Phần IV: CUỐI THẬP NIÊN SÁU MƯƠI - Chương hai mươi lăm


Số từ: 10715
Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà
NXB Lao Động
Nguồn: vietmessenger
Olanna chồm dậy mỗi khi nghe thấy tiếng sấm. Nàng tưởng đó là một cuộc oanh tạc, máy bay nhả bom và nổ tung trong nhà, trước khi nàng, Odenigbo, Bé By và Ugwu kịp đến hầm trú ẩn ở cuối đường. Đôi khi nàng tưởng tượng cái hầm trú ẩn bỗng tự sập, đè tất cả mọi người nát như bùn. Odenigbo và những đàn ông trong xóm đã xây cái hầm trong vòng một tuần; sau khi họ đào cái hố rộng như một lớp học, rồi che hầm bằng gốc dừa chen giữa những lớp đất sét, chàng bảo nàng, "Bây giờ mình an toàn rồi, nkem. Mình an toàn". Nhưng lần đầu tiên chàng chỉ cách cho nàng leo xuống những bậc thang lởm chởm, Olanna trông thấy một con rắn nằm cuộn tròn trong góc. Màu da đen của nó óng ánh những đốm bạc và đám dế tí tẹo đang nhảy tách tách, sự im lặng dưới lòng đất ẩm ướt làm nàng liên tưởng mình đang ở trong lòng một nấm mồ, nàng hét lên hãi hùng.
Odenigbo dùng một cành cây đập chết con rắn rồi bảo nàng là chàng sẽ cẩn thận đóng nắp hầm kỹ hơn. Sự bình tĩnh của chàng làm nàng ngạc nhiên. Cái giọng nói điềm đạm chàng dùng để đương đầu với cuộc sống mới, với những hoàn cảnh bị thay đổi 180 độ và hoàn toàn xáo trộn, làm nàng sững sờ. Khi người Nigeria ra lệnh đổi tiền, Đài Phát thanh Biafra cũng vội vã loan tin dùng tiền mới, Olanna xếp hàng ở ngân hàng suốt hơn giờ đồng hồ, né tránh đám đàn ông quất người ta bằng roi còn đám đàn bà thì đẩy xô, cho đến khi nàng đổi tiền Nigeria thành tiền Biafra in đẹp hơn. Sau đó, lúc ăn điểm tâm, nàng giơ cao một phong bì đựng giấy tờ cỡ trung bình và nói, "Tất cả tiền mặt của mình đây".
Odenigbo cũng cười. "Cả hai chúng ta đều có thể làm ra tiền, nkem."
"Đây là tháng thứ hai ban Giám đốc chậm lương của anh", nàng nói, cầm gói trà nhỏ đã dùng trên cái đĩa nhỏ của chàng bỏ vào tách của mình. "Và anh không thể gọi cái mà họ trả cho em ở Akwakuma là tiền lương của em."
"Mình sẽ trở lại nếp sống cũ, không lâu đâu, ở quốc gia Biafra tự do", chàng nói, cách trấn an đầy thuyết phục thường thấy và hớp một ngụm trà.
Olanna áp ly trà vào má mình để sưởi ấm, để nấn ná trước khi nhấp ngụm trà loãng pha bằng một gói trà dùng lại. Khi chàng đứng dậy và hôn tạm biệt nàng, nàng tự hỏi không biết tại sao chàng không thấy sợ vì họ có quá ít tiền. Có lẽ vì chàng không phải tự đi chợ. Chàng không để ý là bây giờ giá một chén muối mỗi tuần lại tăng thêm một shilling, còn gà thì người ta chặt ra thành từng miếng nhỏ mà vẫn còn quá đắt và không có ai bán gạo trong những bao to nữa bởi vì không ai có thể mua nổi. Đêm ấy, khi chàng hì hục trên người nàng, thúc mỗi lúc một nhanh, nàng giữ im lặng. Đây là lần đầu tiên nàng cảm thấy xa cách với chàng; khi chàng thầm thì bên tai nàng, nàng còn đang nghĩ tiếc khoản tiền của mình trong ngân hàng ở Lagos.
"Nkem? Em có sao không?" Chàng hỏi, nhổm người lên nhìn nàng.
"Em không sao cả."
Chàng ngậm môi dưới của nàng, mút nhẹ, trước khi lăn qua một bên khỏi người nàng và ngủ khò. Nàng không hề biết từ trước đến nay, tiếng ngáy của chàng lại khò khè đến thế. Chàng mệt mỏi. Con đường đi đến Bộ Nhân lực rất xa, việc ghi chép, sắp xếp tên tuổi, địa chỉ hết sức vô bổ mỗi ngày làm chàng kiệt sức, nàng biết, tuy thế ngày nào chàng cũng về nhà với cặp mắt sáng rực. Chàng đã tham gia vào ban Tuyên truyền; sau giờ làm việc họ vào sâu trong làng để giáo dục người dân. Nàng thường hình dung chàng đứng giữa một nhóm dân làng hoàn toàn bị chàng thu hút, vang rền giọng nói về một nước Biafra cường thịnh trong tương lai. Cặp mắt của chàng hướng tới tương lai. Vì thế nàng không nói với chàng là nàng nuối tiếc quá khứ, những thứ khác ở những tháng ngày khác, bộ khăn trải bàn ăn có thêu bạc của nàng, cái xe hơi, bánh bích quy kẹp kem dâu của Bé By. Nàng không nói với chàng là đôi khi nhìn Bé By chạy xung quanh chơi với trẻ con hàng xóm, rất ngây thơ và vui vẻ, nàng muốn ôm Bé By vào vòng tay mà xin lỗi bé. Cho dù con bé không hiểu tại sao.
Kể từ khi bà Muokelu, dạy hiểu học ở Akwakuma, nói cho nàng biết quân đội đã bắt trẻ con leo lên xe vận tải của quân đội rồi chở đi đến chiều tối mới đưa về, lòng bàn tay chúng phồng rộp và xây xát vì phải nghiền khoai mì, nàng dặn chàng là không bao giờ được lơ đãng khi trông chừng Bé By, cho dù nàng không nghĩ là quân đội có thể dùng sức lực của một đứa bé ở tuổi của Bé By. Nàng lo lắng về chuyện máy bay bỏ bom thì đúng hơn. Nàng thường mơ đi mơ lại một giấc mơ. Nàng chạy vào hầm trú ẩn và bỏ quên Bé By, sau khi bom rơi, nàng vấp phải thi thể của một đứa bé không thể nhận dạng vì đã bị cháy đen, vì thế nàng không biết đó có phải là Bé By hay không. Giấc mơ ám ảnh nàng đến mức nàng bắt Bé By tập chạy về hầm trú ẩn. Nàng buộc Ugwu phải tập bế Bé By chạy, và nàng dạy Bé By cách trốn nếu không có đủ thì giờ để chạy ra hầm tránh bom – nằm sấp xuống, tay vòng qua đầu.
Tuy thế, nàng vẫn lo lắng mình chưa chuẩn bị chu đáo và giấc mơ là một điềm báo về những nguy hiểm xảy đến với Bé By mà sự sơ sảy của nàng có thể gây ra. Gần cuối mùa mưa, Bé By bắt đầu ho hen kéo dài. Olanna thấy nhẹ nhõm. Có cái gì đó đã xảy ra với Bé By. Nếu ông trời công bằng, thì những bất hạnh của chiến tranh sẽ không đến với Bé By; Bé By bị ốm, vậy thì nó sẽ không bị hại bởi bom đạn nữa. Bệnh ho là cái mà Olanna có thể kiểm soát được, còn chuyện bỏ bom thì ngoài khả năng của nàng.
Nàng đưa Bé By đến Bệnh viện Albatross. Ugwu dỡ mấy tấm lá dừa che trên mui xe của Odenigbo, nhưng cứ mỗi lần nàng vặn chìa khóa, cái xe khọt khẹt rồi tắt ngấm. Cuối cùng, Ugwu phải đẩy cho đến khi nó chịu nổ máy. Nàng lái thật chậm và phanh lại mỗi khi Bé By ho. Ở mỗi trạm kiểm soát, chỗ có thân cây to nằm ngang đường, nàng nói với lính tự vệ là con của nàng bị ốm rất nặng. Họ nói tội nghiệp và không xét xe hay túi xách của nàng. Ánh sáng trong bệnh viện mù mờ, nồng nặc mùi khai ngấy của nước tiểu và mùi thuốc kháng sinh penicillin. Nhiều phụ nữ ôm con trong lòng ngồi chờ, hoặc đứng cặp đứa nhỏ bên hông, tiếng trò chuyện hòa lẫn tiếng khóc. Olanna vẫn còn nhớ bác sĩ Nwala hôm đám cưới. Nàng chẳng để ý đến anh mãi cho tới khi sau trận bom, anh nói, "Bùn sẽ làm lâm bẩn áo của cô", và giúp nàng đứng dậy, áo của Okeoma vẫn khoác trên người.
Nàng nói với mấy cô y tá nàng là đồng nghiệp cũ của anh.
"Rất khẩn cấp", nàng nói, giữ cho giọng Anh của mình thật chỉnh và đầu ngẩng cao. Một y tá đưa nàng vào văn phòng của anh ngay lập tức. Một trong những người đàn bà đang ngồi chờ chửi bới um sùm. "Tufiakwa! Chúng tôi chờ ở đây suốt từ lúc hừng đông! Có phải vì chúng tôi không biết nói qua lỗ mũi giống như mấy người da trắng?"
Bác sĩ Nwala nhấc cái thân hình mảnh khảnh như cây sậy của anh khỏi ghế ngồi và đi vòng ra ngoài bắt tay nàng. "Olanna", anh nói, nhìn vào mắt nàng.
"Xin chào, anh có khỏe không, bác sĩ?"
"Chúng tôi xoay xở được", anh nói, vỗ vai Bé By. "Cô có khỏe không?"
"Khỏe ạ. Tuần trước Okeoma đến thăm chúng tôi."
"Vâng, anh ấy ở với chúng tôi một ngày." Anh ta sững nhìn nàng, nhưng nàng có cảm tưởng như là anh ta không lắng nghe, như là anh ta không thật sự có mặt ở đây. Trông anh ta chẳng khác gì người mất hồn.
"Bé By ho khá lâu", Olanna nói to.
"Ồ." Anh quay về hướng Bé By, đặt ốngnghe lên ngực con bé và nói nhỏ ndo khi nghe nó ho. Khi anh đi đến tủ thuốc tìm kiếm trong đống chai lọ và gói thuốc, Olanna cảm thấy tội nghiệp cho anh mà cũng không biết tại sao. Anh có vẻ lục lọi tìm kiếm quá lâu trong một số đồ vật ít ỏi như thế.
"Tôi sẽ cho cô xirô ho, cô bé cần thuốc kháng sinh, nhưng tôi không còn thuốc", anh nói, và lại nhìn nàng trân trối, cái nhìn kỳ lạ, ánh mắt anh như bị hút vào trong mắt nàng, vẻ mặt anh đầy vẻ buồn bã, mệt mỏi. Olanna tự hỏi, không biết có phải anh vừa mới mất đi một người thân.
"Tôi sẽ kê đơn thuốc và cô có thể tìm một người bán thuốc, nhưng đó phải là người đáng tin cậy, dĩ nhiên thế."
"Dĩ nhiên", Olanna lặp lại. "Tôi có người bạn, bà Muokelu, có thể giúp."
"Tốt lắm."
"Mời anh đến chơi với chúng tôi khi anh có thời gian", Olanna đứng lên, nói.
"Vâng." Anh bắt tay nàng và giữ lại hơi lâu.
"Cảm ơn, bác sĩ."
"Cảm ơn gì chứ? Tôi không thể làm khác hơn." Anh ra hiệu chỉ về hướng cửa và Olanna hiểu anh muốn nói đến những người đàn bà đang chờ bên ngoài. Lúc bước ra về, nàng ngoái nhìn cái tủ thuốc gần như trống không.
Olanna chạy qua bãi đất trống của làng trên đường đi đến trường tiểu học Akwakuma vào buổi sáng. Nàng luôn làm thế khi nàng đi qua chỗ trống, chạy cho tới khi nàng đến chỗ có cây cối rậm rạp để có thể ấn nấp nếu bị bỏ bom. Có một vài đứa trẻ đang đứng dưới cây xoài trong sân trường, lấy đá ném lên cây. Nàng nói to, "Đi vào trong lớp, osiso", và bọn chúng chỉ tản mát một lát rồi tiếp tục trở lại tấn công cái cây. Nàng nghe tiếng reo vui mừng khi một quả rơi, và rồi tiếng chúng cãi nhau inh ỏi xem ai đã ném trúng làm quả xoài rụng xuống.
Bà Muokelu đang đứng ở cửa lớp, bực bội với cái chuông. Lông đen phủ đầy trên cánh tay và chân của bà, một ít lông sẫm màu ở môi trên, một ít sợi loắn xoắn trên cằm; tay chân đầy cơ bắp của bà làm Olanna tự nhủ có lẽ sẽ tốt hơn nếu bà Muokelu là đàn ông.
"Chị biết tôi có thể mua thuốc kháng sinh ở đâu không?" Olanna hỏi sau khi ôm chào bà. "Bé By bị ho và bệnh viện không có thuốc."
Bà Muokelu ầm ừ trong cổ một hồi để chứng tỏ bà đang suy nghĩ. Bộ mặt của vị Lãnh Tụ nhìn chòng chọc từ cái áo thụng mà ngày nào bà cũng mặc, bà thường tuyên bố là sẽ không mặc cái gì khác cho đến khi nước Biafra chính thức được thành lập.
"Ai cũng có thể bán thuốc nhưng cô không biết có kẻ trộn phân ở sân sau nhà mình và gọi cái đó là thuốc Nivaquine", bà nói. "Đưa tiền cho tôi và tôi sẽ đi đến nhà bà Onitsha. Bà này bán thuốc thật. Bà ta có thể bán cả cái quần bẩn của Gowon nếu mình trả đúng giá."
"Để bà ta giữ cái quần và chỉ đưa cho chúng ta thuốc thôi." Olanna cười rộ.
Bà Muokelu cười và nhặt cái chuông lên. "Hôm qua tôi mơ." Cái áo thụng quá dài cho một người thấp lùn như bà; nó kéo lòng thòng trên mặt đất và Olanna sợ bà sẽ vấp ngã.
"Giấc mơ như thế nào?" Olanna hỏi. Bà Muokelu rất hay mơ. Lần trước, bà thấy Ojukwu đích thân dẫn đầu cuộc tấn công ở vùng Ogoja, điều này có nghĩalà kẻ thù sẽ bị quét sạch ra khỏi vùng đó.
"Những chiến binh truyền thống ở Abiriba dùng cung tên phá tan đám giặc ở Calabar. I makwa, trẻ con dẫm lên xương của giặc để đi đến suối."
"Thật thế à", Olanna nói, nét mặt nghiêm trang.
"Điều đó có nghĩa là Calabar sẽ không bao giờ thất bại", bà Muokelu nói, bắt đầu rung chuông. Olanna nhìn cử động nhanh nhẹn của cánh tay giống đàn ông của bà. Giữa họ chẳng có gì tương đồng cả, nàng và bà giáo dạy tiểu học có trình độ học vấn sơ đẳng ở Eziowelle người còn mê tín đến độ tin cả vào những giấc mơ. Tuy thế bà Muokelu luôn có một vẻ gì đó rất thân thuộc. Không phải vì bà cũng tết tóc và cùng đi với nàng đến dự những buổi họp của Hội Phụ nữ Tình nguyện, dạy cho nàng cách để dành rau cải, mà bởi vì ở bà toát ra một vẻ gì không sợ hãi, một vẻ bất cần làm cho nàng nghĩ đến Kainene.
Đêm ấy khi bà Muokelu mang những viên thuốc kháng sinh gói trong giấy báo đến, Olanna mời bà vào và cho bà xem ảnh của Kainene ngồi bên cạnh hồ bơi với điếu thuốc trên môi.
"Đây là người chị song sinh của tôi. Chị ấy ở Port Harcourt."
"Chị em sinh đôi!" Bà Muokelu kêu lên, ngón tay bà rà theo hình nửa mặt trời vàng bằng nhựa được đeo bằng một sợi dây trên cổ. "Những điều làm người ta kinh ngạc không bao giờ chấm dứt. Tôi không hề biết cô có người chị sinh đôi và nekene, cô ấy trông chẳng giống cô chút nào."
"Chúng tôi có cái miệng giống nhau", Olanna nói.
Bà Muokelu liếc nhìn tấm ảnh lần nữa rồi lắc đầu. "Cô ấy không giống cô chút nào cả", bà ta lặp lại.
Thuốc kháng sinh làm tròng mắt của Bé By trở nên vàng. Con bé bớt ho, tiếng ho đỡ nặng và ít cố tiếng rít trong phổi hơn nhưng nó lại biếng ăn. Con bé đẩy món garri vòng quanh đĩa và không đụng đến món cháo cho tới khi nó đặc lại thành từng viên dẻo như nhựa. Olanna tiêu gần hết số tiền trong phong bì vào việc mua bánh bích quy và kẹo dừa gói trong những tờ giấy bóng loáng từ một người đàn bà buôn lậu bên kia vùng biên giới nhưng Bé By chỉ nhấm nháp chút xíu. Nàng đặt Bé By trong lòng mình rồi đút cho nó từng miếng khoai lang nghiền bắt nó phải ăn. Và khi nó sặc rồi khóc toáng lên, Olanna cũng cố gắng ngăn nước mắt của mình. Điều nàng sợ nhất là Bé By sẽ chết. Nỗi sợ ngấm ngầm nhưng cứ lớn dần lớn dần, ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, hành động của nàng. Odenigbo bỏ buổi họp ở ban Tuyên truyền và vội vàng về nhà sớm hơn; Olanna biết là chàng cũng lo sợ như nàng. Nhưng họ không nói với nhau về nỗi lo sợ này, làm như nói lên thành lời sẽ làm cái chết của Bé By thêm phần rõ rệt, cho đến một buổi sáng nàng nhìn Bé By ngủ trong khi Odenigbo thay quần áo đi làm. Giọng nói trên Đài Phát thanh Biafra vang dội khắp phòng.
Những tiểu bang Phi châu này đã trở thành nạn nhân đáng thương của đế quốc Anh – Mỹ đang âm mưu sử dụng các đề xuất của Hội đồng như là cái cớ cho viện trợ vũ khí khổng lồ cho chính quyền bù nhìn và chế độ thực dân mới thối nát của họ ở Nigeria…
"Đúng thế!" Odenigbo nói, nhanh chóng cài cúc áo.
Trên giường, Bé By cựa quậy. Khuôn mặt của nó đã mất đi nét bụ bẫm và trở nên giống người lớn một cách kỳ lạ, má tóp lại, nước da tái xanh. Olanna nhìn con bé.
"Bé By chắc không chịu nổi mất", nàng nói thật nhỏ.
Odenigbo dừng lại nhìn nàng. Chàng tắt radio, đến gần, ôm đầu nàng áp vào lòng chàng. Bởi lúc đầu chàng không nói gì nên sự im lặng của chàng biến thành sự xác nhận rằng Bé By sẽ chết. Olanna nhích người thoát khỏi vòng tay của chàng.
"Trẻ con biếng ăn là chuyện khá bình thường." Chàng nói, sau một hồi im lặng. Nhưng giọng chàng thiếu vẻ chắc chắn mà nàng thường hay nhận thấy.
"Nhìn xem, con bé đã sụt cân nhiều biết bao nhiêu!" Olanna nói.
"Nkem, con bé đã bớt ho và nó sẽ ăn ngon miệng trở lại." Chàng bắt đầu chải tóc. Nàng cảm thấy giận vì chàng đã không nói những lời nàng muốn được nghe, vì chàng đã không có cái quyền lực điều khiển được số phận để có thể nói cho nàng biết rằng Bé By khỏe mạnh; chàng vẫn thản nhiên thay đồ đi làm. Nụ hôn của chàng trước khi đi ngắn ngủi, không còn nồng nàn không dứt trên môi nàng, cũng làm nàng giận trách chàng. Nước mắt lưng tròng. Nàng nghĩ đến Amala. Amala đã không liên lạc với họ kể từ ngày ở bệnh viện nhưng nàng tự hỏi bây giờ nếu như Bé By qua đời, nàng có phải là người báo tin cho Amala không.
Bé By thức dậy ngáp. "Chào mẹ Ola." Giọng nó yếu ớt.
"Cục cưng, ezigbo nwa, con thấy thế nào?" Olanna bế nó lên ôm vào lòng, phà hơi vào cổ nó và cố gắng cầm nước mắt. Bé By nhẹ quá, rất nhẹ. "Con có ăn cháo không, cục cưng của mẹ? Hay là bánh mì? Con muốn ăn gì?"
Bé By lắc đầu. Olanna đang cố gắng dỗ dành con bé uống một ít bột ca cao Ovaltine thì bà Muokelu đến với một cái túi raffia có nút thắt và một nụ cười mãn nguyện.
"Người ta vừa mở một trung tâm tiếp tế trên đường Bishop và sáng hôm nay tôi đã đến đó", bà nói. "Bảo Ugwu đem một cái bát ra đây."
Bà đổ vào cái bát Ugwu mang ra một ít bột vàng.
"Cái gì thế?" Olanna hỏi.
"Bột trứng." Bà Muokelu quay sang Ugwu. "Rán cho Bé By ăn."
"Rán?"
"Cô có nghễnh ngãng không đấy? Pha nước vào và đem rán, osiso! Người ta nói trẻ con thích ăn món này lắm."
Ugwu tặng cho bà ta một cái nguýt dài trước khi hắn đi vào nhà bếp. Bột trứng khô rán bằng dầu dừa màu đỏ, ươn ướt và có màu nhờn nhợt trong đĩa. Bé By ăn một mạch hết sạch.
Trung tâm tiếp tế trước đây là một trường nữ sinh cấp hai. Olanna hình dung trước chiến tranh đây là một khu nhà cỏ mọc um tùm có tường bao quanh, đám con gái chạy vội vào lớp học buổi sáng và trốn qua cổng vào buổi chiều để hẹn hò với đám thanh niên từ trường đại học của chính phủ ở cuối đường. Lúc này trời vừa rạng sáng và cổng bị khóa. Đám đông đang chờ bên ngoài. Olanna ngơ ngác đứng giữa những người đàn ông, đàn bà và trẻ em, tất cả mọi người đều có vẻ rất quen với chuyện đứng đằng sau một cái cổng gỉ sét chờ cửa mở ra để họ có thể vào bên trong và nhận thực phẩm cứu trợ của người nước ngoài. Nàng thấy lạc lõng. Nàng có cảm tưởng như mình đã làm một điều gì sai trái, tồi tệ; chờ được nhận thức ăn mà không có gì để trao đổi. Bên trong dãy nhà, nàng có thể nhìn thấy người ta di chuyển, sắp xếp bàn với những túi thức ăn, và một cái bảng to có ghi hàng chữ HỘI ĐỒNG NHÀ THỜ THẾ GIỚI. Một số phụ nữ cắp chặt giỏ của họ và nhìn vào phía trong cổng, lẩm bẩm rằng người của hội tiếp tế lãng phí thì giờ quá. Đám đàn ông đang nói chuyện với nhau. Một người có vẻ già nhất đội một cái mũ tù trưởng màu đỏ có gắn lông chim. Một thanh niên nói to át cả tiếng của người khác, lúc trầm lúc bổng líu lô giống như một đứa trẻ đang tập nói.
"Ông ta bị sức ép đạn pháo rất nghiêm trọng", bà Muokelu nói thì thầm làm như Olanna không biết. Đó là lần duy nhất bà ta nói. Bà chen dần đến gần cổng, ra hiệu cho Olanna theo bà mỗi lần bà lấn lên được một chút. Có một người nào đó phía sau họ bắt đầu kể một chiến thắng của Biafra. "Tôi kể quý vị nghe nhé, tất cả lính Hausa quay đầu tháo chạy, chúng thấy rằng đối phương mạnh hơn chúng…". Tiếng nói thưa dần khi một người đàn ông từ trong nhà bước ra. Cái áo thun ngắn tay với dòng chữ XỨ SỞ MẶT TRỜI MỌC in trên nền đen rộng thùng thình xung quanh thân hình mảnh dẻ của ông ta và ông ta cầm một xấp giấy. Ông ta đi với một vẻ nghiêm trang, ngực ưỡn ra. Ông ta là sếp.
"Trật tự! Trật tự!" Ông ta nói, mở cổng.
Một dòng người chen lấn xô đẩy nhau làm Olanna ngạc nhiên. Nàng cảm thấy bị xô mạnh; nàng ngã nghiêng. Dường như tất cả mọi người đều đẩy nàng sang một bên bằng một cách có tính toán bởi vì nàng không phải là một người trong bọn của họ. Cái cùi chỏ rắn câng của ông già bên cạnh xỉa thẳng vào hông nàng đau nhói lúc ông ta chạy vọt vào trong sân. Bà Muokelu đang ở phía trước, chạy nhanh về một trong những cái bàn. Bị ngã, ông già đội cái mũ có gắn lông chim vội vã đứng dậy và tiếp tục chạy khập khễnh theo hàng. Olanna cũng ngạc nhiên khi thấy những người mặc quân phục rút roi dài ra quất lấy quất để và la hét, "Trật tự! Trật tự!", những người đàn bà ngồi ở bàn mang vẻ mặt nghiêm trang khắc khổ, những người cúi xuống xúc thực phẩm vào trong túi rồi giơ cao lên, "Người tiếp theo!".
"Xếp vào hàng đó!" Bà Muokelu nói, khi Olanna theo, sau bà. "Bên kia phát bột trứng. Sang hàng đó. Đây là hàng cá khô."
Olanna sang xếp hàng và cố không để bị đẩy ra đằng sau bởi một người đàn bà giành chỗ với nàng. Nàng để bà ta đứng trước. Sự hỗn loạn khi xếp hàng xin thức ăn làm nàng cảm thấy khó chịu, ô nhục. Nàng khoanh tay, thả hai tay xuôi theo người rồi lại khoanh tay. Nàng đứng ở gần đầu hàng, thấy bột xúc vào túi và bát không phải vàng mà là màu trắng. Không phải bột trứng mà là bột bắp. Hàng bột trứng là hàng bên cạnh. Olanna vội vã chạy sang hàng bênnhưng người đàn bà phân phát bột trứng đứng dậy, nói, "Bột trứng hết rồi! Ogwula!".
Nỗi sợ hãi dâng lên trong ngực Olanna. Nàng chạy theo người đàn bà ấy. "Làm ơn", nàng nói.
"Chuyện gì thế?", người đàn bà hỏi. Ông sếp đứng cạnh đó quay nhìn Olanna chòng chọc.
"Con tôi bị ốm…", Olanna nói.
Người đàn bà ngắt lời nàng. "Sang hàng bên kia xin sữa."
"Không, không, nó không ăn gì hết, nó chỉ ăn bột trứng thôi." Olanna nắm tay người đàn bà. "Biko, làm ơn, tôi rất cần bột trứng."
Người đàn bà vùng tay ra khỏi Olanna và vội vàng bước vào bên trong tòa nhà, đỏng sập cửa lại. Olanna đứng đó. Ông sếp vẫn còn nhìn Olanna chằm chặp, tiếp tục quạt mát cho mình bằng một xấp giấy và nói,"Ê hê! Tôi biết cô".
Cái đầu hói và bộ mặt đầy râu của ông không có vẻ gì quen thuộc cả. Olanna quay người bước đi bởi vì nàng biết chắc ông ta chỉ là một trong những người luôn tuyên bố biết nàng trước khi có cơ hội tán tỉnh, ve vãn nàng.
"Tôi đã từng gặp cô", ông ta nói. Ông ta tiến đến gần hơn, bây giờ mỉm cười nhưng không có vẻ ve vãn như nàng dự đoán mà trông rất chân thành, hớn hở. "Mấy năm trước ở sân bay Enugu, khi chúng tôi đi đón em tôi du học ở nước ngoài về, cô đã nói chuyện với mẹ tôi. I kasiri ya obi. Cô giúp bà cụ yên tâm khi máy bay đáp xuống mà không dừng ngay lập tức."
Sự kiện ở sân bay hôm ấy lờ mờ hiện ra trong trí nhớ của Olanna. Chắc cũng phải đến bảy năm rồi. Nàng nhớ giọng nói nhà quê đặc sệt và cái vui mừng đầy âu lo của ông ta; lúc ấyông có vẻ già hơn bây giờ.
"Thì ra là ông." Nàng nói. "Nhưng làm sao ông nhận ra tôi?"
"Ai mà có thể quên một gương mặt như cô chứ? Mẹ tôi vẫn kể về một cô gái rất đẹp nắm tay bà. Tất cả mọi người trong gia đình đều biết. Hễ có người nhắc lại chuyện em tôi trở về, bà lại kể."
"Thế còn em ông thì sao?"
Hãnh diện làm mặt ông sáng rỡ. "Em tôi là người có chức vụ trong Bộ. Chính nó đã lo cho tôi công việc cứu trợ này."
Ngay lập tức Olanna tự hỏi không biết ông ta có thể giúp mình một ít bột trứng. Nhưng câu hỏi của nàng lại là, "Thế mẹ ông có khỏe không?"
"Rất khỏe. Bà ở Orlu, nhà của em trai tôi. Lúc đầu bà rất yếu khi chị tôi ở Zaria không về; chúng tôi đều nghĩ là bọn thú vật đã làm đúng như những gì chúng từng làm với người khác, nhưng chị tôi trở về – chị ấy được một người bạn Hausa giúp – vì thế mẹ tôi khỏe trở lại. Bà sẽ vui nếu được biết tôi gặp lại cô."
Ông ta ngừng một chút để liếc nhìn một trong những bàn thực phẩm nơi hai cô gái trẻ đang cãi nhau. Một người nói, "Tôi nói cho cô biết, miếng cá khô này là của tôi". Cô kia cãi, "Ngwanu, hôm nay cả hai chúng ta sẽ chết thôi."
Ông quay trở lại phía nàng. "Để tôi đi xem đằng kia có chuyện gì. Nhưng chờ tôi ở cổng. Tôi sẽ cho người biếu cô một ít bột trứng."
"Cảm ơn." Olanna nhẹ cả người khi ông ta hứa cho bột trứng và thấy xấu hổ bởi sự đổi chác này. Ở cổng, nàng thấy khó chịu bởi vì nàng có cảm tưởng như mình là một tên trộm.
"Okoromadu bảo tôi đến đây gặp chị", một cô gái trẻ nói sát bên nàng và Olanna gần như giật mình. Cô nhét một cái bọc vào tay nàng và quay trở lại gian nhà. "Cảm ơn ông ấy giùm tôi", Olanna nói với theo. Dù có nghe được, cô ấy cũng chẳng quay lại. Cái túi nằng nặng an ủi nàng khi nàng đứng chờ bà Muokelu. Sau đó lúc nàng nhìn Bé By ăn cho đến khi chỉ còn vết dầu dừa dính trên đĩa, nàng tựhỏi làm sao Bé By có thể ăn được cái món bột trứng vị như cao su dở òm thế này.
Lần sau khi Olanna đến trung tâm tiếp tế Okoromadu đang nói chuyện với đám đông. Có mấy người đàn bà kẹp chăn chiếu dưới nách của họ; họ đã ngủ trước cổng suốt đêm qua.
"Chúng tôi chẳng có gì cho các bà. Xe chở thức ăn tiếp tế hôm nay cho chúng ta từ Awomama bị chặn cướp dọc đường", ông nói, bằng cái giọng thăm dò của một chính trị gia đang hướng đến những người ủng hộ. Olanna nhìn ông ta. Ông ta có vẻ thích công việc này, cái quyền lực cùng với việc biết rằng có một nhóm người sẽ có cái để mà ăn hay không. "Chúng tôi có quân đội bảo vệ, nhưng chính binh sĩ đã cướp lương thực của mình. Họ chặn đường và cướp hết tất cả những gì trên xe vận tải; họ còn đánh cả tài xế. Trở lại đây vào thứ Hai, và có thể chúng tôi sẽ mở cửa."
Một người đàn bà bước nhanh đến trước mặt ông và đẩy một đứa bé trai vào vòng tay ông. "Thế thì ông giữ nó đi! Nuôi nó cho đến khi ông lại mở cửa!" Cô ta chuẩn bị bỏ đi. Đứa bé gầy gò, vàng vọt và kêu khóc thảm thiết.
"Bia nwanyi, trở lại đây bà kia!" Okoromadu lóng ngóng bế đứa bé, chìa nó ra.
Mấy người đàn bà khác bắt đầu la mắng người mẹ. – Cô định ném con đi hả? Ujo anaghi atu gi? Cô không coi Chúa ra gì nữa à? – nhưng chính bà Muokelu đã đến đón đứa bé từ tay Okoromadu và đặt vào tay người mẹ.
"Cô phải nhận lại con của cô", bà nói. "Không phải vì ông ấy mà hôm nay chúng ta không có thức ăn."
Đám đông giải tán. Olanna và bà Muokelu bước đi chầm chậm.
"Ai biết chuyện lính cướp xe lương thực có thật hay không?", bà Muokelu nói. "Ai mà biết họ giữ lại bao nhiêu thức ăn để đem bán ở chợ đen? Ở đây không có muối bởi vì họ giữ hết lại để bán."
Olanna đang nghĩ đến cái cách bà Muokelu đã mang đứa bé trả lại cho người mẹ. "Bà làm tôi nhớ đến chị tôi", nàng nói.
"Như thế nào?"
"Chị ấy rất cứng cỏi. Không biết sợ gì cả."
"Cô ta là người hút thuốc trong tấm ảnh cô cho tôi xem. Như là một cô điếm tầm thường vậy."
Olanna dừng lại, trừng trừng nhìn bà Muokelu.
"Tôi không nói cô ấy là điếm", bà Muokelu vội nói. "Tôi chỉ nói là cô ấy không nên hút thuốc, nó làm người ta có ấn tượng xấu về cô ấy bởi vì chỉ có điếm mới hút thuốc."
Olanna nhìn bà và thấy một vẻ độc ác từ bộ ria và cánh tay đầy lông lá của bà. Nàng đi nhanh hơn, im lặng vượt lên trước bà Muokelu. Nàng cũng chẳng nói tạm biệt trước khi vào nhà. Bé By đang ngồi chơi bên ngoài với Ugwu.
"MẹOla!"
Olanna ôm con bé, vuốt tóc nó. Bé By nắm tay, ngước nhìn nàng. "Mẹ có mang bột trứng về không, mẹ Ola?"
"Không, cục cưng của mẹ. Nhưng lần sau mẹ sẽ mang về", nàng nói.
"Chào cô. Cô không mang gì về à?" Ugwu hỏi.
"Em không thấy là giỏ trống trơn à?" Olanna gắt. "Em có mù không đấy?"
Sáng thứ Hai nàng ra trung tâm tiếp tế. Bà Muokelu đã không đến gọi nàng trước hừng đông mà cũng không có mặt ở đám đông. Cổng khóa, gian nhà trống không và nàng đi vòng vòng khoảng một giờ đồng hồ trước khi đám đông giải tán. Thứ Ba, cửa vẫn khóa. Thứ Tư, cổng có một cái khóa mới. Mãi đến thứ Bảy cái cổng mới mở ra.
Chính Olanna cũng ngạc nhiên khi thấy mình dễ dàng nhập vào đám đông chạy quáng quàng nhanh chóng chuyển từ hàng này sang hàng khác, nhảy qua mấy cái lon đong đưa mà mấy gã lính canh treo, rồi xô trở lại khi có người xô nàng. Khi Okoromadu đến nàng rời hàng với một túi nhỏ bột bắp, bột trứng và hai miếng cá khô.
Ông ta vẫy tay gọi nàng, "Người đẹp. Nwanyi oma!". Ông ta vẫn không biết tên nàng. Ông ta đến gần và nhét một hộp thịt bò vào giỏ của nàng rồi vội vã bỏ đi như là không có chuyện gì. Olanna nhìn xuống cái hộp dài màu đỏ và suýt bật cười thành tiếng vì một niềm vui bất ngờ. Nàng lấy nó ra, ngắm nghía, rà tay lên mặt kim loại mát rượi và ngẩng lên khi thấy người lính bộ dạng chán nản đang nhìn nàng. Cái nhìn một cách rất sàm sỡ và thô lỗ. Nàng đặt hộp thịt bò vào trong giỏ và che đi. Nàng mừng là bà Muokelu không đi với nàng nên nàng không phải chia sẻ với bà. Nàng sẽ bảo Ugwu nấu món thịt hầm. Nàng sẽ để dành một ít làm bánh mì rồi nàng sẽ cùng Odenigbo và Bé By uống trà kiểu Anh với bánh mì kẹp thịt bò.
Gã lính có vẻ bệnh hoạn đi theo nàng ra khỏi cổng. Nàng rảo bước nhanh trên con đường bụi bặm dẫn ra đường chính, nhưng năm gã vận đồ lính tả tơi nhanh chóng bao vây nàng. Chúng nói luyên thuyên và ra hiệu chỉ vào giỏ của nàng, giọng kích động, Olanna nghe được vài chữ như: "Cô!", "Chị!", "Mang đi!", "Cái đói giết chết tất cả chúng ta!".
Olanna giữ chặt cái giỏ, chỉ muốn òa khóc như trẻ con. "Đi chỗ khác! Đi, đi chỗ khác!"
Chúng đứng im một lúc, có vẻ ngạc nhiên trước cơn giận dữ của nàng. Nhưng rồi chúng sáp lại gần hơn, cả bọn, cứ như có tiếng nói nào bên trong chỉ đạo chúng vậy. Chúng đang bao vây nàng và chúng có thể làm bất cứ chuyện gì. Trông chúng có vẻ tuyệt vọng đến độ luật pháp không có nghĩa lý gì với chúng. Nói cách khác, đầu óc chúng đã bị hủy hoại bởi những tiếng nổ của đạn pháo. Nỗi sợ hãi của Olanna đến cùng với một cơn thịnh nộ bùng lên dữ dội và làm tăng thêm phần can đảm của nàng, nàng tưởng như mình có thể chống trả, bóp cổ, giết chết chúng được. Hộp thịt bò là của nàng. Của nàng. Nàng lùi lại vài bước. Trong chớp mắt, quá nhanh đến mức nàng chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra, tên đội mũ bê rê màu xanh giật cái giỏ của nàng, chộp lấy hộp thịt bò và bỏ chạy. Mấy tên kia chạy theo. Tên cuối cùng há hốc mồm đứng nhìn nàng, trước khi cũng quay người bỏ chạy, nhưng ngược hướng với bọn kia. Cái giỏ của nàng rơi lăn lóc trên mặt đất. Olanna đứng chết trân và lặng lẽ khóc. Hộp thịt bò chưa bao giờ thuộc về nàng. Rồi nàng nhặt cái giỏ lên, phủi bụi dính vào túi bột bắp và đi bộ về nhà.
Một thời gian khá lâu, phải đến gần hai tuần lễ, Olanna và bà Muokelu tránh gặp mặt nhau ở trường. Một buổi chiều Olanna về nhà, ngạc nhiên thấy bà Muokelu ngồi bên ngoài với cái chậu kim loại đầy tro xám.
Bà Muokelu đứng dậy. "Tôi đến để dạy cô cách làm xà phòng. Cô có biết bây giờ họ bán xà phòng loại thường với giá bao nhiêu không?"
Olanna nhìn cái áo thụng đã mòn sợi vải có in hình Lãnh Tụ tươi cười rạng rỡ của bà chợt hiểu bài học mà nàng không nói ra chỉ là cách bà ấy xin lỗi. Nàng đỡ lấy chậu tro, dẫn đường ra sân sau và sau khi bà Muokelu giải thích, hướng dẫn cách làm xà phòng, nàng để chậu tro bên cạnh đống xi măng.
Sau đó, Odenigbo lắc đầu khi nàng kể cho chàng nghe. Họ ngồi trên cái ghế gỗ đặt dựa vào vách tường dưới mái hiên bằng rơm.
"Bà ấy không cần phải dạy em làm xà phòng. Anh chưa bao giờ thấy em làm xà phòng cả."
"Anh nghĩ là em không làm được?"
"Bà ấy chỉ cần nói xin lỗi, đơn giản thế thôi."
"Em nghĩ là em đã phản ứng hơi quá về vụ Kainene." Olanna chuyển chủ đề. "Chẳng biết Kainene có nhận được thư của em không?"
Odenigbo im lặng. Chàng nắm tay nàng và nàng cảm thấy mừng là có những chuyện không cần phải giải thích với chàng.
"Bà Muokelu có bao nhiêu lông trên ngực?", chàng hỏi. "Em có biết không?"
Olanna không biết ai cười trước nhưng bất thình lình cả hai cùng cười ngất, suýt nữa té nhào khỏi ghế. Rồi những chuyện khác cũng trở nên khôi hài một cách phi lý. Odenigbo nói bầu trời hoàn toàn trong trẻo không một gợn mây và Olanna nói thời tiết này rất lý tưởng cho máy bay bỏ bom, rồi hai người bật cười. Một thằng bé đi qua mặc một cái quần thủng có mấy lỗ thật to để lộ cái mông đít với làn da khô khốc chào họ, họ chưa kịp chào lại chú bé thì đã bật thêm một tràng cười nữa. Tiếng cười chưa kịp tắt và tay họ vẫn còn đang níu chặt thành ghế thì Julius bước vào. Cái áo thụng của ông vẫn còn đính cườm lóng lánh.
"Tôi mang đến loại rượu dừa ngon nhất ở Umahia đây. Bảo Ugwu mang vài cái ly ra đây", ông nói và đặt một cái can nhựa xuống. Trông ông rất lạc quan và có lẽ bởi bộ y phục diêm dúa của ông, sự lạc quan ấy rất dễ lây lan sang mọi người làm người ta tưởng là không có vấn đề gì ông không khắc phục được. Sau khi Ugwu mang ly ra, Julius nói, "Anh có nghe tin Harold Wilson đang ở Lagos không? Hắn ta đem quân đội Anh đến tiêu diệt chúng ta. Người ta nói hắn đem theo hai sư đoàn."
"Ngồi xuống đây, ông bạn, và đừng nói nhảm nữa." Odenigbo nói.
Julius cười ha hả và húp rượu soàn soạt. "Tôi nói nhảm, okwa ya? Cái radio đâu rồi? Lagos có thể không nói cho cả thế giới biết Thủ tướng của nước Anh đã đến để giúp bọn chúng giết hại chúng ta nhưng tụi điên ở Kaduna sẽ nói."
Bé By đi ra. "Cháu chào bác Julius."
"Bé By! Bé By. Cháu còn ho không? Cháu đỡ chưa?" Ông nhúng ngón tay vào ly rượu dừa và đút vào mồm con bé. "Cái này sẽ giúp cháu bớt ho đấy."
Bé By thích chí liếm môi.
Julius xua xua tay. "Đừng có coi thường sức mạnh của rượu."
"Đến đây ngồi với mẹ, Bé By." Olanna nói. Cái áo của Bé By đã bắt đầu sờn vì mặc thường xuyên. Olanna đặt con bé ngồi vào lòng mình và ôm thật chặt. Ít ra là con bé cũng không còn ho và đã chịu ăn chút đỉnh.
Odenigbo nhặt cái radio dưới ghế lên. Có tiếng rít chói tai như xé toang cả bầu không khí, ban đầu Olanna tưởng là tiếng radio nhưng nàng chợt nhận ra đó là tiếng báo động máy bay bỏ bom. Nàng ngồi chết cứng. Có người nào ở nhà bên hét to, "Máy bay địch!", cùng lúc ấy Julius cũng hét, "Tìm chỗ trú!", và nhảy qua hàng hiên làm đổ thùng rượu dừa. Hàng xóm chạy tán loạn, kêu thét những gì Olanna không thể nghe nổi bởi vì tiếng còi rít cứ âm vang trong đầu nàng. Nàng trượt chân vì rượu và ngã khuỵu gối xuống đất. Odenigbo đỡ nàng dậy trước khi chàng nhấc Bé By lên chạy. Máy bay bắn xối xả – đạn rớt xuống như mưa khi Odenigbo đang nâng tấm nắp hầm trong lúc mọi người bò xuống. Odenigbo chui xuống sau cùng. Ugwu đang nắm chặt cái muỗng dính đầy xúp. Olanna đập mấy con dế; thân thể chúng ươn ướt, nhơn nhớt trên mấy ngón tay nàng và ngay cả khi chúng không còn bò trên người nàng, nàng vẫn đập chan chát vào tay và chân. Tiếng nổ có vẻ xa dần. Rồi các tiếng nổ tiếp theo gần hơn, to hơn, mặt đất rung chuyển. Có nhiều tiếng la hét xung quanh nàng. "Giê su ma! Lạy Chúa tôi!" Bàng quang của nàng đau tức, trương nhức cứ như sắp vỡ, không chỉ chảy tràn ra nước tiểu mà còn có cả những lời cầu nguyện sai bét nàng đang lẩm nhẩm. Có một người đàn bà ngồi co quắp bên cạnh nàng, tay ôm một đứa trẻ còn nhỏ hơn Bé By. Hầm trú ẩn tối lờ mờ nhưngOlanna có thể thấy những vết màu trắng của bệnh vẩy nến đầy trên người đứa bé. Thêm một tiếng nổ rung chuyển cả mặt đất. Lúc mọi người trèo ra khỏi hầm trú ẩn không gian im phăng phắc, họ có thể nghe tiếng quang quác của mấy con chim mãi tít đằng xa. Mùi cháy khét đậm đặc.
"Súng phòng không của chúng ta thật tuyệt! O di egwu!", người nào đó hét to.
"Biafra chiến thắng!" Julius bắt đầu hát, không lâu sau tất cả mọi người trên đường tập trung lại tham gia.
Biafra thắng trận
Xe bọc thép, dàn hỏa tiễn
Máy bay… kích và cường kích
Ha enweghi ike imeri Biafra!
Olanna nhìn Odenigbo hát một cách say mê. Nàng cũng cố hát nhưng lời hát tắt ngấm nơi đầu môi. Đầu gối nàng đau nhói; nàng nắm tay Bé By và đi vào trong nhà.
Chiều hôm ấy nàng đang tắm cho Bé By thì tiếng còi báo động vang lên và nàng ôm Bé By vẫn còn đang trần truồng chạy ra khỏi nhà. Bé By suýt tuột khỏi tay nàng. Tiếng gầm vút nhanh của máy bay, tiếng súng phòng không nổ đùng đoàng rền vang trên không trung và dưới mặt đất, bủa vây lấy nàng làm nàng run bắn, răng lập cập va vào nhau. Nàng nhào xuống hầm trú ẩn mà không để ý đến mấy con dế.
"Odenigbo đâu rồi?" Một lúc sau nàng hỏi, bấu chặt tay Ugwu, "Ông chủ đâu rồi?"
"Ông ở dưới này, thưa cô", Ugwu nhìn quanh.
"Odenigbo!" Olanna gọi. Nhưng không có tiếng trả trả lời. Nàng không nhớ là có thấy chàng chạy vào hầm trú ẩn hay không. Chàng vẫn còn ở chỗ nào đó ở trên. Tiếng nổ tiếp theo làm tai nàng ù đi; nàng tin là nếu nàng nghiêng đầu, có cái gì đó cứng cứng mềm mềm như một mẩu sụn sẽ rơi ra. Nàng bò lên. Nàng nghe tiếng của Ugwu ở phía sau, "Cô? Cô?". Người đàn bà ở cuối đường nói, "Trở lại đây! Cô định đi đâu? Ebe ka I na-eje?". Nhưng nàng không để ý đến cả hai và trườn ra khỏi hầm.
Mặt trời sáng đến kỳ lạ làm nàng muốn ngất xỉu. Nàng chạy, tim nhói đau. Nàng hét to, "Odenigbo! Odenigbo!", cho đến khi nàng nhìn thấy chàng đang cúi nhìn ai đó trên mặt đất. Nàng nhìn bộ ngực đầy lông của chàng, bộ râu mới mọc và đôi dép mòn, đột nhiên cái chuyện tử sinh của chàng – chuyện tử sinh của họ – ập đến như một bàn tay chẹn cứng yết hầu, một cú thít cổ kinh hoàng. Nàng ôm chàng chặt cứng. Căn nhà ở cuối đường bốc cháy.
"Nkem, không sao cả", Odenigbo nói. "Một viên đạn bắn trúng anh ta nhưng chỉ vào phần mềm thôi". Chàng đẩy nàng ra và trở lại với người đàn ông, áo của chàng được dùng để băng bó cánh tay của anh ta.
Buổi sáng, bầu trời như mặt biển êm đềm. Olanna bảo Odenigbo đừng đi làm và nàng cũng không đi dạy, cả ngày hôm ấy họ sẽ ở trong hầm trú ẩn.
Chàng cười rộ. "Đừng có kỳ cục như thế."
"Không ai cho con họ đến trường cả", nàng nói.
"Thế rồi em làm gì?" Giọng chàng bình thường như tiếng ngáy của chàng suốt đêm qua, khi nàng nằm thức chong chong tưởng tượng đến tiếng bom mà toát cả mồ hôi.
"Em không biết."
Chàng hôn nàng. "Chạy ra hầm trú ẩn nếu còi báo động vang lên nhé. Sẽ chẳng có gì xảy ra. Có thể anh sẽ về hơi muộn nếu hôm nay phải đi dạy ở Mbaise."
Lúc đầu nàng hơi bực với vẻ thản nhiên của chàng nhưng rồi nàng lại thấy được an ủi bởi chính cử chỉ ấy. Nàng tin vào lời nói của chàng, nhưng chỉ khi nào chàng có mặt ở đó. Sau khi chàng đi rồi, nàng thấy mình yếu đuối, không được che chở. Nàng không tắm. Nàng sợ ra ngoài đi vệ sinh. Nàng sợ ngồi xuống bởi vì nàng có thể ngủ quên và không phản ứng kịp khi còi báo động hú. Nàng uống hết ly nước này đến ly khác cho tới khi bụng căng ra, tuy thế nàng vẫn có cảm giác miệng khô khốc và nàng bắt đầu chết ngạt với từng mảng không khí khô rang.
"Hôm nay mình sẽ ở trong hầm trú ẩn", nàng bảo Ugwu.
"Hầm trú ẩn, thưa cô?"
"Ở hầm trú ẩn, em nghe rõ rồi chứ?"
"Nhưng mình không thể ở dưới hầm, thưa cô."
"Không phải là tôi nói ngọng quá đây chứ? Tôi nói mình sẽ ở trong hầm trú ẩn."
Ugwu nhún vai. "Vâng, thưa cô. Con có nên mang thức ăn cho Bé By không?"
Nàng không trả lời. Nàng có thể tát hắn ngay lập tức nếu hắn chỉ cần khẽ nhếch mép cười, bởi vì nàng có thể đọc thấy trên mặt hắn nụ cười thầm với ý nghĩ mang đĩa đựng cháo của Bé By chui vào cái hố ẩm thấp dưới mặt đất và ở cả ngày trong đó.
"Chuẩn bị cho Bé By", nàng nói và quay người mở radio.
"Vâng, thưa cô", Ugwu nói. "O nwere igwu. Sáng hôm nay con thấy trứng chấy trên tóc Bé By."
"Cái gì?"
"Trứng chấy. Nhưng chỉ có hai cái thôi; con tìm nhưng không thấy cái nào nữa cả."
"Chấy? Em nói cái gì thế? Làm sao mà Bé By có thể có chấy chứ? Tôi tắm cho nó thường xuyên. Bé By! Bé By!"
Olanna kéo Bé By về phía trước và bắt đầu tháo tung bím tóc của nó ra rồi vạch tìm trong mớ tóc dày. "Chắc là tại bọn trẻ hàng xóm bẩn thỉu mà con chơi chung, mấy đứa hàng xóm bẩn thỉu." Bàn tay nàng run run và nàng túm lấy một nhúm tóc để tuốt. Bé By bắt đầu khóc.
"Đứng yên!" Olanna nói.
Bé By vụt thoát khỏi nàng và chạy về hướng Ugwu, đứng đó ngó Olanna bằng cặp mắt vừa sợ hãi vừa thắc mắc, tò mò như là nó không còn nhận ra nàng nữa. Từ radio, bài quốc ca của Biafra vang lên, tràn ngập không gian.
Đất nước mặt trời mọc, chúng ta yêu và nâng niu,
Quê nhà thân yêu của những chiến sĩ anh hùng;
Chúng ta phải bảo vệ cuộc đời của chúng ta hay sẽ bị diệt vong.
Chúng ta phải bảo vệ trái tim của chúng ta khỏi mọi kẻ thù;
Nhưng nếu cái giá phải trả là cái chết cho tất cả những người thân yêu
Thì chúng ta xin cũng chết mà không chút hãi sợ…
Họ lắng nghe cho đến khi bài quốc ca chấm dứt.
"Dẫn em ra ngoài, ở dưới hàng hiên và cẩn thận." Cuối cùng, Olanna mệt mỏi nói với Ugwu.
"Mình không ở dưới hầm nữa à cô?"
"Dẫn em ra hàng hiên."
"Vâng."
Olanna mở radio; bây giờ còn quá sớm để nghe bản tin chiến sự và những bài diễn thuyết đầy nhiệt huyết về sự vĩ đại của Biafra mà nàng rất muốn nghe. Trên BBC có tin tức mới cập nhật về chiến tranh như các phái viên của Đức Giáo hoàng, tổ chức thông nhất Phi châu, các phái viên từ Anh quốc đến Nigeria để kêu gọi hòa bình. Nàng lắng tai nghe một cách vô hồn và vặn tắt khi thấy Ugwu đang nói chuyện với một người nào đó. Nàng ra ngoài và thấy bà Muokelu đang đứng đằng sau Bé By tết lại mấy bím tóc mà Olanna mới tháo ra khi nãy. Lớp lông tay của bà bóng loáng như thể bà dùng dầu quá nhiều.
"Bà cũng không đến trường à?"
"Tôi nghĩ là các ông bố bà mẹ sẽ giữ con cái của họ ở nhà."
"Ai mà không làm thế chứ? Không biết cái cách dội bom tới tấp này phục vụ mục đích gì?"
"Đó là tại vì Harold Wilson đến." Bà Muokelu dấm dẳng. "Chúng muốn làm cho ông ta có ấn tượng tốt để ông ta đưa quân Anh đến."
"Julius cũng nói thế nhưng làm gì có chuyện ấy"
"Không ư?" Bà Muokelu mỉm cười làm như Olanna chẳng biết bà ta nói gì. "Cái ông Julius á, mà này, cô có biết là ông ta bán giấy thông hành giả không?"
"Ông ta là một nhà thầu xây dựng của quân đội."
"Tôi không nói là ông ta không làm những hợp đồng nhỏ với quân đội nhưng ông ta cũng bán giấy tờ giả. Em của ông ta là một giám đốc và họ cùng hợp tác với nhau. Tại vì họ mà đủ loại lừa đảo nhan nhản khắp nơi với giấy tờ giả mạo." Bà Muokelu tết tóc xong rồi vỗ vào đầu Bé By. "Em của ông ta là một tội phạm. Người ta nói ông ta phát giấy miễn quân dịch cho tất cả đàn ông là người thân của ông ta, tất cả mọi người trong umunna của ông ta. Và cô cần phải nghe chuyện ông ta đã làm gì với những đứa ranh con bu lại để tìm mấy lão già hảo ngọt. Người ta nói ông ta mang cả một lúc năm đứa con gái vào phòng ngủ. Tufia! Loại người như ông ta đáng bị xử tử sau khi Biafra được thiết lập thành công."
Olanna bật dậy. "Có phải đó là máy bay không? Có phải máy bay không?"
"Máy bay, kwa?" Bà Muokelu cười. "Nhà bên cạnh đóng cửa mà cô tưởng là máy bay?"
Olanna ngồi xuống nền nhà, duỗi chân ra. Nàng cảm thấy kiệt sức vì sợ hãi.
"Cô có nghe là mình bắn rơi cái máy bay bỏ bom ở Ikot– Ekpene?" Bà Muokelu hỏi.
"Tôi không nghe."
"Người thực hiện việc này là một dân thường và bằng cây súng săn của ông ta! Cô biết đây, chính bởi người Nigeria ngu nên lũ người làm thuê cho họ cũng ngu theo. Chúng quá ngu xuẩn không thể điều khiển máy bay mà người Nga và người Anh cho, vì thế chúng đưa người da trắng vào. Và ngay cả mấy người da trắng này cũng không bắn trúng mục tiêu. Già nửa số bom của họ không nổ."
"Cái già nửa đó đủ giết chúng ta", Olanna nói.
Bà Muokelu tiếp tục nói như không nghe Olanna nói gì. "Tôi nghe là ogbunigwe của ta truyền niềm kính sợ Chúa vào trong lòng họ. Ở Afikô, chừng vài trăm tên bị giết nhưng cả đạo quân Nigeria rút lui vì sợ. Chưa bao giờ được biết một loại vũ khí như thế, chúng không biết cái mình vẫn còn để dành cho chúng." Bà cười rưng rức và lắc đầu, kéo xoay nửa mặt trời vàng đeo trên cổ. "Gowon cho họ bỏ bom Awgu. Giữa trưa, chợ đang họp và phụ nữ bận bịu mua bán. Hắn từ chối không để Hội Chữ thập đỏ mang thực phẩm cho chúng ta, từ chối kpam-kpam, vì thế chúng ta sẽ bị bỏ đói cho đến chết. Nhưng hắn ta không thể thành công. Nếu có người cung cấp vũ khí và máy bay cho chúng ta như người ta vào Nigeria thì chuyện này đã chấm dứt từ lâu và bây giờ ai ở nhà người nấy. Nhưng chúng ta sẽ chiến thắng. Chúa có ngủ quên không? Không!" Bà Muokelu cười to. Tiếng còi báo động vang lên. Olanna đã chờ đợi tiếng còi chát chúa này lâu đến độ nàng cảm thấy một chân động báo trước chạy trong người nàng trước khi tiếng còi báo động vang lên. Nàng quay người sang Bé By nhưng Ugwu đã nhấc bổng con bé chạy ra hầm trú ẩn. Olanna có thể nghe tiếng máy bay từ xa như tiếng sấm rền và tiếng đì đùng lẻ tẻ của súng phòng không. Trước khi nàng bò vào hầm trú, nàng nhìn lên và thấy mấy chiếc phản lực bỏ bom bay lượn như diều hâu bắt đầu sà thấp, với những quả bóng khói xám xung quanh chúng.
Lúc họ chui lên khỏi hầm sau đó, có người nói, "Chúng tấn công trường tiểu học."
"Bọn quỷ sứ đó đánh bom trường mình", bà Muokelu nói.
"Nhìn kìa, thêm một cái máy bay bỏ bom nữa đấy!", một thanh niên nói, rồi vừa cười vừa chỉ tay lên con kên kên đang bay trên đầu.
Họ gia nhập vào đám đông tiến về trường tiểu học Akwakuma. Hai người đàn ông đi qua họ theo chiều ngược lại khiêng một cái xác cháy nám đen. Hố bom, đủ rộng để nuốt cả một chiếc xe vận tải, đã cắt con đường dẫn vào cổng trường làm hai mảnh. Mái của một dãy lớp học bị nghiến nát thành một đống gỗ, kim loại và bụi. Olanna không nhận ra được lớp học của mình. Toàn bộ cửa sổ đều vỡ tung nhưng vách tường vẫn còn nguyên. Chỉ ở bên ngoài một chút, nơi học trò của nàng chơi trên cát, một mảnh bom đã đào một cái hố thật gọn gàng, xinh xắn trên mặt đất. Và khi nàng cùng tham gia khiêng những cái ghế còn dùng được, nàng chỉ nghĩ về cái hố ấy; làm sao một mảnh kim loại của quân dã thú khốn kiếp lại có thể đào một cái hố xinh đẹp như thế.
Lúc sáng sớm, không có tiếng còi báo động. Lúc mấy chiếc máy bay oanh tạc, gầm rít dữ dội, Olanna đang quây bột bắp để nấu cháo cho Bé By. Nàng biết thế là xong. Có người sẽ chết. Có lẽ là tất cả mọi người đều chết. Cái chết sẽ đến lúc nàng đang khom người dưới lòng đất, vốc một nắm đất chà giữa mấy ngón tay và chờ cái hầm trú ẩn nổ tung. Tiếng bom trở nên to hơn, gần hơn. Cả lòng đất rung chuyển. Nàng không cảm thấy gì cả. Nàng đang trôi nổi bồng bềnh trong chính cơ thể nàng. Thêm một tiếng nổ vang vọng đến và mặt đất rung mạnh, một trong những đứa trẻ trần truồng bò theo mấy con dế cười rúc rích. Rồi thì tiếng nổ chấm dứt và người người xung quanh nàng bắt đầu di động. Nếu nàng chết, nếu Odenigbo, Bé By và Ugwu cũng chết, cái hầm trú ẩn vẫn mang mùi của đất ruộng mới được cày lên, mặt trời vẫn mọc và dế vẫn nhảy nhót xung quanh. Chiến tranh vẫn đến cho dù họ không còn sống nữa. Olanna thở ra một hơi dài, chứa đầy một cơn phẫn nộ lạnh lùng tê điếng. Việc cảm nhận sự thật những phi lý của cuộc đời đã đẩy nàng từ chỗ sợ hãi tột độ đến chỗ giận tột bực. Sự sống của nàng phải có ý nghĩa. Nàng không muốn chỉ tồn tại quằn quại yếu ớt, chờ cái chết đến từng giây. Cho đến ngày Biafra chiến thắng, đám giặc đó không có quyền ra lệnh cắt đặt cách sống của nàng.
Nàng là người đầu tiên chui ra khỏi hầm. Một người đàn bà gieo mình xuống bên cạnh cái thi hài nhỏ bé của một đứa bé và lăn lộn trên mặt đất, kêu khóc. "Gowon, tao đã làm gì mày chứ? Gowon, olee ihe m mere gi?" Mấy người đàn bà quây xung quanh đỡ chị ta đứng dậy. "Thôi đừng khóc nữa, đủ rồi", họ nói. "Bà muốn mấy đứa con kia phải thế nào?"
Olanna ra sân sau và bắt đầu rây lớp tro qua cái xô kim loại. Nàng ho lúc nhóm lửa; khói bay làm nàng cay mắt.
Ugwu đang trông chừng nàng. "Cô có muốn con làm cho cô không?"
"Không." Nàng pha tro vào trong chậu nước lạnh, khuấy mạnh đến mức làm nước bắn ra chân nàng. Nàng đặt cái chậu còn nhểu nước lên lửa và không nói năng gì với Ugwu. Hắn cũng cảm thấy cơn giận đang trào lên trong nàng làm nàng chóng mặt, vì thế yên lặng đi vào trong nhà. Ngoài đường, tiếng khóc của người đàn bà lại vang lên khàn hơn, và nhỏ hơn. "Gowon, tao đã làm gì mày chứ? Gowon, olee ihe m mere gi?". Olanna cho một ít dầu dừa vào trong hỗn hợp để nguội và khuấy, khuấy mãi, cho đến khi hai cánh tay của nàng mỏi nhừ. Có cái gì đó rất thơm ngon chảy ra từ bàn tay nàng, một sự sống mãnh liệt đang dâng trào làm tim nàng đập mạnh, trong cái chất nhão nhão có mùi kỳ lạ đang đóng cục lại khi nguội đi. Nó có bọt. Nàng làm xà phòng.
Ngày hôm sau Olanna không chạy qua bãi đất trống trên đường đến trường. Đối với nàng, sự thận trọng không còn quá cần thiết và đáng tin cậy nữa. Bước đi của nàng vững chắc và nàng thường nhìn lên bầu trời trong veo tìm bóng dáng chiếc máy bay ném bom, bởi vì nàng sẽ dừng lại, sẽ ném đá và ném cả những lời chửi rủa của nàng vào chúng. Có khoảng một phần tư số học sinh của nàng đến lớp. Nàng dạy chúng về lá cờ của Biafra. Chúng ngồi trên những tấm gỗ dài, ánh mặt trời yếu ớt rọi vào lớp học không có mái lúc nàng mở lá cờ bằng vải của Odenigbo và nói cho chúng biết những dấu hiệu này có nghĩa gì. Màu đỏ tượng trưng cho máu của những người anh em đã bị thảm sát ở miền Bắc, màu đen dùng để để tang cho họ, màu xanh lá cây là sự thịnh vượng của Biafra sẽ đạt được, và cuối cùng, nửa mặt trời vàng tượng trưng cho một tương lai rực rỡ. Nàng dạy chúng giơ tay lên chào như vị Lãnh Tụ và nàng dạy chúng vẽ lại hai bức hình của hai nhà lãnh đạo. Vị Lãnh Tụ nhìn lực lưỡng, được vẽ bằng hai nét, trong khi hình dáng yếu đuối của Gowon được phác họa bằng một nét.
Nkiruka, học trò thông minh nhất của nàng, tô lên những đường vẽ làm thành hình mặt người và với vài nét đơn sơ của cây bút chì, cô bé làm cho nét mặt Gowon đầy vẻ đe dọa còn vị Lãnh Tụ tươi tắn nở một nụ cười.
"Em muốn giết hết đám giặc, thưa cô." Cô bé nói khi lên nộp cho nàng bức vẽ của mình. Cô bé cười nụ cười của một đứa trẻ thông minh già dặn biết mình đã làm đúng.
Olanna đăm đăm nhìn cô bé, không biết phải trả lời như thế nào. "Nkiruka, về chỗ ngồi", mãi một lúc sau nàng mới nói.
Điều đầu tiên nàng nói với Odenigbo là chữ giết nghe man rợ làm sao, nhất là khi nó phát ra từ miệng một đứa trẻ và nàng cảm thấy thật tội lỗi. Hai người đang ở trong phòng ngủ, tiếng radio vặn nhỏ và nàng có thể nghe tiếng cười lanh lảnh của Bé By ở phòng bên.
"Cô bé không thật sự muốn giết ai cả, nkem. Em chỉ mới vừa dạy cô bé lòng yêu nước thôi mà", Odenigbo vừa cởi giày vừa nói.
"Em không biết." Nhưng lời của chàng làm nàng thêm nghị lực, cũng như niềm tự hào hiện rõ trên mặt chàng. Chàng thích nghe nàng nói một cách sinh động, dù chỉ một lần, về đại nghĩa như thể cuối cùng, vì lý tưởng, nàng cũng trở thành một thành viên góp sức cho thành công của cuộc chiến tranh này.
"Ngày hôm nay mấy người trong Hội Chữ thập đỏ đã nghĩ đến ban Giám đốc", chàng nói và chỉ một cái thùng bằng giấy nhỏ chàng mang về.
Olanna mở ra để mấy hộp sữa đặc thấp lùn, hộp Olvaltine cao lêu đêu và một gói muối lên giường. Chúng có vẻ sang trọng quá. Trên đài, một giọng nói sống động cho biết đoàn quân dũng mãnh của Biafra đang đánh đuổi những tên giặc phá hoại đóng xung quanh Abakaliki.
"Mình tổ chức tiệc đi", nàng nói.
"Tiệc?"
"Chỉ một bữa ăn tối. Anh biết mà. Giống như mình hay làm ở Nsukka."
"Cuộc chiến này sẽ nhanh chóng chấm dứt, nkem, và chúng ta sẽ tổ chức tiệc tùy thích trên đất Biafra tự do."
Nàng thích cái cách chàng nói như thế, trên đất Biafra tự do, và nàng đứng dậy, ép sát người vào chàng. "Vâng, nhưng chúng ta vẫn có thể tổ chức tiệc trong chiến tranh."
"Mình còn không có đủ cho mình."
"Mình có nhiều hơn mình tưởng." Phần bụng dưới của nàng vẫn còn áp sát vào chàng và bất thình lình, lời của nàng bỗng mang một ý nghĩa khác, nàng bước lùi lại, kéo áo qua khỏi đầu bằng một động tác cực kỳ uyển chuyển. Nàng cởi cúc quần chàng. Nàng không để cho chàng tự cởi. Nàng dựa vào tường và cầm cái của chàng ấn vào trong nàng, bị kích thích bởi sự ngạc nhiên của chàng, bởi bàn tay bạo dạn của chàng trên eo nàng. Nàng biết là nàng nên nhỏ giọng vì Ugwu và Bé By ở phòng bên cạnh, tuy thế nàng không thể kiềm giữ tiếng rên của mình; niềm khoái lạc hoàn toàn nguyên sơ mà nàng cảm thấy đang dâng lên hết đợt này đến đợt khác và kết thúc khi cả hai cùng dựa vào tường thở gấp, cười rúc rích.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Nửa Mặt Trời Vàng.