Chương hai mươi tám
-
Nửa Mặt Trời Vàng
- Chimamanda Ngozi Adichie
- 13505 chữ
- 2020-05-09 01:32:58
Số từ: 13494
Người dịch: Nguyễn thị Hải Hà
NXB Lao Động
Nguồn: vietmessenger
Olanna có một giấc mơ đẹp. Nàng không nhớ đã mơ gì, chỉ nhớ là trong mơ nàng rất vui vẻ, hạnh phúc và vì thế khi thức giấc, nàng thấy ấm lòng với ý nghĩ là nàng vẫn còn có thể mơ một giấc mơ đẹp. Nàng ước gì Odenigbo đã chẳng rời nhà đến sở làm để nàng có thể kể cho chàng nghe về giấc mơ này và khẽ nở một nụ cười yêu chiều khi chàng lắng nghe, cái nụ cười như muốn nói rằng chàng không nhất thiết phải tin vào câu chuyện của nàng. Nhưng nàng chưa hề gặp lại nụ cười đó của chàng kể từ khi mẹ chàng mất, kể từ khi chàng tìm cách đi Abba và trở về, đeo thêm một vẻ mặt u uất. Cũng từ lúc đó, chàng bắt đầu đi làm sớm hơn thường lệ rất nhiều và khi tan sở, trên đường về nhà, chàng tạt vào quán rượu Tanzania. Nếu chàng đã không cố gắng vượt qua chặng đường bị chiếm đóng thì chàng đã không có cái vẻ tiều tụy và thẫn thờ như bây giờ. Nỗi đau khổ đã không đè nặng như một sự thất bại. Đúng ra nàng sẽ chẳng bao giờ để cho chàng đi. Nhưng sự cương quyết của chàng trở thành sự hằn học ngấm ngầm, dường như chàng cảm thấy nàng không có quyền ngăn chàng. Câu nói của chàng – "Tôi phải chôn cái phần mà bọn diều hâu bỏ lại." – đã đào một hố ngăn giữa hai người mà nàng không biết làm thế nào để có thể vượt qua. Trước khi chàng leo lên xe và lái đi, nàng nói với chàng, "Chắc là đã có người nào đó chôn mẹ rồi".
Sau đó, khi nàng ngồi trên hàng hiên chờ chàng, nàng thấy tự ghét mình đã không tìm ra đươc lời nào tế nhị hơn. Chắc là đã có người nào đó chôn mẹ rồi. Nghe sao mà dửng dưng! Ý của nàng là chắc chắn người anh họ của chàng, Aniekwena, đã chôn bà. Lời nhắn của Aniekwena qua một người lính đang nghỉ phép rất ngắn gọn: Abba bị chiếm đóng; anh ta đã lén trở lại để mang theo một ít của cải và thấy bà nằm chết gần vách nhà vì bị bắn. Anh ta chẳng nói gì hơn, nhưng Olanna đoán là chắc anh ta sẽ đào một cái huyệt. Anh ta không thề để xác bà nằm đó, rữa nát.
Olanna không còn nhớ là mình đã chờ Odenigbo trở lại trong bao lâu nhưng nàng nhớ cái cảm giác mờ mịt như có một tấm màn che lạnh ngắt kéo qua mắt nàng. Đã rất nhiều lần nàng lo ngại về cái chết của Bé By, Kainene và Ugwu, mơ hồ chấp nhận nỗi đau đớn rất có thể sẽ xảy ra trong tương lai nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ rằng Odenigbo có thể chết. Không bao giờ. Chàng là điểm tựa vững chắc của nàng. Khi chàng trở lại, đã quá nửa đêm từ lâu, giày dính đầy bùn, nàng biết là chàng sẽ không bao giờ như xưa. Chàng bảo Ugwu rót cho mình ly nước và nói vói nàng bằng một giọng thật bình tĩnh, "Họ cứ lặp đi lặp lại là anh phải quay lại, vì thế anh dừng lại, giấu nó đi rồi bắt đầu đi bộ. Cuối cùng, một sĩ quan Biafra lên đạn, bảo rằng anh ta sẽ bắn để quân địch khỏi phải bận tâm, nếu anh không quay trở lại".
Nàng kéo chàng vào lòng, ôm chặt và khóc nức nở. Cái cảm giác nhẹ nhõm của nàng nhuốm vẻ u sầu.
"Anh không sao cả, nkem", chàng nói. Nhưng chàng không đi vào sâu trong làng với đội Tuyên truyền và cũng không còn trở về với đôi mắt sáng rực như xưa. Thay vào đó, chàng đến quán rượu Tanzania mỗi ngày và trở về với một bộ mặt lầm lì. Khi nói, chàng nói về những tài liệu nghiên cứu của chàng chưa được xuất bản ở Nsukka, rồi người ta sắp sửa cất nhắc chàng lên địa vị Giáo sư chính thức và chỉ có Chúa mới biết là kẻ địch sẽ làm gì với đống tài liệu của chàng. Nàng muốn chàng thực sự bày tỏ lòng chàng với nàng, để nàng có thể an ủi chàng và giúp chàng vượt qua nỗi đau đớn nhưng mỗi lần nàng đề cập đến chuyện đó, chàng lại bảo, "Muộn quá rồi, nkem". Nàng không biết chắc là chàng muốn nói gì. Nàng cảm nhận được nỗi đau khôn cùng này – chàng không bao giờ biết mẹ chàng chết thế nào và luôn luôn vật vã với những giận hờn cũ – nhưng nàng không cảm thấy mình có liên hệ gì với nỗi tiếc thương của chàng. Đôi khi nàng tự hỏi không biết đây là thất bại của mình hay là của chàng, nếu như nàng thiếu một sự mạnh mẽ, quyết đoán để có thể buộc chàng chia sẻ nỗi đau cùng nàng.
Okeoma đến chia buồn.
"Tôi nghe tin buồn", anh nói, khi Olanna mở cửa. Nàng ôm nhẹ anh và nhìn vết sẹo ngoằn ngoèo, sưng tấy chạy từ cằm xuống cổ, nghĩ tin tức lan đi thật nhanh.
"Anh ấy vẫn chưa nói chuyện với tôi", nàng nói. "Những gì anh ấy nói chả thể hiểu nổi."
"Chưa có ai từng biết Odenigbo mà lại thấy anh ấy yếu đuối cả. Chịu khó kiên nhẫn với anh ấy." Okeoma nói thật nhỏ như là thầm thì bởi vì Odenigbo vừa bước ra. Sau khi họ ôm chầm lấy nhau và vỗ vào lưng nhau, Okeoma nhìn chàng.
"Ndo", anh nói. "Tôi rất tiếc."
"Tôi nghĩ là bà rất ngạc nhiên khi chúng bắn bà", Odenigbo nói. "Mẹ tôi không bao giờ nghĩ là chúng ta đang ở trong tình trạng chiến tranh và mạng sống của bà bị đe dọa."
Olanna nhìn chàng chăm chăm.
"Chuyện xảy ra đã xảy ra rồi", Okeoma nói. "Anh phải giữ vững tinh thần."
Một không khí im lặng bức bối bao trùm gian phòng.
"Julius mang một ít rượu dừa tươi mới rút", một lúc sau Odenigbo nói. "Anh biết không, sau này người ta pha thêm nhiều nước quá nhưng rượu vẫn khá ngon."
"Tôi sẽ uống cái đó sau. Còn chai whisky White Horse anh để dành cho những lúc đặc biệt đâu rồi?"
"Gần hết rồi."
"Vậy thì tôi sẽ uống cho hết luôn", Okeoma nói.
Odenigbo mang chai rượu ra và họ ngồi trong phòng khách, vặn radio nhỏ lại và mùi xúp Ugwu nấu tràn ngập trong không khí.
"Ông chỉ huy của tôi uống thứ này như uống nước", Okeoma nói, lắc cái chai để xem còn nhiều rượu không.
"Và hắn ta thế nào, tên chỉ huy của anh, gã da trắng đánh thuê?" Odenigbo hỏi.
Okeoma liếc một cái về hướng Olanna tỏ vẻ xin lỗi trước khi nói, "Hắn vật ngửa đàn bà giữa thanh thiên bạch nhật ngay trước mắt những người đàn ông, cùng lúc ấy hắn cầm bọc tiền bằng một tay". Okeoma tu chai và nhăn mặt một lát. "Chúng ta có thế lấy lại Enugu dễ dàng nếu hắn chịu nghe lời, nhưng hắn tin là mình biết về đất nước của chúng ta hơn chúng ta. Hắn bắt đầu chỉ huy những đoàn xe tiếp tế. Hắn bắt đầu dọa Lãnh Tụ là hắn sẽ bỏ về nếu không được lĩnh hết số tiền của hắn."
Okeoma tợp thêm một ngụm từ trong chai.
"Hai ngày trước tôi đi ra ngoài, mặc quần áo dân thường và một người đi tuần chặn tôi lại trên đường, buộc tội tôi đào ngũ. Tôi nói cho hắn biết là từ rày trở đi không bao giờ được nói với tôi bằng giọng ấy, nếu không tôi sẽ cho hắn biết những người lính biệt kích khác lính thường như thế nào. Tôi nghe hắn cười ngặt nghẽo lúc tôi bước đi. Thử tưởng tượng xem! Trước đây hắn có bao giờ dám cười nhạo một người lính biệt kích. Nếu không tổ chức lại, chúng ta sẽ mất uy tín."
"Tại sao dân da trắng lại được thuê để chiến đấu trong cuộc chiến của chúng ta nhỉ?" Odenigbo dựa người vào ghế. "Rất nhiều người dân có thể thật sự chiến đấu bởi vì chúng ta sẵn sàng dâng hiến thân mình cho Biafra."
Olanna đứng lên. "Chúng ta dùng bữa thôi", nàng nói. "Rất tiếc là xúp của chúng tôi không có thịt, Okeoma."
"Rất tiếc là xúp của chúng tôi không có thịt", Okeoma nhại lại. "Đây có giống chỗ bán thịt không? Tôi không đến đây để tìm thịt."
Ugwu đặt đĩa garri lên bàn.
"Xin anh làm ơn tháo mấy quả lựu đạn anh đang đeo ra khi ăn, Okeoma." Olanna nói.
Anh ta tháo chúng ra khỏi thắt lưng của mình và đặt vào góc nhà. Họ ăn trong sự im lặng kéo dài, nhồi garri thành những viên bi nhỏ, chấm vào xúp rồi nuốt.
"Tại sao anh có cái sẹo ấy?" Olanna hỏi.
"Ồ, chẳng có gì cả", Okeoma nói, lấy tay xoa xoa cái sẹo. "Nó không thật nghiêm trọng đến thế đâu."
"Anh nên gia nhập Nghiệp đoàn Văn sĩ Biafra", nàng nói. "Anh đáng lẽ phải là một trong những người ra nước ngoài để quảng bá cho sự nghiệp của chúng ta."
Okeoma lắc đầu quầy quậy ngay lúc Olanna còn đang nói. "Tôi là một chiến sĩ", anh nói.
"Anh có còn viết không?" Olanna hỏi.
Anh lại lắc đầu.
"Anh có bài thơ nào cho chúng tôi không? vẫn còn trong đầu ấy?", nàng hỏi, nghe có vẻ đầy tuyệt vọng ngay cả với chính nàng.
Okeoma nuốt một viên garri, yết hầu của anh chạy lên chạy xuống. "Không", anh nói. Anh quay về hướng Odenigbo. "Anh có biết mấy cái tàu chiến của mình làm gì với kẻ địch ở vùng Onitsha không?"
Sau khi ăn trưa, Odenigbo bỏ vào phòng ngủ. Okeoma uống nốt chỗ rượu whisky còn lại, sau đó uống rượu dừa, hết ly này đến ly khác rồi ngồi ngủ gục trên ghế trong phòng khách. Anh thở khá khó nhọc; anh nói lầm bầm cái gì đó, hai lần anh vung tay như muốn đẩy lui một kẻ thù vô hình. Olanna vỗ nhẹ vai, đánh thức anh dậy.
"Kunie. Vào trong nghỉ một chút đi", nàng nói.
Anh mở đôi mắt đỏ ngầu đầy ngơ ngác của mình. "Không, không, tôi không ngủ đâu."
"Nhìn anh kìa. Anh không còn là mình nữa."
"Đâu có." Okeoma cố nén cái ngáp. "Tôi có một bài thơ vừa nghĩ ra trong đầu." Anh ngồi thẳng dậy rồi bắt đầu đọc. Giọng anh rất khác. Ở Nsukka, anh đọc thơ của mình rất diễn cảm, như thể anh biết chắc là nghệ thuật quan trọng hơn tất cả. Bây giờ anh có một cái giọng cố tỏ ra không giễu cợt nhưng lại vẫn có vẻ giễu cợt trong đó.
Màu nâu
Ánh ngời của một mỹ nhân ngư
Nàng xuất hiện
Mang theo ánh bạc của bình minh
Và mặt trời săn đón nàng
Mỹ nhân ngư.
Nàng không bao giờ thuộc về tôi.
"Odenigbo rất có thể sẽ nói là Giọng nói của một thế hệ!" Olanna nói.
"Thế chị thì sẽ nói thế nào?"
"Giọng của một người đàn ông."
Olanna cười e thẹn, nàng nhớ lại Odenigbo thường hay trêu là Okeoma thầm yêu trộm nhớ Olanna. Bài thơ nói về nàng và anh ấy muốn nàng nhận biết điều này. Họ ngồi trong im lặng cho đến khi anh lại bắt đầu nhắm mắt và không lâu sau, tiếng ngáy của anh trở nên đều đặn. Nàng nhìn anh và tự hỏi không biết anh đang mơ gì. Anh vẫn ngủ, nói lẩm bẩm và nghiêng đầu từ bên này sang bên kia, khi Giáo sư Achara đến chiều hôm ấy.
"Ô, người bạn biệt kích của cô đang có mặt ở đây", ông nói. "Cô gọi giúp tôi Odenigbo. Chúng ta sẽ nói chuyện ngoài hàng hiên."
Họ ngồi trên ghế băng ngoài hiên. Giáo sư Achara cứ nhìn xuống đất, chắp tay vào và mở tay ra.
"Tôi đến, có một chuyện rất khó nói", ông ta nói.
Nỗi sợ hãi thắt chặt lồng ngực Olanna: có chuyện gì xảy ra với Kainene và người ta nhờ Giáo sư Achara đến báo cho nàng biết. Nàng muốn Giáo sư rời nhà nàng ngay lập tực mà không nói gì cả, bởi vì nàng không muốn biết cái chuyện sẽ làm nàng đau lòng.
"Chuyện gì thế?" Odenigbo hỏi gằn.
"Tôi đã cố gắng thuyết phục ông chủ nhà thay đổi ý của ông ta. Tôi đã nói hết lời, làm tất cả những gì có thể. Nhưng ông ta từ chối. Ông ta muốn anh chị dọn đi trong hai tuần nữa."
"Tôi không hiểu lắm." Odenigbo nói.
Nhưng Olanna hiểu. Họ bị đuổi đi vì có người muốn thuê căn nhà này với giá gấp đôi hay gấp ba giá mà nàng đang thuê.
"Tôi rất tiếc, Odenigbo. Ông ta vốn là một người biết điều nhưng tôi đoán thời gian đã lấy đi một phần lý trí của ông ta mất rồi."
Odenigbo thở dài.
"Tôi sẽ giúp anh chị tìm thuê một chỗ khác", Giáo sư Achara nói.
° ° °
Họ may mắn tìm được một phòng, bây giờ Umuahia la liệt người tị nạn. Một dãy nhà dài có chín phòng cạnh nhau, cửa dẫn ra một hàng hiên hẹp. Nhà bếp ở một đầu còn nhà tắm ở đầu bên kia, bên cạnh một vườn chuối. Phòng của họ ở gần nhà tắm. Ngày đầu tiên, Olanna nhìn nó, không tưởng tượng nổi làm thế nào để có thể sống ở đây với Odenigbo, Bé By và Ugwu; ăn, thay quần áo, và làm tình cùng trong một căn phòng. Odenigbo ngăn chỗ họ ngủ bằng một cái màn mỏng và sau đó, khi Olanna nhìn sợi dây treo thõng chàng đã cố cột vào một cây đinh đóng trên tường, nàng nhớ đến căn phòng của cậu Mbaezi và mợ Ifeka ở Kano. Nàng bật khóc.
"Mình sẽ nhanh tìm được một chỗ tốt hơn thôi", Odenigbo nói và nàng gật đầu, không nói với chàng là không phải tại căn phòng mà mình khóc.
Bà Oji ở bên cạnh. Bà có một gương mặt khắc khổ và ít khi chớp mắt, vì thế Olanna thấy rờn rợn bởi cái nhìn trừng trừng của bà khi hai người nói chuyện lần đầu tiên.
"Xin chào cô, nno", bà nói. "Chồng cô không ở đây sao?"
"Anh ấy đang ở nơi làm việc", Olanna trả lời.
"Tôi muốn gặp ông ấy trước khi mấy người kia tìm đến, vì mấy đứa con của tôi."
"Con của bà làm sao?"
"Ông chủ nhà gọi ông ấy là bác sĩ."
"Ồ, không phải thế đâu. Anh ấy là tiến sĩ chứ không phải là bác sĩ."
Đôi mắt lạnh lẽo không hiểu của bà Oji như xuyên qua người Olanna.
"Anh ấy là tiến sĩ, chỉ chuyên viết sách thôi", Olanna nói, "anh ấy không biết chữa bệnh".
"Ồ!" Nét mặt của bà Oji không thay đổi. "Mấy đứa con của tôi bị suyễn. Ba đứa chết trước khi chiến tranh bắt đầu. Còn lại ba đứa."
"Tôi rất tiếc. Ndo", Olanna nói.
Bà Oji nhún vai và sau đó bảo cho nàng biết láng giềng là những tên ăn trộm đại tài. "Nếu cô để một cái bếp dầu trong nhà bếp, khi cô trở ra, dầu sẽ không còn. Nếu cô để xà phòng trong nhà tắm, sẽ mất tiêu. Nếu cô phơi quần áo mà quên trông chừng, chúng sẽ không cánh mà bay."
"Phải rất cẩn thận", bà nói. "Và khóa cửa ngay cả khi cô chỉ đi tiểu."
Olanna cảm ơn bà và ước gì có thể giúp bà, ước gì Odenigbo thực sự là một bác sĩ có thể chữa bệnh. Nàng cảm ơn mấy người hàng xóm đã đến chào và trò chuyện đôi câu. Có nhiều người trong sân quá; có một gia đình mười sáu người ở trong căn phòng cạnh phòng bà Oji. Nền nhà tắm thì ướt nhoét vì có quá nhiều đất bùn tróc ra từ thân thể của nhiều người. Cầu tiêu nồng nặc mùi của những người xa lạ. Những buổi chiều ẩm ướt khi đủ các loại mùi hôi hám dày đặc lơ lửng trong không khí ẩm thấp, Olanna thèm có một cái quạt điện. Căn nhà cũ của nàng ở khu khác của thị trấn có điện đến tám giờ tối, nhưng ở đây không có điện. Nàng mua mấy cái đèn dầu làm bằng hộp sữa. Khi nào Ugwu thắp đèn, Bé By kêu lên một cách thích chí, chạy đến bên ngọn đèn. Olanna nhìn con bé và thầm mừng là con bé không nhìn việc dọn nhà thêm một lần và cuộc sống mới bằng cặp mắt sợ hãi; thay vào đó con bé chơi với bạn mới Adanna mỗi ngày, hét lên, "Chạy trốn!", rồi cười ngặt nghẽo và nấp sau những tàu lá chuối để trốn những cái máy bay tưởng tượng. Tuy vậy, Olanna lo rằng, Bé By sẽ nhiễm cái giọng Umuahia quê kệch của Adanna, hay là mấy căn bệnh ngoài da lây từ những vết nhiễm trùng mưng mủ trên cánh tay cô bé hoặc từ đám ruồi đang bu quanh con chó Bingo gầy còm của Adanna.
Ngày đầu tiên Olanna và Ugwu nấu ăn trong nhà bếp, mẹ của Adanna đến và chìa ra một cái bát sành, nói, "Làm ơn cho tôi một ít xúp".
"Không, chúng tôi không có đủ ăn", Olanna nói. Rồi nàng nghĩ đến cái áo váy duy nhất của Adanna làm bằng vải bao bố đựng thực phẩm cứu trợ, vì thế chữ BỘ in ở đằng sau còn chữ T thì bị chui vào đường may nối, nàng múc một muỗng xúp lỏng không có thịt vào trong cái bát sành. Ngày hôm sau mẹ của Adanna đến và xin một ít garri, Olanna cho chị ta nửa bát. Ngày thứ ba, chị ta vào trong bếp lúc có đầy những người phụ nữ khác và lại xin Olanna xúp.
"Đừng có cho bà ta thức ăn nữa!" Bà Oji hét to lên. "Bà ta luôn làm như vậy với những người mới đến. Bà ta nên đi trồng khoai mì và nuôi gia đình mình chứ đừng quấy rầy người khác như thế! Nói cho đúng, bà ta là dân Umuahia! Bà ta không phải là dân tị nạn như chúng ta. Tại sao bà ta có thể xin người tị nạn thức ăn cơ chứ?" Bà Oji rít thật to và tiếp tục giã quả cọ trong cối. Động tác thành thục cộng với nét mặt gầy gò xương xẩu của bà khiến Olanna như bị thôi miên. Nàng chưa bao giờ thấy bà Oji mỉm cười.
"Nhưng không phải đám tị nạn các người đã ăn hết thức ăn của chúng tôi sao?" Mẹ Adanna nói.
"Im cái mồm thối của bà đi!" Bà Oji nói. Và mẹ của Adanna im ngay lập tức, như thể chị ta biết là không thể nào cãi tay đôi với bà Oji, một người nói nhanh, chói tai tựa súng liên thanh, không bao giờ thiếu từ để dùng và nhất là cái tốc độ bà có thể nói.
Buổi chiều, khi bà Oji cãi nhau với chồng, giọng của bà vang khắp sân. "Đồ cừu thiến! Ông dám tự gọi ông là đàn ông à, ông là thằng đào ngũ! Nếu tôi nghe thêm một lần nữa ông nói với người ta là ông bị thương trên chiến trường, tôi sẽ gọi lính và chỉ cho họ biết ông đang trốn ở đâu!"
Cơn giận của bà là chuyện thường tình trong mảnh sân này. Cũng như những lời cầu nguyện oang oang của mục sư Ambrose khi ông ta đi tới đi lui trong sân. Cũng như tiếng dương cầm trong căn phòng bên cạnh nhà bếp. Olanna thảng thốt khi nghe thấy những âm thanh buồn bã; bản nhạc thật trong sáng và được chơi một cách chậmrãi: tự tin vang lên, tràn ngập không gian khiến khóm chuối đang lắc lư cũng lặng ngừng.
"Đó là Alice", bà Oji nói. "Cô ta đến đây khi Enugu thất thủ. Lúc trước cô ta chẳng nói chuyện với ai cả, ít ra bây giờ cô ta còn trả lời khi có người chào. Cô ta sống một mình trong gian phòng ấy. Cô ta không bao giờ ra ngoài, cũng chẳng nấu nướng gì cả. Không ai biết cô ta ăn gì. Những lần chúng tôi đi lùng sục, cô ta nghĩ mình là bà lớn nên chẳng chịu tham gia cùng. Tất cả mọi người trong khu nhà này đều đi rà soát bụi rậm, ngõ ngách để xem có kẻ địch lẩn trốn hay không nhưng cô ta không thèm ló mặt ra khỏi cửa. Có vài người phụ nữ nói là họ sẽ báo cáo với dân quân."
Tiếng nhạc vẫn trầm bổng, nghe như Beethoven, nhưng Olanna không chắc. Odenigbo có thể nhận ra. Tiếng đàn chuyển sang phần cao trào đầy cuồng nộ rồi bỗng ngân vút lên, vút lên nữa trước khi tắt lặng. Alice ra khỏi phòng của mình. Dáng người nhỏ nhắn, mảnh dẻ làm Olanna thấy mình to quá khổ, ngượng nghịu đứng nhìn cô; có một vẻ gì như trẻ con ở cô gái da màu này, gần như trong suốt với hai bàn tay nhỏ xíu.
"Xin chào cô", Olanna nói. "Tôi là Olanna. Chúng tôi vừa mới dọn vào căn phòng ấy."
"Xin chào. Tôi có gặp cô bé con của chị." Cái bắt tay của Alice rất khẽ khàng, cứ như là cô ta quá quan tâm đến bản thân, như thể không bao giờ cô ta động chạm quá mạnh vào mình.
"Cô chơi đàn hay quá", Olanna nói.
"Ồ, tôi chơi tồi lắm." Alice lắc đầu. "Chị ở đâu đến đây?"
"Trường Đại học Nsukka. Còn cô?"
Alice ngập ngừng. "Tôi đến từ Enugu."
"Chúng tôi có bạn ở đó. Cô có quen ai ở Đại học Mỹ thuật Nigeria không?"
"Ồ, nhà tắm có chỗ rồi." Cô ta quay người đi luôn. Cử chỉ đường đột của Alice làm Olanna ngạc nhiên. Khi trở ra, cô ta đi qua, khẽ chào và vào trong phòng. Không lâu sau, Olanna nghe tiếng dương cầm, một khúc nhạc chậm buồn, và nàng thèm được băng đến mở cửa phòng Alice, ngắm cô ta chơi đàn.
Nàng thường xuyên nghĩ về Alice, cái tính chất mỏng manh qua hình dáng nhỏ nhắn và màu da trắng nhợt của cô ta, rồi sức mạnh phi thường trong cách cô ta chơi đàn. Khi nàng tập hợp Bé By, Adanna và các đứa trẻ khác trong khu nhà rồi đọc cho chúng nghe, nàng hy vọng Alice sẽ ra ngoài, tham gia cùng nàng. Nàng tự hỏi không biết Alice có thích Tân nhạc không. Nàng rất muốn được trò chuyện với Alice về âm nhạc, nghệ thuật và chính trị. Nhưng Alice rời phòng chỉ để đi đến nhà tắm một cách vội vàng và không đáp lời khi Olanna gõ cửa phòng cô. "Tôi phải đi ngủ đây", sau đó cô ta trả lời, nhưng không mời Olanna lần khác trở lại.
Cuối cùng, họ lại gặp nhau ở chợ. Vừa hừng đông và trời vẫn mờ sương, Olanna thả bộ trong sương lạnh ướt, dưới tán cây rậm xanh rì của rừng cây, bước tránh những rễ cây lớn.
Nàng trả giá nhỏ nhẹ nhưng cương quyết với người bán hàng trước khi nàng mua khoai mì có vỏ hơi hồng hồng mà có lần nàng đã tưởng là nó có chất độc, bởi vì màu hồng tươi quá, cho đến khi bà Muokelu bảo đảm với nàng là nó không độc. Có tiếng chim kêu quang quác trên ngọn cây. Thỉnh thoảng một chiếc lá nhẹ nhàng rơi xuống. Nàng đứng trước một cái bàn có những miếng thịt gà sống màu xám và tưởng tượng là mình chộp vài miếng rồi chạy đi thật nhanh. Nếu nàng mua thịt gà thì sẽ hết tiền, không thể mua gì khác nên nàng mua bốn con ốc sên cỡ trung bình. Mấy con ốc len giá rẻ hơn nhưng nàng không mua vì nàng không nghĩ là chúng lại có thể làm thức ăn; đối với nàng, ốc chỉ là đồ chơi của trẻ con ở quê. Khi nàng bắt đầu ra về thì nàng thấy Alice.
"Chào Alice."
"Chào chị."
Olanna định ôm chào cô ta, cái ôm khẽ bình thường, nhưng Alice giơ tay ra để bắt tay với một vẻ xa cách, như thể họ không phải là láng giềng.
"Tôi không mua nổi muối, kiếm không ra", Alice nói. "Còn những kẻ đẩy chúng ta vào hoàn cảnh này thì lại có bao nhiêu muối, tùy ý họ."
Olanna ngạc nhiên; dĩ nhiên cô ta không thể tìm mua muối ở đây. Hầu như ở đâu cũng không có muối. Alice có vẻ chỉn chu và nhỏ bé trong một bộ váy len có dây lưng khiến Olanna nghĩ đến một cửa hàng ở London. Không có vẻ gì giống một người phụ nữ Biafra đi chợ trong rừng lúc hừng đông.
"Họ nói người Nigeria bỏ bom và bỏ bom liên tục ở Uli, cả tuần nay không một máy bay tiếp tế nào có thể đáp xuống."
"Vâng, tôi cũng nghe thấy thế." Olanna nói. "Cô có về nhà không?"
Alice nhìn chỗ khác, hướng vào trong rừng. "Tôi chưa về ngay lúc này đâu."
"Tôi sẽ chờ cô và chúng ta cùng đi bộ về."
"Thôi chị đừng bận tâm", Alice nói. "Chào chị."
Alice quay người và đi trở lại một dãy quầy hàng liền nhau, vẻ kiêu kỳ đỏm dáng như là cô bị ai xui dại rằng phải đi như thế mới đúng là "quý bà". Olanna đứng nhìn theo cô ta, tự hỏi đằng sau cái vẻ bề ngoài đó là gì, trước khi nàng về nhà. Nàng ghé trung tâm tiếp tế để xem có ít thức ăn nào không, hy vọng có chiếc máy bay nào cuối cùng cũng tìm cách hạ cánh. Khu nhà vắng tanh và nàng nhìn vào bên trong cái cổng bị khóa kín một lúc. Có một tấm biển bị rách mất một nửa được treo trên tường. Có người lấy than gạch gạch hàng chữ WCC: WORLD COUNCIL OF CHURCHES (Hội Đồng Nhà Nhà Thờ Thế Giới) và viết nguệch ngoạc: WCC: WAR CAN CONTINUE (Chiến Tranh Có Thể Tiếp Diễn).
Nàng vừa đến gần nhà máy xay xát thì có một người phụ nữ chạy ra khỏi một căn nhà bên cạnh, khóc, đuổi theo hai người lính đang kéo một bé trai khá cao. "Tôi nói là hãy bắt tôi!", bà hét to. "Bắt tôi thay nó đi! Chúng tôi đã chẳng hy sinh Abuchi cho các người còn gì?" Hai người lính chẳng thèm để ý đến bà ta còn thằng bé cố ưỡn thẳng người như thể không tin nổi vào chính mình, rằng nó sẽ quay lại nhìn mẹ.
Olanna đứng sang một bên lúc họ đi qua, về nhà và nổi cáu khi thấy Ugwu đứng trước cửa nói chuyện với mấy ông bà hàng xóm. Bất cứ người nào đi bắt lính nghĩa vụ cũng có thể nhìn thấy hắn ở đó.
"Bia nwoke m, đầu óc em có phải là bã đậu không đấy? Tôi đã chẳng bảo là không được ra ngoài đường rồi kia mà?" Nàng nghiến răng, rít lên.
Ugwu đỡ lấy giỏ của nàng và nói nhỏ, "Xin lỗi, thưa cô".
"Bé By đâu rồi?"
"Ở phòng của Adanna."
"Đưa chìa khóa cho tôi!"
"Ông Chủ ở trong nhà, thưa cô."
Olanna liếc đồng hồ đeo tay của mình mặc dù nàng không cần phải làm thế. Giờ này còn quá sớm sao Odenigbo đã đi làm về. Chàng đang ngồi trên giường, lưng còng xuống, vai rung mạnh.
"O gini? Có chuyện gì thế?" Nàng hỏi.
"Không có gì cả."
Nàng đến bên chàng. "Ebezi na, đừng khóc nữa." Nàng nói nhẹ nhàng. Nhưng nàng không muốn chàng ngừng khóc. Nàng muốn chàng cứ khóc mãi, khóc mãi cho đến khi chàng nuốt trôi được nỗi đau đang tắc nghẹn trong cổ, cho đến khi chàng xóa sạch niềm thương đau. Nàng vòng tay ôm lấy chàng, lắc nhẹ cho đến khi cả người chàng đang gồng căng được thả lỏng ra và chàng tựa vào nàng. Tay chàng ôm vòng qua người nàng. Tiếng nức nở của chàng nghe rõ hơn. Mỗi hơi thở chàng hít vào lại làm nàng liên tưởng đến Bé By; chàng khóc cũng giống như đứa con gái của chàng.
"Anh chưa bao giờ chu đáo với mẹ cả", cuối cùng chàng nói.
"Không sao", nàng thì thầm. Chính nàng cũng thầm ước là mình cố gắng nhiều hơn để hòa thuận với mẹ chàng trước khi rơi vào sự hậm hực ghét bỏ một cách dễ dàng. Có nhiều cái nàng có thể làm khác đi nếu có cơ hội làm lại lần nữa.
"Chúng ta chưa bao giờ chủ động nhớ đến cái chết", Odenigbo nói. "Chúng ta sống một cuộc sống như thế này là do chúng ta không nhớ rằng mình cũng sẽ chết. Chúng ta đều phải chết."
"Vâng." Olanna nói. Vai chàng như chùng xuống.
"Nhưng liệu đó có phải là toàn bộ giá trị của sự sống còn? Rằng đời sống là trạng thái phủ nhận cái chết?" Chàng hỏi.
Olanna ôm chàng chặt hơn.
"Anh hằng suy nghĩ đến chuyện tham gia quân đội, nkem." Chàng nói. "Có thể anh nên tham gia Lữ đoàn S mới thành lập của Lãnh Tụ."
Olanna im lặng một lúc lâu. Nàng cố dằn nén cái ý nghĩ tóm lấy chòm râu mới mọc của chàng mà giật cho bật máu ra. "Anh nên tìm một cái cây thật chắc và một sợi dây, Odenigbo, vì đó là cách tự tử dễ dàng hơn." Nàng nói.
Chàng quay lại để nhìn nàng, nhưng nàng ngoảnh đi và đứng dậy, đến gần cái vặn to radio, một bài hát của Beatles ngân vang khắp phòng. Nàng không thể bàn thêm về chuyện gia nhập quân đội nữa.
"Mình nên đào một cái hầm trú ẩn", chàng nói và đi ra cửa. "Đúng, chắc chắn chúng ta cần một cái hầm trú ẩn ở đây."
Vẻ trống rỗng trong ánh mắt và bờ vai rũ xuống của chàng làm nàng lo ngại. Nếu chàng phải làm một cái gì đó, tốt hơn hết nên để chàng xây một cái hầm tránh bom, chứ không phải là gia nhập quân đội.
Bên ngoài, chàng đang nói chuyện với ông Oji và mấy người đàn ông khác đứng gần cổng vào.
"Thế anh không nhìn thấy mấy cây chuối đó sao?" Ông Oji nói. "Từ trước đến giờ cứ mỗi lần bị máy bay tập kích, chúng tôi lại chạy vào đó trốn. Và chẳng có chuyện gì xảy ra với chúng tôi. Chúng ta không cần phải đào một cái hầm trú ẩn. Thân cây chuối có thể che chắn được bom đạn.
Ánh mắt Odenigbo cũng lạnh tanh như câu trả lời của chàng. "Một tên đào ngũ thì biết gì về hầm tránh bom?"
Chàng bỏ đám đàn ông ở đó. Một lúc sau, chàng và Ugwu bắt đầu chọn địa điểm, đào một khoảnh đằng sau dãy nhà. Không lâu sau, đám thanh niên ra đào cùng và khi mặt trời lặn, mấy ông già cũng ra phụ, kể cả ông Oji. Olanna nhìn họ làm việc và tự hỏi không biết họ nghĩ gì về Odenigbo. Khi mấy người đàn ông kia cười đùa ầm ĩ, chàng không cười. Chàng chỉ nói chuyện về công việc. Không, mba, đào sâu hơn một chút. Vâng, để cho nó đứng đó: Không, dịch ra một chút xíu. Áo may ô của chàng đẫm mồ hôi dính vàọ người và lần đầu tiên nàng nhận thấy chàng đã sụt cân rất nhiều, ngực chàng lõm sâu.
Đêm đó, nàng nằm áp má vào má chàng. Chàng đã chẳng nói lý do gì khiến chàng ở nhà khóc mẹ. Nàng hy vọng, dù gì đi nữa thì nó cũng có thể nới lỏng cái nút đã thắt chặt trong lòng chàng. Nàng hôn cổ, hôn tai chàng, theo cái cách luôn khiến chàng kéo nàng vào lòng thật chặt những đêm Ugwu ngủ ngoài mái hiên. Nhưng chàng đẩy tay nàng ra và nói, "Anh mệt lắm, nkem". Trước đây nàng chưa bao giờ nghe chàng nói như thế với nàng. Người chàng nồng mùi mồ hôi và nàng chợt cảm thấy thèm cái mùi Old spice đã bỏ lại Nsukka.
Ngay cả phép lạ của Abagana 1 cũng không làm chàng thanh thản hơn. Trước kia, họ có thể tổ chức tiệc mừng như là một chiến thắng của riêng họ. Họ có thể ôm chầm lấy nhau, hôn nhau rồi nàng sẽ tự làm cho mình nhột nhạt bằng cách cọ má vào bộ râu mới mọc của chàng. Nhưng giờ đây khi nghe đài phát thanh loan tin, chàng chỉ nói, "Tuyệt, tuyệt", rồi sau đó nhìn hàng xóm ca hát nhảy múa với vẻ mặt vô hồn.
Bà Oji bắt đầu hát, "Onye ga-enwe mmeri?", và các bà khác hát đối theo, "Biafra ga-enwe mmeri, igba!". Họ tạo thành một vòng tròn rồi lắc lư với những động tác nhịp nhàng và dậm chân thật mạnh khi họ nói igba! Bụi bay lên từng đợt rồi lắng xuống. Olanna gia nhập cùng họ, lời hát làm nàng cảm thấy phấn khích – Ai sẽ thắng? Biafra sẽ thắng, igba! – và ước là Odenigbo không chỉ ngồi ở đó với vẻ mặt vô hồn.
"Olanna múa giống như mấy người da trắng!" Bà Oji nói, cười ngặt nghẽo. "Cái mông của cô không lắc chút nào cả!"
Đó là lần đầu tiên Olanna nhìn thấy bà Oji cười. Đám đàn ông kể đi kể lại câu chuyện – có người nói là lực lượng Biafra đã phục kích và bắn một đoàn quân xa gồm một trăm cái xe, trong khi người khác nói thật ra có đến một ngàn chiếc xe vũ trang và xe vận tải bị phá hủy – nhưng họ đều đồng ý ở điểm nếu đoàn quân xa đến được địa điểm như dự định, quân đội Biafra chắc là bị tiêu diệt. Radio được vặn rõ to, để ngoài hàng hiên, trước tất cả các phòng. Tin tức được phát đi phát lại suốt ngày và cứ mỗi lần bản tin chấm dứt, rất nhiều người tham gia phụ họa, bảo vệ Biafra cho thế giới tự do là nhiệm vụ phải làm! Ngay cả Bé By cũng thuộc câu này. Con bé lặp lại khi vỗ đầu con Bingo. Alice là người duy nhất không ra ngoài và Olanna tự hỏi không biết cô ta đang làm gì.
"Alice nghĩ là mình cao quý hơn tất cả mọi người trong sân này", bà Oji nói. "Nhìn cô kìa. Người ta đã chẳng bảo cô là con của Ông Lớn sao? Nhưng cô sống có tình nghĩa với mọi người. Còn cô ta tưởng mình là ai nào?"
"Có thể cô ấy đang ngủ."
"Ngủ là phải rồi. Cái con Alice đó là kẻ phá hoại. Trông mặt nó biết liền. Con ấy làm việc cho quân giặc đấy."
"Nhũng kẻ phá hoại tự viết lên mặt chúng vào lúc nào?" Olanna bật cười, hỏi.
Bà Oji nhún vai, như thể bà chẳng buồn thuyết phục Olanna cái điều mà bà biết chắc như đinh đóng cột.
Vài giờ sau khi sân của khu nhà trở nên vắng lặng, tài xế của Giáo sư Ezeka đến. Anh ta đưa cho Olanna một mẩu giấy rồi đi vòng ra sau mở cốp xe và bê ra hai thùng giấy. Ugwu vội vàng mang vào trong nhà.
"Cảm ơn anh", Olanna nói. "Cho tôi gửi lời chào ông chủ của anh."
"Vâng, thưa bà." Anh ta vẫn đứng đó.
"Có chuyện gì nữa không?"
"Làm ơn, thưa bà, tôi chờ bà kiểm tra lại xem bà đã nhận đủ các thứ chưa."
"Ồ." Nét chữ viết tay nguệch ngoạc của Ezeka đã liệt kê tất cả những thứ ông gửi trên tờ giấy, phía trước. Xin kiểm tra để chắc chắn tài xế không đụng chạm đến món nào được viết vội vàng ở phía sau. Olanna vào trong đếm lại xem có bao nhiêu hộp sữa đặc, trà, bánh ngọt, Ovaltine, cá mòi, đường hộp và muối – nàng không khỏi buột miệng khi thấy cả giấy vệ sinh, ít nhất Bé By cũng không phải dùng báo cũ một thời gian. Nàng viết nhanh một lá thư ngắn cảm ơn nhiều nhiều và đưa cho anh tài xế; nếu Ezeka đã làm điều này để chứng tỏ nhiều hơn sự cao quý của mình thì nó cũng chẳng làm giảm đi chút nào sự vui mừng của nàng. Ugwu còn có vẻ khoái chí hơn cả nàng.
"Giống như ở Nsukka vậy, cô à!" Hắn nói. "Nhìn hộp cá mòi kìa."
"Bỏ một ít muối vào trong túi. Một phần tư của gói đó."
"Cô cho ai vậy?" Ugwu nhìn một cách ngờ vực.
"Alice. Và đừng nói cho hàng xóm biết mình có gì? Nếu có ai hỏi, nói là bạn cũ gửi sách cho ông chủ."
"Vâng, thưa cô."
Olanna cảm thấy ánh mắt bất bình của Ugwu dõi theo nàng lúc mình cầm gói muối qua phòng của Alice. Tiếng gõ cửa của nàng không được đáp lại. Nàng vừa quay đi thì Alice mở cửa.
"Một người bạn của chúng tôi mang cho một ít nhu yếu phẩm", Olanna nói, đưa cho cô gói muối.
"Hêy, tôi không thể lấy hết chỗ này", Alice nói, lúc cô thò tay ra cầm lấy. "Cảm ơn chị. Ồ, cảm ơn chị rất nhiều!"
"Chúng tôi không gặp ông ấy đã lâu. Thật ngạc nhiên khi nhận được."
"Và chị lại quan tâm đến tôi. Chị không cần phải làm thế." Alice ép chặt gói muối vào ngực. Mắt cô có quầng đen với những gân xanh hiện lên dưới làn da nhợt nhạt; Olanna tự hỏi không biết cô ta có bị ốm không.
Nhưng Alice trông có vẻ khác, làn da tươi tắn hơn khi chiều hôm ấy cô ra ngoài và ngồi cạnh Olanna ngoài hàng hiên, chân duỗi dài. Có lẽ cô đã đánh một ít phấn nhạt. Hai bàn chân của cô nhỏ xíu. Thoang thoảng có một mùi kem dưỡng da quen thuộc. Bà Adanna đi qua và nói, "Ê! Alice, chúng tôi chưa bao giờ thấy cô ngồi ở ngoài này!", và Alice nhoẻn miệng nở một nụ cười. Mục sư Ambrose đang cầu nguyện ở gần mấy cây chuối. Cái áo thụng dài tay màu đỏ của ông sáng rực dưới nắng chiều đang tàn. "Đức Jehovah hủy diệt quân thù bằng ngọn lửa của Thánh Thần! Đức Jehovah chiến đấu cho chúng ta!"
"Chúa chiến đấu cho Nigeria", Alice nói. "Chúa luôn chiến đấu cho bên nào có nhiều vũ khí."
"Chúa ở bên chúng ta!" Olanna lấy làm ngạc nhiên bởi giọng gắt gỏng của chính mình. Alice có vẻ giật mình và từ chỗ nào đó đằng sau nhà, Bingo đang rít lên.
"Tôi chỉ nghĩ là Chúa chiến đấu cho bên nào có lẽ phải", Olanna nói thêm một cách dịu dàng.
Alice đập một con muỗi. "Ambrose giả vờ làm mục sư để tránh nhập ngũ đấy."
"Vâng, tôi cũng nghĩ thế." Olanna mỉm cười. "Cô có biết cái nhà thờ kỳ lạ trên đường Ogui ở Enugu không? Ông ta giống như một trong mấy người mục sư ở đấy."
"Tôi không hẳn là đến từ Enugu." Alice co đầu gối lên. "Tôi đến từ Asaba. Sau khi học xong Đại học Sư phạm ở đó, tôi đi đến Lagos. Tôi làm việc ở Lagos trước khi chiến tranh xảy ra. Tôi gặp một Đại tá trong quân đội và chỉ trong vòng vài tháng, anh ta cầu hôn tôi nhưng anh ta không bảo cho tôi biết là anh ta đã kết hôn và vợ anh ta đang ở nước ngoài. Tôi có thai. Và anh ta cứ trì hoãn chuyện về Asaba để kết hôn cho đúng nghi lễ. Nhưng tôi tin khi anh ta nói rằng anh ta rất bận và đang chịu áp lực từ tất cả những chuyện xảy ra trên đất nước. Sau khi người ta giết sĩ quan Igbo, anh ta trốn thoát và tôi đến Enugu với anh ta. Tôi sinh con ở Enugu. Tôi đang ở với anh ta tại Enugu thì vợ anh ta về nước, ngay trước khi chiến tranh xảy ra, và anh ta đã bỏ tôi. Rồi con tôi chết. Rồi Enugu mất. Và tôi ở đây."
"Tôi rất tiếc."
"Tôi là con nhỏ ngu ngốc. Sao tôi lại tin những lời gian dối của anh ta?"
"Đừng nói thế."
"Chị may mắn lắm. Chị có chồng và con của chị. Tôi không biết chị làm thế nào để có thể giữ được mái ấm, dạy dỗ trẻ em, và có tất cả mọi thứ. Tôi ước gì tôi cũng có thể giống như chị."
Sự ngưỡng mộ của Alice làm nàng ngạc nhiên và ấm lòng. "Tôi chẳng có gì đặc biệt cả", Olanna nói.
Mục sư Ambrose trở nên cuồng nhiệt. "Quỷ sứ, ta bắn nhà ngươi! Sa tăng, ta bỏ bom ngươi!"
"Chuyến di tản khỏi Nsukka của chị như thế nào?" Alice hỏi. "Chị có mất mát nhiều không?"
"Tất cả mọi thứ. Chúng tôi chạy rất vội vã."
"Tôi cũng bị như thế ở Enugu. Tôi không biết tại sao họ không nói sự thật cho dân chúng biết để mọi người có thể chuẩn bị. Người của Bộ Thông tin cho xe tuyên truyền chạy khắp thành phố loa loa nói với chúng tôi rằng mọi chuyện đều tốt đẹp, chỉ có lính của họ tập bắn pháo thôi. Nếu họ nói sự thật thì dân chúng đã chuẩn bị chu đáo hơn và chúng ta đã không bị mất nhiều tài sản như thế."
"Nhưng cô còn mang được cái dương cầm theo." Olanna không thích cái cách Alice dùng chữ "họ", làm như cô không phải cùng hội cùng thuyền với nàng.
"Đó là thứ duy nhất tôi mang theo được từ Enugu. Anh ta gửi tiền và một chiếc xe tải để giúp tôi vào chính cái ngày Enugu thất thủ. Lương tâm tội lỗi của anh ta dằn vặt đấy mà, về sau người tài xế nói cho tôi biết vài tuần trước đó vợ chồng anh ta đã mang hết đồ đạc về quê. Chị tưởng tượng thử xem!"
"Cô có biết bây giờ anh ta ở đâu không?"
"Tôi không muốn biết. Nếu có dịp gặp lại anh ta, ezi okwu m, tôi sẽ giết anh ta bằng chính đôi tay này." Alice giơ hai bàn tay bé xíu của mình lên. Lần đầu tiên cô ta dùng tiếng Igbo với thổ âm Asaba, chữ F nghe như chữ W. "Lúc nào tôi cũng nghĩ lại những điều tôi đã trải qua vì anh ta; tôi bỏ công việc của mình ở Lagos, tôi liên tục nói dối gia đình tôi, tôi bỏ những người bạn đã nói với tôi là anh ta không thật lòng." Cô cúi xuống nhặt cái gì đó trên cát. "Và anh ta không thể làm được chuyện ấy cho ra hồn."
"Gì cơ?"
"Anh ta nhào lên người tôi, rên è è như một con dê và thế là xong." Cô giơ ngón tay lên. "Với cái của bé xíu như thế này. Rồi anh ta mỉm cười khoái trá mà chẳng bao giờ nghĩ là không biết tôi có rõ lúc nào anh ta bắt đầu và lúc nào anh ta kết thúc. Ôi đàn ông! Đàn ông thật là hết thuốc chữa!"
"Không phải đàn ông nào cũng thế. Chồng tôi biết làm chuyện ấy và với một cái như thế này." Olanna giơ một cái nắm tay thật chặt. Cả hai cùng cười ngất và nàng cảm thấy giữa hai người có một sự gắn bó thật bình dị, thú vị của đàn bà với nhau.
Olanna chờ Odenigbo về nhà để nàng có thể kể cho chàng nghe tình bạn mới có giữa nàng và Alice, về những điều nàng vừa mới kể cho Alice. Nàng muốn chàng về nhà và kéo ghì nàng vào lòng theo cái cách mà đã lâu lắm rồi chàng không làm. Nhưng khi từ quán rượu Tanzania về, chàng đem theo một khẩu súng, loại súng hai nòng, dài, đen, lạnh ngắt đặt nó lên giường.
"Gini bu ife a? Cái gì vậy?" Olanna hỏi.
"Có người ở Bộ mang cho anh. Cũ rồi, nhưng có nó cũng tốt, để dành khi hữu sự."
"Em không muốn để súng trong nhà."
"Chúng ta đang có chiến tranh. Ở đâu chả có súng." Chàng cởi quần dài và quấn một tấm quấn xung quanh thắt lưng trước khi cởi áo.
"Hôm nay em nói chuyện với Alice."
"Alice nào?"
"Cô hàng xóm chơi dương cầm."
"À, ừ." Chàng nhìn tấm ri đô.
"Anh có vẻ mệt", nàng nói. Điều nàng thật sự muốn nói là, Anh có vẻ buồn. Giá như chàng có việc để bận rộn, giá như chàng có việc để lo toan vào những lúc nỗi đau buồn ngấm ngầm gặm nhấm chàng thì tốt hơn.
"Anh không sao cả", chàng nói.
"Em nghĩ anh nên đến gặp Ezeka. Nhờ ông ta giúp anh chuyển sang chỗ khác. Ngay cả nếu như không phải thuộc Bộ của ông ấy, ông ấy chắc cũng phải quen và có ảnh hưởng với các Bộ khác."
Odenigbo mắc cái quần của chàng lên một cái đinh đóng trên tường.
"Anh có nghe em nói không?" Olanna hỏi.
"Anh không muốn nhờ Ezeka."
Nhìn nét mặt chàng, nàng nhận ra chàng thất vọng. Nàng đã quên rằng chàng là người có những lý tưởng cao đẹp. Chàng là người sống nguyên tắc không xin xỏ ân huệ của bạn bè quyền chức.
"Anh có thể phục vụ Biafra hữu hiệu hơn nếu anh làm việc ở nơi nào đó mà anh có thể phát huy trí tuệ và khả năng của mình", nàng nói.
"Ở Bộ Nhân lực anh cũng phục vụ Biafra đủ đắc lực rồi."
Olanna liếc nhìn gian phòng bừa bãi của mình – giường, hai củ khoai, tấm nệm dựng lên vách tường bẩn thỉu, thùng và các loại túi xếp ở góc phòng, cái bếp dầu nàng mang vào trong nhà bếp chỉ khi nào cần thiết – và cảm thấy một nỗi sợ hãi đang trào dâng. Nàng khao khát được chạy, chạy đi thật xa cho đến khi nàng lìa xa tất cả.
Họ ngủ xoay lưng lại với nhau. Chàng đã đi trước khi nàng thức giấc. Nàng rờ lên chỗ chàng nằm và tận hưởng chút xíu hơi ấm vẫn còn vương lại trên tấm ga trải giường. Nàng sẽ tự mình đi gặp Ezeka. Nàng sẽ nhờ ông làm cái gì đó giúp Odenigbo. Nàng ra nhà tắm và nói "Xin chào", "Sáng nay ông bà có khỏe không?", với hàng xóm trên lối nàng đi qua. Bé By đang chơi với tụi trẻ ở gần bụi chuối và lắng nghe Oji kể chuyện ông ta đã bắn hạ một máy bay của kẻ thù ở Calabar chỉ với cây súng lục. Đám trẻ con lớn hơn đang quét sân, vừa quét vừa hát.
Biafra, kunie, buso Nigeria agha,
Anyi emelie ndi axvusa
Nai na-amaro chukwu,
Tigbue fa, zogbue fa,
Nwelu, nwude Gowon.
Khi tiếng hát của chúng ngừng, lời cầu nguyện buổi sáng của mục sư nghe càng to hơn. "Chúa phù hộ cho Lãnh Tụ! Chúa cho Tanzania và Gabon sức mạnh! Chúa hủy diệt Nigeria, Anh quốc, Ai Cập, Algeria và Nga. Nhân danh sức mạnh của Thiên Chúa!"
Có vài người hét Amen! từ trong phòng của họ. Mục sư Ambrose giơ quyển Kinh Thánh lên cao, như là một phép lạ thật sự có thể từ trên trời rơi xuống và hét to những lời vô nghĩa: she baba she baba she baba.
"Đừng lảm nhảm nữa, mục sư Ambrose và hãy đi mà tham gia quân đội ấy! Cái màn nói ấm a ấm ớ của ông thì giúp gì được cho chính nghĩa chứ?" Bà Oji nói. Bà đang đứng trước phòng mình với thằng con trai đội một miếng vải trên đầu, cúi mặt xuống một cái bát bốc hơi nghi ngút. Khi thằng bé ngẩng đầu để lấy hơi, Olanna nhìn cái bát trộn nước tiểu, dầu, lá lẩu và hầm bà lằng những gì chỉ có trời mới biết bà đã trộn vào để chữa bệnh suyễn.
"Ban đêm nó có bị nặng không?" Nàng hỏi bà Oji.
Bà Oji nhún vai. "Cũng nặng nhưng không nặng lắm." Bà quay sang thằng con. "Mày có muốn tao tát cho một cái trước khi mày hít thuốc vào không? Tại sao mày để nó bốc hơi lãng phí như thế?"
Thằng bé lại cúi mặt xuống cái bát.
"Jehovah sẽ tiêu diệt Gowon và Adekunle!" Mục sư Ambrose hét to.
"Im mồm và tham gia quân đội đi!" Bà Oji nói.
Có người nào đó hét vọng ra từ một trong những căn phòng. "Bà Oji, để cho mục sư được yên! Trước tiên là chồng bà nên trở lại quân đội đi bởi vì chính ông ta đã chạy trốn khỏi nơi đó!"
"Ít nhất là ông ấy cũng từng đi lính!" Bà Oji trả đũa thật nhanh. "Trong khi chồng của mấy người run sợ lẩn trốn trong rừng Ohafia như một thằng nhát gan để quân đội không tìm thấy."
Bé By đi đến từ đằng sau nhà; con chó lẽo đẽo theo. "Mẹ Ola! Bingo có thể nhìn thấy linh hồn. Ban đêm khi nó sủa, có nghĩa là nó nhìn thấy linh hồn."
"Linh hồn không có thật, Bé By." Olanna nói.
"Có, có linh hồn."
Những điều Bé By học được quanh đây làm Olanna khó chịu. "Có phải Adanna nói với con thế không?"
"Không, Chukwudi nói cho con biết."
"Adanna đâu rồi?"
"Nó đang ngủ. Nó bị ốm." Bé By nói và bắt đầu xua mấy con ruồi đang bay lởn vởn trên đầu Bingo.
Bà Oji lẩm bẩm, "Tôi đã nói nhiều lần với bà Adanna là con bé không phải bị sốt rét. Nhưng bà ta cứ nhồi cho con bé mấy cái lá thuốc men chẳng tích sự gì. Nếu không ai nói cho bà ấy biết thì tôi sẽ nói: Cái con bé Adanna bị mắc triệu chứng Harold Wilson, ho-ha".
"Triệu chứng Harold Wilson?"
"Con nhỏ bị bệnh suy dinh dưỡng."
Olanna bật cười. Nàng không biết người ta đã đổi tên triệu chứng suy dinh dưỡng thành tên Thủ tướng Anh, chuyện khôi hài tan biến khi nàng đến phòng Adanna. Con bé đang nằm trên tấm đệm, mắt nhắm hờ. Olanna lấy mu bàn tay đặt lên lưng nó để xem nó có bị sốt hay không, mặc dù nàng biết là không. Đáng lẽ nàng phải nhận biết sớm hơn bởi vì bụng con bé rất to và nước da tái xanh hơn mấy tuần trước đây rồi.
"Cái bệnh sốt rét này rất khó chữa."
"Cháu bị suy dinh dưỡng", Olanna nói nhẹ nhàng.
"Suy dinh dưỡng", bà Adanna nhắc lại và nhìn Olanna với ánh mắt đầy vẻ sợ hãi.
"Bà cần phải tìm tôm sông hay sữa."
"Sữa, kwa? Ở đâu bây giờ?" Bà Adanna hỏi. "Nhưng có thuốc chống suy dinh dưỡng ở gần đây. Bà Obike nói cho tôi biết hôm nọ. Để tôi đi lấy một ít."
"Cái gì?"
"Lá thuốc chống bệnh suy dinh dưỡng ấy", bà Adanna nói, dợm bước đi.
Olanna ngạc nhiên khi bà túm cao váy lên và băng qua mấy bụi rậm bên kia đường. Một lúc sau trở lại, tay bà đã cầm một nắm lá xanh dài, mảnh. "Tôi sẽ nấu cháo ngay", bà ta nói.
"Adanna cần có sữa." Olanna nói. "Mấy cái lá này không trị được bệnh suy dinh dưỡng đâu."
"Để cho bà Adanna làm. Mấy cái lá chống bệnh suy dinh dưỡng sẽ hiệu nghiệm nếu bà ta không đun nó quá lâu", bà Oji nói. "Hơn nữa, trung tâm tiếp tế chẳng có cái gì hết. Chẳng lẽ cô không nghe là tất cả trẻ con ở Nnewi đều lăn ra chết sau khi uống sữa cứu trợ à? Kẻ địch đã bỏ thuốc độc vào đấy."
Olanna gọi Bé By, dẫn nó vào trong phòng và cởi quần áo nó ra.
"Ugwu đã tắm cho con rồi", Bé By ngơ ngác nói.
"Biết rồi, biết rồi, cục cưng của mẹ." Olanna nói rồi kiểm tra con bé cẩn thận. Da nó vẫn có màu đen sậm của gỗ mun, tuy nó cũng gầy hơn, và bụng không bị ỏng. Olanna ước gì trung tâm tiếp tế mở cửa và Okoromadu vẫn còn ở đó, nhưng ông ta đã chuyển đi Orlu sau khi Hội đồng Nhà thờ Thế Giới đem công việc của ông giao cho mấy ông mục sư không còn nhà thờ nữa.
Bà Adanna đang nấu lá trong bếp. Olanna lấy một hộp cá mòi và một ít sữa bột trong thùng Ezeka gửi và đem cho bà. "Đừng nói với ai là tôi cho bà cái này. Cho Adanna uống từ từ."
Bà Adanna chụp lấy tay của Olanna. "Cảm ơn cô, cảm ơn cô, cảm ơn cô. Tôi sẽ không nói cho ai hết."
Nhưng bà ta cũng vẫn nói với người khác, bởi vì một lúc sau, khi Olanna đi đến văn phòng của Ezeka, bà Oji nói với theo, "Con tôi bị suyễn và sữa sẽ không giết chết nó đâu!"
Olanna làm ngơ.
° ° °
Nàng đi ra đường chính, đứng dưới một gốc cây. Mỗi lần có xe chạy qua, nàng cố vẫy cho nó dừng lại. Một chiếc xe bảy chỗ gỉ sét dừng lại. Nàng nhận thấy vẻ đểu cáng trong mắt gã lính lái xe trước khi nàng leo lên xe ngồi cạnh gã, vì thế nàng toàn nói tiếng Anh, biết chắc chắn là gã không thể hiểu nàng nói gì. Suốt chuyến đi nàng toàn nói về lý tưởng chính nghĩa rằng xe cùng người tài xế của nàng đang ở tiệm sửa xe. Gã nói rất ít cho đến khi gã thả nàng xuống trước tòa nhà của Bộ. Gã không biết nàng là ai và nàng quen những ai.
Bà thư ký của Giáo sư Ezeka có bộ mặt diều hâu lừ lừ nhìn Olanna, từ bộ tóc giả chải mượt cho đến đôi giày của nàng và nói, "Hiện giờ ông ấy không có ở đây!".
"Thế thì phiền bà gọi điện thoại cho ông ấy ngay lập tức và bảo rằng tôi đang chờ. Tôi tên là Olanna Ozobia."
Bà thư ký nhìn, đầy vẻ ngạc nhiên. "Cái gì?"
"Tôi có cần nhắc lại không?" Olanna hỏi. "Tôi tin là Giáo sư sẽ muốn nghe về việc này. Chỗ nào tôi có thể ngồi chờ trong khi bà gọi cho ông ấy?"
Bà thư ký nhìn nàng chòng chọc và nàng bình thản nhìn lại.
Rồi bà ta yên lặng ra hiệu chỉ vào một cái ghế và nhấc điện thoại. Nửa giờ sau, tài xế của Giáo sư Ezeka đến chở nàng về nhà ông núp trong một con đường kín đáo.
"Tôi nghĩ là một VIP như ông phải sông trong Khu Đặc biệt của Chính quyền, Giáo sư ạ." Olanna nói, sau khi nàng chào ông.
"Ồ, chắc chắn là tôi không ở đó. Rất lộ liễu và dễ trở thành mục tiêu bị đánh bom." Ông vẫn không thay đổi. Cái kiểu cách nghĩ mình cao siêu hơn tất cả mọi người lộ rõ qua giọng nói lúc vẫy tay mời nàng vào và nói nàng chờ ông thu dọn phòng làm việc của mình một chút.
Olanna ít khi gặp bà Ezeka lúc ở Nsukka; bà ta nhút nhát và không có học thức mấy, loại vợ mà người làng của ông đã tìm cho ông, Odenigbo có lần nói thế. Olanna cố gắng giấu vẻ kinh ngạc của mình khi bà Ezeka bước ra và ôm nhẹ nàng hai lần trong căn phòng khách rộng thênh thang.
"Thật tuyệt vời khi được gặp lại những người bạn cũ! Mọi sự tiếp xúc của chúng ta bây giờ đều nặng tính nghi thức, nay một sự kiện trong tòa nhà Chính phủ, mai lại một sự kiện đặc biệt nào." Sợi dây chuyền quấn quanh cổ bà ta, cái mặt bằng vàng trĩu nặng. "Pamela! Đến đây chào cô đi con!"
Con bé bước ra với con búp bê trong tay có vẻ lớn hơn Bé By; nó khoảng tám tuổi. Nó có cặp má phính của mẹ. Cái nơ bằng xa tanh hồng trên tóc nó lắc lư.
"Chào cô", nó nói. Cô bé đang cởi áo con búp bê, giật cái váy khỏi tấm thân bằng nhựa.
"Cháu có khỏe không?" Olanna hỏi.
"Cháu khỏe, cảm ơn cô."
Olanna ngồi lọt thỏm vào sofa nhung đỏ mềm mại. Một căn nhà của búp bê với tất cả mọi thứ đổ bát đĩa, bộ trà rất xinh xắn được dọn ra trên cái bàn ở chính giữa.
"Cô uống gì?" Bà Ezeka hỏi một cách vui vẻ. "Tôi nhớ Odenigbo thích uống brandy. Tôi có một ít brandy rất ngon."
Olanna nhìn bà Ezeka. Bà không thể nhớ được thức uống Odenigbo thích vì bà ta chưa bao giờ đến nhà chàng vào buổi tối với chồng bà.
"Cho tôi một ít nước lạnh." Olanna nói.
"Chỉ nước lạnh thôi sao?" Bà Ezeka hỏi. "Chúng ta có thể dùng cái gì đó sau khi ăn trưa. Bồi!"
Người bồi xuất hiện ngay lập tức, như thể anh ta đã đứng sẵn bên cửa. "Mang nước lạnh và Coke", bà Ezeka nói.
Pamela bắt đầu nhõng nhẽo, vòi vĩnh, tiếp tục kéo quần áo con búp bê.
"Đến đây, để mẹ giúp cho", bà Ezeka nói. Bà quay lại phía Olanna. "Hiện giờ cháu nó đang rất sốt ruột. Cô biết không, đáng lẽ chúng tôi đã ra nước ngoài từ tuần trước. Hai đứa lớn đã đi. Lãnh Tụ cho phép chúng tôi từ lâu rồi. Chúng tôi đáng lẽ sẽ lên một chuyến bay, nhưng không chiếc nào đáp xuống cả. Họ nói là có nhiều máy bay ném bom của Nigeria quá. Cô có thể tưởng tượng không? Hôm qua, chúng tôi chờ ở Uli, bên trong cái ngôi nhà chưa xây xong mà họ gọi là sân bay hơn hai giờ đồng hồ song không có chiếc máy bay nào đáp xuống cả. Nhưng hy vọng là chúng tôi sẽ đi vào Chủ nhật. Chúng tôi sẽ bay tới Gabon và từ đó sang Anh – bằng giấy thông hành của Nigeria, dĩ nhiên rồi! Người Anh đã từ chối công nhận Biafra!" Tiếng cười của bà như một mũi kim sắc nhọn xuyên thẳng vào người, làm dâng lên nỗi căm phẫn trong lòng Olanna.
Người bồi mang nước ra trên một cái khay bạc.
"Anh có chắc là nước lạnh đúng độ không?" Bà Ezeka hỏi. "Nước này ở trong tủ lạnh mới hay tủ lạnh cũ?"
"Trong cái tủ mới, thưa bà, như bà đã bảo."
"Cô có ăn bánh không? Olanna, chúng tôi mới làm hôm nay."
"Không. Xin cảm ơn bà."
Giáo sư Ezeka vào, mang theo một xấp hồ sơ. "Cô chỉ uống có thế thôi à? Chỉ có nước thôi?"
"Ngôi nhà của ông thật là ngoài sức tưởng tượng, như thể trong mơ", Olanna nói.
"Cách chọn chữ của cô hay thật, trong mơ", Giáo sư Ezeka nói.
"Odenigbo không mấy hài lòng với công việc trong Bộ anh ấy đang làm. Ông có thể chuyển anh ấy sang nơi khác không?" Từng từ thoát ra khỏi miệng nàng một cách khó nhọc và nàng chợt nhận ra là mình rất ghét phải nhờ vả, cầu cạnh người khác. Nàng chỉ muốn xong việc này càng sớm càng tốt để nàng có thể rời căn nhà có thảm đỏ, ghế sofa cùng màu, ti vi và mùi nước hoa trái cây của bà Ezeka.
"Lúc này tất cả mọi việc đều quá khó khăn, thật sự rất khó khăn", Giáo sư Ezeka nói. "Bao nhiêu đòi hỏi từ khắp mọi nơi đều đổ về đây", ông ta ngồi xuống, đặt hồ sơ vào lòng, bắt tréo chân rồi nói. "Nhưng tôi sẽ xem tôi có thể làm gì không."
"Cảm ơn ông", Olanna nói. "Và một lần nữa xin cảm ơn ông vì đã cho một ít nhu yếu phẩm."
"Cô dùng bánh nhé", bà Ezeka mời.
"Không, tôi không muốn ăn bánh."
"Hay là ăn bữa trưa muộn vậy."
Olanna đứng dậy. "Tôi không thể ở lại để dùng bữa trưa. Tôi phải về. Tôi dạy bọn trẻ con ở sân nhà tôi và trong vòng một giờ nữa bọn chúng sẽ đến."
"Ồ, hay nhỉ", bà Ezeka nói, tiễn nàng ra đến tận cửa. "Nếu tôi không phải đi nước ngoài sớm, chúng ta có thể cùng làm một việc gì đó, một nỗ lực cho chiến thắng."
Olanna ép mình nở một nụ cười gượng gạo.
"Tài xế sẽ chở cô về", Giáo sư Ezeka nói.
"Cảm ơn ông", Olanna nói.
Trước khi nàng bước vào xe, bà Ezeka mời nàng ra phía sau và nhìn cái hầm trú ẩn chồng bà mới xây; nó làm bằng xi măng, rất kiên cố.
"Tưởng tượng kẻ địch đã làm chúng ta khốn khổ đến mức nào, nhiều lần Pamela và tôi phải ngủ ở đây khi chúng đánh bom đấy", bà Ezeka nói. "Nhưng chúng ta sẽ sống sót."
"Vâng", Olanna nói và chăm chú nhìn xuống nền nhà phẳng phiu, hai cái giường, một căn phòng trang bị đầy đủ tiện nghi dưới lòng đất.
Khi nàng về đến sân nhà, Bé By đang khóc. Nước mũi ròng ròng.
"Người ta ăn thịt Bingo rồi."
"Cái gì?"
"Mẹ của Adanna thịt Bingo."
"Ugwu, chuyện gì xảy ra vậy?" Olanna hỏi, ôm lấy Bé By.
Ugwu nhún vai. "Mấy người trong sân đang kháo nhau về chuyện này ạ. Bà Adanna dẫn con chó đi đâu đó một lúc và khi người ta hỏi con chó đâu, bà ta chẳng trả lời. Và bà ta vừa nấu xúp."
Olanna dỗ con nín, lau mắt mũi và nghĩ một lúc về con chó có cái đầu ghẻ lở.
Kainene đến thăm giữa buổi chiều nóng bức. Olanna đang ở trong bếp ngâm khoai mì khô thì bà Oji gọi, "Có một người đàn bà đi ô tô đến tìm cô!"
Olanna vội vã bước ra và sững lại khi thấy chị mình đứng gần khóm chuối. Chị ấy trông rất thanh lịch trong cái áo màu nâu dài đến đầu gối.
"Kainene!" Olanna khẽ giơ tay ra, ngập ngừng và Kainene tiến về phía trước, cái ôm của hai người thật vội vã, hầu như chẳng chạm vào người nhau trước khi Kainene bước lùi lại.
"Tôi đến căn nhà cũ của cô và có người chỉ tôi đến đây."
"Ông chủ nhà đuổi chúng em đi, vì chúng em chẳng phải khách sộp." Olanna cười sau khi nàng nói đùa nhưng Kainene không cười. Kainene ló đầu ngó vào trong phòng. Olanna ước sao Kainene đến thăm khi nàng còn ở trong một căn nhà, ước gì mình đừng nghĩ quá nhiều về sự khốn khó của bản thân.
"Chị vào đây và ngồi chơi một lát."
Olanna kéo cái ghế bằng ngoài hàng hiên vào và Kainene nhìn có vẻ mệt mỏi, trước khi nàng ngồi xuống, đặt tay lên cái ví da cùng màu với bộ tóc nâu đậm của nàng. Olanna vén màn ngăn và ngồi lên giường, kéo thẳng tấm vải quấn quanh người mình cho thẳng. Cả hai không nhìn nhau. Sự im lặng chất chứa bao điều không nói ra được.
"Thế chị có khỏe không?" Olanna hỏi sau một lúc lâu.
"Mọi chuyện bình thường cho đến khi Port Harcourt thất thủ. Chị là nhà thầu của quân đội và chị có giấy phép nhập cảng cá khô. Chị đang ở Orlu, quản lý một trại tị nạn ở đó."
"Ồ!"
"Em đang ngầm buộc tội chị đã trục lợi từ chiến tranh chứ gì? Phải có người nhập cảng cá khô, em biết không!" Kainene nhướng cặp mày mảnh vẽ bằng bút chì, cong vút. "Có rất nhiều nhà thầu được trả tiền mà không giao cá ít nhất là chị cũng giao hàng."
"Không, không. Em đâu có nghĩ đến điều đó."
"Em đã nghĩ thế."
Olanna nhìn ra chỗ khác. Có rất nhiều điều đang quay cuồng trong đầu nàng. "Em rất lo lắng khi Port Harcourt thất thủ. Em gửi thư cho chị nhiều lần."
"Chị có nhận được thư em gửi qua Madu." Kainene chỉnh lại cái quai ví. "Em nói là em dạy học, vẫn còn dạy à? Một nỗ lực cao quý cho chiến thắng."
"Trường học bây giờ là trại tị nạn. Đôi khi em dạy bọn trẻ trong sân."
"Còn anh chàng cách mạng của em?"
"Anh ấy vẫn làm việc cho Bộ Nhân lực."
"Em không có ảnh cưới?"
"Máy bay bỏ bom lúc đang tổ chức tiệc cưới. Ông thợ ảnh ném cái máy chụp ảnh xuống đất."
Kainene gật đầu, như là không cần thiết phải thông cảm với chuyện đã xảy ra. Nàng mở ví. "Chị đến mang cho em cái này. Mẹ gửi cho hai chúng ta qua một ký giả."
Olanna giữ phong bì trong tay, không biết có nên mở ra trước mặt Kainene không.
"Chị cũng mang cho Bé By hai cái áo." Kainene nói, chỉ tay vào cái gói nàng để dưới đất. "Có một bà trở về từ São Tomé bán quần áo trẻ em rất đẹp."
"Chị mua quần áo cho Bé By?"
"Em ngạc nhiên lắm phải không? Đã đến lúc con bé nên bắt đầu gọi chị là Chiamaka rồi đấy. Chuyện trẻ con này mệt lắm."
Olanna bật cười. Nghĩ đến chuyện chị mình ngồi đối diện với mình, đến thăm mình, lại còn mua quần áo cho con mình nữa. "Chị có uống nước không? Em chỉ có nước thôi."
"Không, chị không khát." Kainene đứng dậy đi đến vách tường, chỗ tấm nệm được dựng lên rồi trở lại chỗ cũ và ngồi xuống. "Em chắc không biết người giúp việc của chị tên là Ikejide?"
"Có phải cái người mà Maxwell đưa từ làng của anh ta ra không?"
"Đúng rồi." Kainene lại đứng lên. "Anh ta chết ở Port Harcourt. Chúng đánh bom và pháo kích cảng, một mảnh đạn pháo chém bay đầu anh ta mà thân hình anh ta vẫn tiếp tục chạy. Cái xác không đầu cứ chạy chạy và chạy."
"Chúa ơi!"
"Chị tận mắt chứng kiến."
Olanna đứng dậy đến ngồi cạnh Kainene và vòng tay ôm lấy chị. Kainene cảm nhận được cái không khí thân thuộc của gia đình. Hai người ngồi im lặng rất lâu.
"Chị nghĩ đến chuyện chuyển tiền cho em", Kainene nói. "Nhưng em có thể nhận và gửi tiền vào ngân hàng, được không?"
"Chị không thấy mấy cái hố bom khổng lồ xung quanh ngân hàng sao? Em cất giấu tiền dưới giường của em."
"Coi chừng đừng cho gián ăn. Bây giờ gián cũng khó sống." Kainene dựa người vào Olanna và bỗng như chợt nhớ ra điều gì, nàng đứng phắt dậy, kéo thẳng áo; Olanna cảm thấy buồn khi nhớ về một người vẫn còn ở nơi đó.
"Trời ơi, chị không ngờ thời gian đi mau thế. Chị quên cả giờ giấc." Kainene nói.
"Chị có đến thăm em nữa không?"
Một chút ngập ngừng trước khi Kainene nói, "Suốt ngày chị ở trại tị nạn. Em có thể đến xem". Nàng lục trong ví lấy một mẩu giấy rồi viết địa chỉ và chỉ dẫn đường đến nhà nàng.
"Vâng. Thứ Tư tuần tới. Em sẽ đến."
"Em lái xe đến chứ?"
"Không. Vì đám lính. Và ở đây bọn em chả bao giờ có xăng."
"Gửi lời chào anh chàng cách mạng giúp chị." Kainene vào xe và nổ máy.
"Biển số xe của chị rất lạ", Olanna nói, nhìn chữ VIG in trước hàng số.
"Chị trả thêm tiền để chứng tỏ lòng ái quốc trên xe của mình. Vigilance, đề cao cảnh giác!" Kainene nhướn mày và vẫy tay trước khi lái đi. Olanna nhìn chiếc Peugeot 404 biến mất ở cuối đường và đứng đó một lúc, cảm giác như trong lòng mình bừng sáng.
Ngày thứ Tư, Olanna đến sớm. Harrison mở cửa và trợn tròn mắt, ngây người đến nỗi quên cả lối cúi đầu chào quen thuộc. "Chào cô, lâu quá không gặp cô!"
"Ông có khỏe không, Harrison?"
"Rất khỏe ạ, thưa cô", ông ta nói.
Olanna ngồi trên một trong hai cái sofa trong phòng khách trống trải và sáng sủa, cửa sổ mở toang. Tiếng radio vẳng ra từ đâu đó và khi nghe tiếng chân, nàng cố giữ vẻ mặt tự nhiên, không biết phải nói gì với Richard. Nhưng đó là Kainene, xuất hiện trong một cái áo đen nhàu nhĩ, tay vuốt tóc.
"Ejima m", nàng nói và ôm Olanna. Họ ôm lấy nhau thật thân thiết, người họ âu yếm dựa sát vào nhau. "Chị đã hy vọng là em đến sớm một chút để chúng ta có thể cùng đến trung tâm nghiên cứu trước khi đến trại tị nạn. Em có muốn ăn một ít cơm? Chị không biết là đã bao lâu chị không ăn cơm nữa, cho đến khi người ở trung tâm tiếp tế cho một bao gạo tuần trước."
"Không, lúc này thì không." Olanna muốn ôm chị một lúc lâu hơn, để ngửi mùi thân thuộc của gia đình.
"Chị mới vừa nghe đài Nigeria. Lagos nói lính Trung Quốc chiến đấu cho chúng ta và Kaduna nói tất cả đàn bà Igbo đều đáng bị hãm hiếp", Kainene nói. "Sự tưởng tượng của chúng rất ấn tượng với chị." „
"Em chẳng bao giờ nghe chúng cả."
"Ồ, chị nghe đài Lagos và Kaduna nhiều hơn Đài Phát thanh Biafra. Ta phải luôn bám sát quân thù."
Harrison vào cúi người chào. "Thưa bà? Tôi mang thức uống nhé?"
"Cách ăn nói của ông ta khiến em có thể nghĩ là chị có cả một hầm rượu lớn trong căn nhà đang xây dở ở giữa nơi đồng không mông quạnh như thế này", Kainene lầm bầm, lấy tay vuốt tóc.
"Thưa bà?"
"Không đâu, Harrison, đừng mang thức uống. Chúng tôi đi ngay bây giờ. Nhớ nhé, dọn bữa trưa cho hai người."
"Vâng, thưa bà."
Olanna tự hỏi không biết Richard đâu.
"Harrison là một ông nhà quê kệch cỡm nhất trong số những người chị biết", Kainene nói, lúc nàng nổ máy. "Chị biết em không thích chữ nhà quê."
"Không."
"Nhưng ông ta là người nhà quê, em biết mà."
"Tất cả chúng ta đều có gốc gác nhà quê hết."
"Thế à? Richard cũng sẽ nói y như vậy."
Olanna bất thình lình cảm thấy cổ họng mình khô khốc.
Kainene liếc nhìn nàng. "Sáng nay Richard rời nhà sớm lắm. Tuần tới anh ấy sẽ đi Gabon để thăm một trung tâm tiếp nhận trẻ em bị suy dinh dưỡng và anh ấy nói cần xem sự chuẩn bị thế nào. Nhưng chị nghĩ anh ấy đi sớm bởi vì anh thấy ngại phải gặp em."
"Ồ!" Olanna cắn môi.
Kainene lái xe rất ẩu, lao vào ổ gà, vượt qua những cây cọ trơ trụi lá, vượt qua một anh lính gầy nhách dắt một con dê còn gầy ốm hơn.
"Có bao giờ em nằm mơ thấy cái đầu đứa bé trong quả bầu?" Kainene hỏi.
Olanna nhìn qua cửa kính và nhớ những đường khắc xiên chéo nhau trên quả bầu, nhớ đôi mắt trắng dã của đứa bé. "Em không nhớ những giấc mơ của mình."
"Ông nội hay kể về những khó khăn mà ông từng trải qua. Nếu không giết chết bản thân thì chúng giúp mình trở nên hiểu biết hơn. O gburo m egbu, o mee ka malu ife."
"Em nhớ."
"Có những chuyện không thể tha thứ được đến nỗi chúng làm những chuyện khác trở nên có thể dễ dàng cho qua", Kainene nói.
Cả hai cùng im lặng. Có cái gì đó tưởng đã hóa đá trong lòng Olanna bỗng hồi sinh.
"Em có hiểu ý chị không?" Kainene hỏi.
"Vâng."
Ở trung tâm nghiên cứu, Kainene dừng xe dưới một cái cây và Olanna chờ ngoài xe. Chỉ một lúc sau, Kainene vội vàng chạy ra. "Người chị muốn gặp không có ở đây", nàng nói và nổ máy. Olanna không nói gì nữa cho tới khi họ đến trại tị nạn. Trước khi có chiến tranh, đây vốn là một trường tiểu học. Các gian nhà đã bắt đầu phai màu, phần lớn lớp sơn một nước đã bị tróc. Rất nhiều người tị nạn đứng bên ngoài dừng lại nhìn Olanna chòng chọc và chào nno với Kainene. Một linh mục gầy, trẻ mặc chiếc áo thụng phai màu đến gần chiếc xe.
"Cha Marcel, em sinh đôi của tôi, Olanna", Kainene nói.
Vị linh mục có vẻ ngạc nhiên. "Xin chào", ông nói và buông thêm một câu rõ thừa, "Hai người không giống hệt nhau".
Họ đứng dưới tán phượng khi anh ta nói với Kainene rằng bọc tôm sông đã được giao và Hội Chữ thập đỏ đã tạm ngưng tất cả các chuyến bay cứu trợ, Inatimi cùng những người trong Lực lượng Chiến đấu cho Tự do của Biafra lúc trước đã ở đây và nói là sẽ trở lại. Olanna nhìn lúc Kainene nói. Nàng không nghe hết những điều Kainene nói vì nàng đang nghĩ rằng Kainene mới kiên định, vững vàng làm sao.
"Để chị đưa em đi xem một vòng", Kainene nói với Olanna, sau khi Cha Marcel đã bỏ đi. "Chị luôn bắt đầu từ hầm trú ẩn." Kainene chỉ cho nàng xem hầm trú ẩn, một cái nóc hầm được lợp bằng thân cây thô ráp nhô lên, trước khi nàng bắt đầu đi về hướng ngôi nhà ở cuối khu. "Bây giờ đến Ga Tàu Suốt."
Olanna đi theo. Một mùi nồng nặc bốc lên ngay từ cái cửa đầu tiên. Nó xộc thẳng vào mũi, xuống dạ dày nàng, cồn cào, miếng khoai luộc nàng ăn lúc sáng như bị xóc lộn lên trong bụng.
Kainene nhìn nàng. "Em không phải vào trong."
"Em muốn vào", Olanna nói, bởi vì nàng có cảm tưởng là nàng nên làm như thế. Còn thật tình thì nàng không muốn. Nàng không biết đó là mùi gì nhưng nó đang tỏa ra và thậm chí nàng có thể nhìn thấy nó, một đám mây nâu hôi nồng nặc. Nàng muốn ngất xỉu. Họ vào phòng học đầu tiên. Chừng mười hai người đang nằm trên giường tre, trên chiếu, trên nền nhà. Không một ai đủ sức giơ tay đập đám ruồi mập ú. Chỉ có một chuyển động Olanna nhìn thấy là của đứa nhỏ ngồi ở gần cửa: nó xòe tay ra rồi nắm lại. Bộ xương của nó phơi ra chả thiếu cái nào và mảnh vải khoác lên cánh tay của nó xẹp lép khiến người ta không thể nghĩ là nó có lấy một ít thịt. Kainene đảo mắt nhìn nhanh rồi ra ngoài cửa. Bên ngoài, Olanna thở dốc. Trong lớp học thứ hai, nàng cảm thấy luồng khí trong người nàng trở nên hôi thối và nàng muốn bịt mũi để ngăn chặn không khí bên ngoài thâm nhập vào trong người nàng. Một người mẹ đang ngồi trên nền nhà với hai đứa trẻ nằm bên cạnh. Olanna không thể đoán được tuổi của chúng. Chúng trần truồng, bụng của chúng là hai quả cầu căng cứng, áo khó mà mặc cho vừa. Mông và ngực của chúng chỉ còn là những lớp da nhăn nheo. Trên đầu chúng, vài chòm tóc màu đỏ. Mắt của Olanna chạm phải cái nhìn trợn trừng của người mẹ và Olanna nhanh chóng nhìn sang chỗ khác. Nàng đuổi một con ruồi từ mặt nàng và nghĩ lũ ruồi ở đây sao mà nhiều, béo khỏe đến thế.
"Bà đó chết rồi. Mình phải cho người mang đi", Kainene nói.
"Không!" Olanna buột miệng, bởi vì người đàn bà có cái nhìn trợn trừng đó không thể nào là người chết được. Nhưng Kainene nói về một người đàn bà khác nằm sấp trên nền nhà, với một đứa bé đang đeo trên lưng. Kainene bước đến, kéo đứa bé ra, "Cha ơi! Cha! Đem một người đi chôn thôi", và bế đứa bé bước ra bậc thềm bên ngoài. Đứa bé đáng lẽ phải khóc. Kainene đang nhét vào mồm nó một viên thuôc mềm màu men.
"Cái gì thế?" Olanna hỏi.
"Chất đạm được đóng thành viên. Chị sẽ cho em một ít mang về cho cháu. Mùi vị của nó ghê lắm. Phải nói mãi chị mới được Hội Chữ thập đỏ cho một ít đấy. Mình không có đủ, dĩ nhiên, vì thế chị để dành cho trẻ em. Nếu chị đem cho hầu hết những người trong đó, kết quả chẳng được gì. Nhưng có lẽ viên thuốc sẽ hiệu nghiệm với đứa bé này. Có thể!"
"Một ngày có bao nhiêu người chết?" Olanna hỏi.
Kainene nhìn xuống đứa bé. "Mẹ của nó đến từ một nơi nào đó bị chết trước tiên. Họ đã đi hết trại tị nạn này đến trại tị nạn khác, khoảng năm nơi, trước khi họ đến tới đây."
"Bao nhiêu người chết trong một ngày?" Olanna hỏi lại lần nữa. Nhưng Kainene không trả lời. Đứa bé bật ra một tiếng kêu yếu ớt và Kainene nhét viên thuốc vào cái mồm nhỏ xíu đang mở. Olanna nhìn Cha Marcel và một người đàn ông nữa nắm lấy cổ tay, cổ chân người đàn bà đã chết, khiêng ra ngoài rồi vòng ra phía sau nhà.
"Đôi khi chị ghét họ", Kainene nói.
"Kẻ địch?"
"Không, họ." Kainene chỉ vào trong lớp học. "Chị ghét họ bởi vì họ chết."
Kainene mang đứa bé vào trong và giao cho một người đàn bà khác, một thân nhân của người chết. Thân hình trơ xương của người đàn bà này đang run rẩy. Vì mắt của bà ta khô queo nên một lúc lâu sau Olanna mới nhận ra rằng bà ta đang khóc, đứa bé được ép vào bộ ngực lép kẹp không sữa.
Lúc sau, khi hai người ra xe, Kainene đưa tay nắm lấy bàn tay của Olanna.
--------------------------------
1 Ngày 31 tháng Ba năm 1968, quân đội Biafra thắng trận lớn nhất trong lịch sử của cuộc chiến tranh này, phá hủy một đoàn quân xa gồm 96 chiếc xe vận tải của Nigeria.