho ông xem phòng của cháu".
"Ừ" Harrison đứng dậy.
Khi hai người vào phòng của Ugwu, hắn chỉ lên trần nhà, trang trí theo mẫu hình trắng đen. "Cháu tự làm đấy", hắn nói. Hắn đã nâng một mẩu nến rọi lên trên ấy hàng giờ, thường xuyên ngừng lại để dịch chuyển cái bàn hắn dùng để đứng lên.
"O maka, đẹp quá." Harrison nhìn cái giường lò xo hẹp ở trong góc, bàn và ghế, những cái áo sơ mi treo lên hàng đinh đóng vào tường, hai đôi giày xếp cẩn thận trên nền nhà. "Mấy đôi giày này mới đấy hả?"
"Cô chủ mua cho cháu ở tiệm Bata."
Harrison rờ đống nhật báo trên bàn. "Chú mày đọc mấy cái này hả?" Ông ta hỏi bằng tiếng Anh.
"Vâng." Ugwu đã lấy lại từ thùng đựng sách báo cũ; tờ Mathematial Annals thì không thể hiểu nổi, nhưng ít nhất là hắn cũng đọc, cho dù không hiểu hết, vài trang của tờ Socialist Review.
Trời bắt đầu đổ mưa. Tiếng mưa lộp độp trên mái tôn trở nên to và càng to hơn hơn khi đứng dưới mái hiên và nhìn nước mưa rơi xuống từ mái nhà, tạo thành những đường song song.
Ugwu đập đen đét vào cánh tay của mình — hắn thích không khí mát lạnh của trời mưa, nhưng không thích bầy muỗi bay vo ve xung quanh. Cuối cùng rồi hắn cũng hỏi câu mà hắn muốn hỏi tò lâu. "Ông có biết làm cách nào để tìm được hơi cay không?"
"Hơi cay? Tại sao chú mày hỏi thế?"
"Cháu đọc về nó trên báo của Ông Chủ cháu, và cháu muốn xem nó ra làm sao." Hắn không muốn nói cho Harrison biết, thật ra hắn nghe Ông Chủ nói về hơi cay khi ông kể các nhân viên của Hạ viện miền Tây đấm đá lẫn nhau cho đến khi cảnh sát tới xịt hơi cay khiến họ ngất xỉu và những người giữ trật tự đến vác thân thể mềm rũ của họ ra xe. Hơi cay làm Ugwu mê quá. Nếu nó thực sự có thể làm người ta ngất xỉu thì Ugwu muốn có loại hơi cay này. Hắn sẽ xịt hơi cay vào Nnesinachi khi hắn về thăm nhà với Richard để dự hội làng ori-okpa. Hắn muốn dẫn cô ra cánh rừng cạnh dòng suối và bảo cô nàng hơi cay là một loại thuốc xịt có phép màu làm cho cô khỏe mạnh. Cô nàng sẽ tin lời hắn. Cô nàng sẽ rất nể phục hắn khi nhìn thấy hắn về làng bằng xe hơi của một người da trắng, do đó sẽ tin hết những lời hắn nói.
"Rất khó mà tìm được hơi cay", Harrison nói.
"Tại sao?"
"Chú mày còn nhỏ quá nên không hiểu đâu." Harrison gật đầu một cách bí mật. "Chừng nào chú mày là một người trưởng thành, tôi sẽ nói cho."
Đầu tiên, Ugwu hơi khó nghĩ, trước khi hắn nhận ra rằng Harrison cũng chẳng biết hơi cay là cái thá gì song không muốn thú nhận. Hắn hơi thất vọng. Hắn phải hỏi Jomo.
Jomo biết hơi cay là gì và ông ta cứ cười như nắc nẻ tới khi Ugwu nói cho ông ta biết mục đích dùng hơi cay của mình. Jomo chắp tay vào nhau lúc ông ta cười. "Chú mày là một con cừu, aturu", cuối cùng Jomo nói. "Tại sao chú mày lại muốn dùng hơi cay với một đứa con gái? Nghe này, về làng, khi thời gian thích hợp và cô ấy cũng thích chú mày, cô ấy sẽ đi theo và làm theo lời chú mày. Chú mày không cần phải dùng hơi cay."
Ugwu nhớ lời của Jomo lúc Richard chở hắn về làng sáng hôm sau. Anulika chạy ra đường mòn khi nó nhìn thấy hai người và nó dạn dĩ bắt tay Richard. Nó ôm chầm lấy Ugwu và, khi tất cả mọi người cùng đi về, nó kể cho Ugwu biết là bố mẹ đang ở ngoài nông trại, người chị họ mới vừa sinh một em bé hôm qua, Nnesinachi đã đi lên miền Bắc tuần trước.
Ugwu dừng lại và nhìn nó chòng chọc.
"Có chuyện gì xảy ra à?" Richard hỏi. "Hội làng không bị hủy bỏ đấy chứ?"
Ugwu thầm ước sao cái ngày hội này được hủy bỏ. "Không, thưa ông."
Hắn dẫn đường ra quảng trường, đàn ông, đàn bà và trẻ em đã tụ họp, và ngồi đầy dưới gốc cây oji với Richard. Không bao lâu, lũ trẻ vây lấy hai người, reo hò: "Onye ocha, người da trắng", rổi thò tay ra sờ tóc của Richard. Chàng nói, "Kedu? Xin chào, em tên là gì?", chúng nhìn chàng chằm chặp, cười khúc khích và nép vào nhau. Ugwu dựa người vào thân cây và thầm tiếc khoảng thời gian mà hắn đã bỏ ra để tơ tưởng đến lúc gặp Nnesinachi. Bây giờ cô ta đã đi mất và một gã lái buôn miền Bắc sẽ đoạt được cái của trời cho ấy. Khó khăn lắm hắn mới nhận thấy mmuo: những thân hình cường tráng đổ bóng trên cỏ, họ đeo những chiếc mặt nạ gớm ghiếc và mấy ngọn roi dài đong đưa trong tay. Richard chụp ảnh, ghi chép vào sổ tay, đặt câu hỏi, hết câu này đến câu khác — đó là cái gì, họ nói những gì, mấy người đang kìm giữ mmuo bằng sợi dây là ai, điều đó có nghĩa gì — cho đến khi Ugwu thấy bực bội vì hơi nóng, vì mấy câu hỏi vớ vẩn, vì tiếng ồn ào và vì nỗi thất vọng do không được gặp Nnesinachi.
Trên đường về, hắn chỉ nhìn qua cửa xe, chẳng nói lấy một lời.
"Em đã thấy nhớ nhà, phải không?" Richard hỏi.
"Vâng, thưa ông", Ugwu trả lời. Hắn muốn Richard im mồm đi. Hắn chỉ muốn được yên tĩnh một mình. Hắn hy vọng Ông Chủ vẫn còn ở câu lạc bộ để hắn có thể lấy tờ Renaissance ở phòng khách rồi cuộn tròn trong phòng mà đọc. Hoặc hắn có thể xem ti vi; nếu may mắn, hắn sẽ được xem một bộ phim Ấn Độ. Đôi mắt to đẹp của các cô diễn viên, lời ca, hoa, ánh sáng rực rỡ, lời than khóc… là những thứ mà hắn rất cần lúc này.
Khi mở cửa sau để vào nhà, hắn sững sờ nhìn thấy mẹ của Ông Chủ đang đứng cạnh bếp. Amala đứng bên cửa. Ngay cả Ông Chủ cũng không biết họ đến, nếu không Ông Chủ đã bảo hắn dọn dẹp phòng dành cho khách.
"Ồ", hắn nói. "Chào bà ạ, chào cô Amala." Lần viếng thăm trước vẫn còn in đậm dấu ấn trong tâm trí hắn: Bà cụ quấy nhiễu Olanna, gọi nàng là một mụ phù thủy, mắng nhiếc nàng và tệ nhất là còn đòi rước dibia yểm nàng.
"Cháu có khỏe không, Ugwu?" Bà sửa cái váy của mình trước khi vỗ nhẹ lưng hắn. "Con ta nói là cháu chỉ cho một ông da trắng xem thần linh trong làng cháu, phải không?"
"Vâng, thưa bà."
Hắn có thể nghe giọng nói sang sảng của Ông Chủ ở phòng khách. Có lẽ một người khách đến thăm và Ông Chủ quyết định không đến câu lạc bộ.
"Cháu có thể đi nghỉ, i nugo", bà cụ nói. "Ta đang sửa soạn cơm tối cho con ta rồi."
Khi bà chiếm giữ căn bếp của hắn và dùng cái chảo Olanna thích nhất để nấu món ăn nặng mùi của bà thì niềm ao ước mãnh liệt duy nhất của hắn là mong sao bà ấy về đi. Nhưng hắn lại nói: "Cháu ở đây để phòng khi bà cần sai bảo, thưa bà".
Bà nhún vai và tiếp tục nhặt hạt tiêu. "Cháu nấu ofe nsala có ngon không?"
"Cháu chưa bao giờ nấu món ấy ạ."
"Tại sao vậy? Con ta thích món này lắm."
"Cô chủ của cháu chưa bao giờ bảo cháu nấu ạ."
"Nó không phải là cô chủ của cháu, rõ chưa. Nó chỉ là một con đàn bà sống chung với người đàn ông đã nhặt nó về."
"Vâng, thưa bà."
Bà cụ mỉm cười, lấy làm vui mừng khi thấy hắn hiểu ra một việc hệ trọng và ra hiệu chỉ vào hai cái bình bằng đất nung ở trong góc. "Ta mang một ít rượu dừa mới cất cho con ta. Người cất rượu giỏi nhất trong làng vừa mới mang đến cho ta sáng nay."
Bà rút cái nút lá của một bình và rượu sánh tràn ra, trắng, tươi, mùi ngọt thơm bốc lên. Bà rót một ít vào ly, đưa cho Ugwu.
"Thử xem!"
Vị rượu rất nồng trên lưỡi của hắn, loại rượu dừa đậm đặc được chế biến từ nhựa cây dừa trong mùa khô làm dân làng say rất nhanh, vừa uống vào đã chân nam đá chân chiêu. "Cảm ơn bà. Rượu ngon lắm."
"Người làng cháu nấu rượu có khéo không?"
"Thưa bà, có ạ."
"Nhưng chắc không bằng người làng ta. Rượu Abba ngon nhất xứ Igbo. Đúng không, Amala?"
"Đúng thế thưa bà."
"Rửa cái chén này cho ta."
"Vâng, thưa bà." Amala bắt đầu rửa chén. Vai và cánh tay của cô lắc theo nhịp chuyển động. Ugwu chưa từng nhìn kỹ cô ta, thì bây giờ hắn mới để ý thấy hai cánh tay thon, đen sẫm và cả khuôn mặt của cô ướt bóng nhẫy, tựa như cô ta tắm bằng dầu lạc vậy.
Giọng của Ông Chủ to và khẳng khái, vẳng tới từ phòng khách. "Nhà cầm quyền ngu dốt của chúng ta cũng nên chấm dứt quan hệ với bọn Anh. Chúng ta phải bày tỏ quan điểm chính trị của mình. Tại sao nhà cầm quyền Anh không tích cực hơn ở Rhodesia? Cái chuyện phong tỏa kinh tế một cách què quặt này thì có làm được trò trống gì?"
Ugwu đến gần cửa để lắng nghe; chuyện ở Rhodesia và những gì đang xảy ra ở Nam Phi luôn hấp dẫn hắn. Hắn không thể hiểu được tại sao những người giống như Richard lại có thể tước đoạt những gì thuộc về những người dân giống như hắn, Ugwu, mà chẳng có lý do chính đáng gì cả.
"Lấy cho ta cái mâm, Ugwu." Bà cụ nói.
Ugwu lôi ra một cái mâm cất trong tủ đựng bát và sắp xếp như muốn giúp bà cụ dọn thức ăn cho Ông Chủ, nhưng bà xua tay đuổi hắn đi chỗ khác. "Ta ở đây nên cháu có thể nghỉ một chút. Tội nghiệp cháu quá. Cái con mụ ấy sẽ tiếp tục hành hạ cháu khi nó ở nước ngoài về, làm như thể cháu không phải là con người vậy." Bà mở một gói gì nho nhỏ và rắc vào bát xúp. Ugwu đột nhiên nghi ngờ; hắn nhớ đến con mèo đen xuất hiện ở sân sau khi bà cụ đến lần trước. Và cái gói cũng màu đen nữa, giống như màu lông con mèo.
"Cái gì thế, thưa bà? Cái mà bà bỏ vào trong thức ăn của Ông Chủ con ấy?" Hắn hỏi.
"Đó là một thứ gia vị đặc biệt của người Abba." Bà quay lại, nhếch môi cười. "Nó ngon lắm."
"Vâng, thưa bà." Rất có thể là hắn sai khi nghi ngờ bà bỏ thuốc của dibia vào trong thức ăn của Ông Chủ. Có thể Olanna nói đúng và con mèo đen chẳng có nghĩa lý gì cả, chỉ đơn giản là con mèo của láng giềng, mặc dù hắn không biết nhà nào lại có con mèo đen với đôi mắt lóe sáng màu vàng và đỏ như thế.
Ugwu không còn nghĩ về thứ gia vị lạ lùng hay là con mèo đen nữa, bởi vì khi Ông Chủ ăn tối, hắn đã lén rót một ly rượu dừa và thêm một ly nữa bởi vì nó ngọt quá, sau đó hắn có cảm giác như trong đầu hắn có lót một lớp len rất mềm. Hắn đi không nổi. Tiếng Ông Chủ chập chờn vang ra từ phòng khách, "Chúc mừng tươnglai của Phi châu vĩ đại! Chúc mừng những người anh em độc lập của chúng ta ở Gambia và những anh em Zambia đã rời bỏ Rhodesia!", theo sau đó là một chuỗi cười giòn giã. Rượu dừa cũng làm Ông Chủ say. Ugwu cười hùa theo, mặc dù hắn ở trong nhà bếp và cũng không biết chuyện gì tức cười. Cuối cùng hắn ngủ gục trên ghế, gục đầu xuống cái bàn sặc sụa mùi cá khô.
Hắn thức dậy, thấy mấy khớp xương của mình cứng ngắc. Mồm hắn chua lè và đầu nhức nhối, hắn ước gì mặt trời không chói chang quá như thế và Ông Chủ đừng nói to đến thế sau khi đọc mấy tờ báo lúc điểm tâm. Vì sao lại có nhiều chính khách vẫn còn tại chức hơn là người mới được tuyển cử? Toàn là trò bẩn thỉu. Cuộc bầu cử này là sự gian lận tồi tệ nhất. Mỗi chữ như phập phồng, đập thon thót trong đầu của Ugwu.
Sau khi Ông Chủ đi làm, bà cụ hỏi, "Thế cháu không đi học à, gbo, Ugwu?"
"Chúng cháu đang nghỉ lễ ạ."
"Ồ!" Bà có vẻ thất vọng.
Sau đó, bà chà xát cái gì đó lên lưng của Amala và cả hai đang đứng trước phòng tắm. Sự hoài nghi của hắn quay trở lại. Có cái gì đó không được bình thường trong cách bàn tay của bà cụ xoa tròn, chậm chạp, như hòa hợp nhịp nhàng, như một nghi lễ, và thêm vào đó, cái cách Amala đứng yên lặng, lưng thẳng và tấm quấn của cô trễ xuống tận thắt lưng, đường cong của bộ ngực nhỏ nhắn của cô có thể nhìn thấy từ bên hông. Có lẽ bà cụ đang thoa thuốc lên người Amala. Nhưng thật vô lý, bởi vì nếu thật sự bà cụ đi gặp dibia, thuốc sẽ phải dành riêng cho Olanna chứ không phải cho Amala. Hay là loại bùa chú này hiệu nghiệm với đàn bà và bà cụ phải tìm cách bảo vệ chính mình và Amala để chắc chắn chỉ có Olanna chết, hoặc là không sinh nở được, hoặc trở nên điên cuồng, có lẽ bà cụ đang làm thí nghiệm đợt đầu để tự bảo vệ vì Olanna đang ở London và bà sẽ chôn thuốc này trong sân cho đến khi Olanna trở lại.
Ugwu rùng mình. Có cái gì rất đen tối đang treo lơ lửng trong nhà. Hắn lo sợ bởi cái vẻ hớn hở của bà cụ, bởi cái cách bà hát ư ử trong miệng rất lạc giọng, cái cách bà giành quyền nấu ăn phục vụ Ông Chủ, những lời bà thầm thì vội vội vàng vàng với Amala. Hắn lén nhìn theo bà một cách chăm chú mỗi khi bà đi ra ngoài để xem bà có chôn cái gì không, để hắn có thể đào lên khi bà vào trong nhà. Nhưng bà chẳng chôn gì cả. Khi hắn kể cho Jomo nghe về việc hắn nghi bà cụ đã đi cầu dibia để tìm cách giết Olanna, Jomo nói, "Rất đơn giản, bà cụ rất vui mừng vì có lại người con trai cho riêng mình, thế nên bà ta sung sướng đến độ nấu ăn và hát mỗi ngày. Chú mày có biết mẹ ta sung sướng như thế nào mỗi lần ta về thăm bà mà không dẫn vạ theo không?"
"Nhưng lần trước, khi bà đến thăm, em thấy con mèo đen", Ugwu nói.
"Cái con bé giúp việc nhà của Giáo sư Ozumba ở cuối đường là một mụ phù thủy. Nó bay lên ngọn cây xoài ban đêm để gặp đám bạn phù thủy của nó, vì ta luôn phải quét lá bọn chúng ném xuống. Con bé đó mới chính là người mà con mèo đen đang tìm."
Ugwu cố gắng tin Jomo, tin là hắn tìm tòi lý do quá sâu xa nhưng không có thực về hành động của bà cụ, cho đến tối hôm sau, lúc bước vào bếp sau khi nhổ cỏ ở mảnh vườn, hắn nhìn thấy ruồi bâu đầy trên đống bọt trong chậu rửa bát. Cửa sổ hầu như không mở. Hắn chưa bao giờ nhìn thấy nhiều ruồi đến thế, cả trăm con ruồi xanh bụ bẫm có thể len vào chỗ cửa mở hé, tạo thành đàn ruồi dày đặc, hỗn loạn. Chúng tượng trưng cho một cái gì đó khủng khiếp. Ugwu chạy vào phòng làm việc gọi Ông Chủ.
"Quái lạ", Ông Chủ nói; ông gỡ mắt kính rồi lại đeo vào. "Tôi tin là Giáo sư Ezeka có thể giải thích hiện tượng này, một dấu hiệu của sự di cư tập thể. Đừng đóng cửa sổ, nếu không em sẽ tình cờ bẫy chúng trong nhà đây."
"Nhưng, thưa ông", Ugwu nói; ngay lúc đó bà mẹ của Ông Chủ bước vào bếp.
"Đôi khi lũ ruồi vẫn thế", bà nói. "Chuyện này cũng bình thường thôi. Chúng sẽ đi ra bằng chính cái cách chúng vào." Bà dựa vào cửa và giọng của bà đầy vẻ đắc thắng.
"Vâng, vâng." Ông Chủ quay trở lại phòng làm việc. "Mang trà. Bạn tốt của tôi."
"Vâng, thưa ông." Ugwu không thể hiểu được tại sao Ông Chủ không mấy bận tâm, tại sao ông ấy không nhận thấy rằng đám ruồi đó chẳng bình thường chút nào. Lúc hắn mang trà vào phòng làm việc, hắn nói, "Thưa ông, mấy con ruồi đó ngầm báo với chúng ta một điều gì đấy."
Ông Chủ chỉ lên bàn. "Đừng rót trà, cứ để đấy."
"Mấy con ruồi trong nhà bếp, thưa ông, đó là điềm của một thứ thuốc có hại của dibia. Có người đã chế ra một loại thuốc nguy hiểm." Ugwu muốn nói thêm rằng hắn biết rất rõ người ấy là ai, nhưng hắn không rõ Ông Chủ sẽ phản ứng như thế nào.
"Cái gì?" Mắt Ông Chủ nheo lại sau cặp kính.
"Mấy con ruồi, thưa ông. Có nghĩa là có người làm thuốc yểm căn nhà này."
"Đóng cửa lại và để tôi làm việc, bạn tốt."
"Vâng, thưa ông."
Khi Ugwu quay trở lại nhà bếp, đám ruồi đã bay đi mất. Cánh cửa sổ vẫn ở nguyên vị trí cũ, hơi hé mở; ánh nắng chiều yếu ớt chiếu sáng lên một lưỡi dao phay trên bàn. Hắn không muốn đụng vào cái gì cả; những chuyện bí hiểm bao trùm xung quanh hắn đã làm dơ bẩn cả bát đĩa xoong chảo. Lần đầu tiên hắn thấy mừng vì đã để cho bà cụ nấu ăn, nhưng hắn không ăn món ugba và cá rán bà nấu cho bữa tối, không nhấm một chút nào món rượu dừa còn dư sau khi đã đãi Ông Chủ và khách, và cũng không ngủ yên đêm đó. Hắn bồn chồn, trằn trọc, nước mắt giàn giụa, ước gì hắn có thể nói chuyện với người nào hiểu chuyện như Jomo, dì của hắn và Anulika. Cuối cùng hắn ngồi dậy, đi vào gian nhà chính để lau bụi bám trên bàn ghế, tìm một việc gì nhẹ nhàng và không cần chú tâm để khỏi phải suy nghĩ vẩn vơ. Ánh ban mai nhờ nhờ đỏ chiếu hắt bóng trong gian bếp. Hắn rón rén bật đèn như sợ gặp phải một cái gì đó. Chẳng hạn như mấy con bọ cạp; có lần một người vì ghen đã thả bọ cạp vào lều của chú hắn, và liên tiếp mấy tuần lễ, cứ mỗi lần thức giấc là chú hắn lại nhìn thấy mấy con bọ cạp đen bò lởn vởn xung quanh hai đứa con sinh đôi mới sinh của ông. Một trong hai đứa bé bị bọ cạp cắn, suýt nữa thì chết.
Ugwu lau giá sách trước. Hắn dọn hết những giấy tờ đặt chính giữa bàn và cúi người quét bụi lúc cửa phòng ngủ của Ông Chủ mở ra. Hắn liếc vào hành lang, ngạc nhiên thấy Ông Chủ thức dậy sớm thế. Nhưng lại là Amala mới vừa bước ra khỏi phòng. Hành lang tối lờ mờ, đôi mắt thẹn thùng của cô gặp đôi mắt của Ugwu là người còn ngượng ngùng hơn. Cô ngập ngừng một lát trước khi vội vã chạy về phòng dành cho khách, áo trễ nải ở vùng ngực. Một tay giữ áo, cô chạy đụng cả vào cửa phòng, đẩy cánh cửa ra làm như là cô đã quên cách mở cửa, trước khi vào phòng. Amala, cái cô Amala cục mịch, tầm thường, lừ lừ chẳng nói chẳng rằng đã ngủ trong phòng ÔngChủ! Ugwu đứng yên như trời trồng, cố gắng để đầu óc đang quay cuồng của mình bình tĩnh lại mà suy nghĩ. Thuốc của bà cụ đã gây ra chuyện này, hắn chắc chắn thế, nhưng nỗi lo lắng của hắn không phải là chuyện xảy ra giữa Ông Chủ và Amala. Hắn chỉ sợ lúc Olanna phát giác ra chuyện này.
--------------------------------
1 Một loại bánh có vỏ cứng, chính giữa là kem có mùi chanh, bên trên là kem đánh bằng lòng trắng trứng gà với đường trắng.