Cái Anh Đánh Mất, Không Chỉ Là Em (1)


Số từ: 2912
Người dịch: Lê Quang
NXB: Văn học
Nguồn: Sưu tầm
Ở Frankfurt
Tôi đã đến thăm căn hộ nhỏ ở Frankfurt nơi Ka sống tám năm cuối đời mình, bốn năm sau khi ông từ Kars quay về và bốn mươi hai ngày kể từ khi ông mất. Đó là một ngày tháng Hai nhiều gió trộn lẫn mưa tuyết. Tôi từ Istanbul đến vào buổi sáng, và trong mắt tôi Frankfurt còn ủ rũ hơn nhiều so với những tấm bưu thiếp mà Ka gửi cho tôi từ mười sáu năm nay. Đường phố vắng tanh, ngoại trừ mấy chiếc ôtô sẫm màu phóng qua, tàu điện hiện ra rồi biến đi như những bóng ma, và những bà nội trợ cầm ô tất tưởi. Bầu trời mây phủ tối sầm, mới giữa trưa đã phải bật đèn đường vàng ệch chết chóc.
Mặc dù vậy tôi vui mừng vì vẫn thấy trên vỉa hè xung quanh nhà ga trung tâm gần đó các quầy bán Kehab, phòng du lịch, quầy kem và cửa hàng bán đồ kích dục, dấu vết của năng lượng bất tử giữ mạch đập cho các đô thị lớn. Ổn định xong xuôi mọi thứ trong khách sạn tôi gọi điện cho một người bạn yêu văn chương người Đức gốc Thổ đã theo đề nghị của tôi gửi giấy mời tôi thuyết trình tại nhà cộng đồng Thổ. Tại tiệm cà phê Ý trong ga tôi gặp Tarkut Ölçün. Em gái Ka ở Istanbul đã cho tôi số điện thoại của ông. Một người đàn ông thiện chí, mệt mỏi, chừng sáu chục tuổi. Trong những năm Ka sống ở Frankfurt ông là người biết rõ Ka nhất. Trong vụ điều tra sau cái chết của Ka ông đã hỗ trợ cảnh sát với nhiều thông tin, gọi điện về Istanbul, lập đường dây liên lạc với gia đình Ka và giúp chuyển xác ông về Thổ. Khi đó tôi đang đi tìm bản thảo đánh máy của tập thơ Ka nói mình đã vất vả hoàn thành từ khi trở về Đức bốn năm về trước. Tôi đã hỏi bố và em gái Ka xử lý di vật của Ka ra sao. Do ngày đó họ không đủ sức sang Đức nên đã nhờ tôi thu thập hộ đồ đặc của Ka và thanh lý căn hộ.
Tarkut Ölçün là một trong những người nhập cư đầu tiên đến Đức hồi đầu thập kỷ sáu mươi. Ông đã nhiều năm phụ trách các khóa học và tư vấn ở các hiệp hội và tổ chức hỗ trợ Thổ. Ông có hai người con đẻ ở Đức, một trai một gái, chỉ cho tôi xem ảnh các con và tự hào khoe chứng học ở đại học tổng hợp. Trong cộng đồng Thổ ở Frankfurt ông có uy tín cao, nhưng trên nét mặt ông tôi đọc ra những nét cô đơn và nhẫn nhục dễ thấy ở thế hệ nhập cư đầu tiên và những người tị nạn chính trị.
Trước tiên Tarkut Ölçün cho tôi xem chiếc túi du lịch nhỏ mà Ka mang theo bên người lúc bị bắn chết. Cảnh sát trao cho ông chiếc túi này sau khi bắt ký nhận. Tôi mở ngay ra và lục trong túi, tìm thấy một bộ đồ ngủ Ka mua trước đây mười tám năm ở Nişantaşi, một chiếc áo len xanh lá cây, đồ cạo râu, bàn chải răng, tất và đồ lót đã giặt sạch sẽ, tạp chí văn học của tôi gửi cho ông từ Istanbul, nhưng cuốn vở xanh chép thơ thì không.
Một lát sau, trong khi chúng tôi uống cà phê và quan sát hai người Thổ đứng tuổi vừa vui vẻ tán chuyện vừa lau sàn giữa đám đông xuôi ngược trong ga, Tarkut Ölçün nói: "Orhan Bey ạ, ông Ka bạn ông là một người cô đơn. Ở Frankfurt chẳng ai biết rõ ông ấy làm gì, chỉ có tôi biết chút ít." Ông vẫn hứa kể hết cho tôi nghe những gì ông biết.
Đầu tiên chúng tôi đi dọc mặt tiền những nhà máy hàng trăm năm tuổi và các trại lính cũ để tới ngôi nhà gần phố Gutleut, nơi Ka sống tám năm cuối đời. Chúng tôi không gặp được bà chủ nhà để xin mở cửa ngôi nhà hướng mặt ra một quảng trường con con và sân chơi, cũng như mở cửa căn hộ của Ka. Trong lúc chúng tôi đứng trong mưa tuyết đợi cánh cửa tróc sơn mở ra, tôi quan sát tựa như những chốn đó là kỷ vật của chính mình - sân chơi nhỏ hoang phế, cửa hàng tạp phẩm ở góc phố và cửa kính tối om của một cửa hàng bán báo và rượu đằng xa xa mà Ka vẫn nhắc đến trong thư từ và mấy cuộc điện thoại hiếm hoi giữa hai chúng tôi (chứng bách hại cuồng khiến Ka không thích gọi điện về Thổ, luôn sợ có người nghe lén). Trên những chiếc đu và bập bênh, trên ghế băng mà Ka hay ngồi uống bia cùng các công nhân người Ý và Nam Tư vào những hôm nắng ấm, bây giờ là một lớp tuyết nhão dày hàng đốt tay.
Chúng tôi lần theo con phố mà trong những năm cuối Ka mỗi sáng vẫn đi đến thư viện thành phố và ra quảng trường ga. Như sở thích của Ka là hay thong thả đi giữa đám người tất bật vội vã chúng tôi bước vào ga và đi qua trung tâm thương mại ở tầng hầm, qua những cửa hàng bán đồ kích dục ở phố Kaiser, cửa hàng lưu niệm, hàng bánh ngọt và hiệu thuốc, đi theo đường tàu điện và đến Sở cảnh sát. Trong khi thỉnh thoảng chào những người Thổ hay người Kurd làm việc ở mấy quầy bán Döner, Kebab và rau quả. Tarkut Ölçün kể với tôi rằng tất cả bọn họ sáng nào cũng nói "Xin chào ông giáo sư!" với Ka trên đường đến thư viện. Sau đó ông chỉ cho tôi cửa hàng bách hóa lớn mà tôi đã hỏi thăm trước đó: Kaufhof. Tôi kể là Ka đã mua ở đây chiếc áo choàng mà ông mặc ở Kars, nhưng từ chối khi Tarkut Ölçün gợi ý đi vào cửa hang. Thư viện thành phố của Frankfurt là một tòa nhà hiện đại và không có dấu ấn riêng. Khách ở đây cũng đặc trưng như mọi thư viện cùng loại: mấy bà nội trợ và hưu trí đến đây giết thời gian, người thất nghiệp, vài người Ả Rập và người Thổ, lũ học sinh rúc rích cười đùa trong khi làm bài về nhà và đám khách ruột không thể tránh khỏi ở những chốn như thế này: đám người béo phị, tàn tật dở hơi và thiểu năng trí tuệ. Một người trong số họ, còn rất trẻ, miệng rỏ dãi, ngước mắt lên khỏi cuốn truyện tranh đang xem và thè lưỡi ra với tôi. Tôi để người dẫn đường vốn thấy thiếu thoải mái giữa rừng sách lại trong quán giải khát ở tầng dưới, ra đến ngăn thơ Anh và tìm tên người bạn tôi trên tờ phiếu in tên khách mượn ở trang cuối: Auden, Browning, Coleridge... Mỗi khi nhìn thấy chữ ký của Ka, mắt tôi lại ngấn nước khi nghĩ đến những giờ bạn tôi đã phung phí trong thư viện này. Tôi chấm dứt việc tra cứu vì nó làm tôi sầu muộn ghê gớm.
Chúng tôi im lặng đi theo đường cũ quay về. Ở đâu đó giữa phố Kaiser, trước một cửa hàng với biển tên quái đản "Trung tâm sex thế giới", chúng tôi quẹo trái và đi tiếp một phố. Tôi đã nhận ra từ lâu là Tarkut Ölçün định chỉ cho tôi xem gì. Tim tôi đập thình thịch, mắt tôi lần lượt lướt trên khay cam và tỏi tây của cửa hàng rau quả, quan sát người ăn mày cụt một chân. Ánh đèn pha ôtô phản chiếu trong cửa kính khách sạn Eden, và giữa màu buổi tối xám chì đang buông xuống, là chữ K đèn tuýp tỏa ánh sáng hồng nổi bật.
"Đây", Tarkut Ölçün nói, "vâng, đúng ở đây người ta đã tìm thấy xác Ka." Mắt tôi đờ đẫn nhìn xuống vỉa hè ướt át. Hai đứa trẻ vừa chảnh chọe vừa lao ra từ cửa hàng rau, lúc chạy qua dẫm lên tấm đá lát đường ẩm ướt mà cơ thể Ka đổ vật lên sau khi bị trúng ba viên đạn. Đèn hậu màu đỏ của chiếc xe tải đứng đằng xa phản chiếu trên nền nhựa đường. Sau mấy phút quằn quại đau đớn trên chính vỉa hè này. Ka đã chết trước khi xe cấp cứu kịp đến.
Tôi ngước mắt nhìn một lát khoảng trời mà Ka đã nhìn thấy trước khi nhắm mắt: một rẻo trời hẹp giữa những ngôi nhà cũ kỹ tối tăm với quầy bán Döner, phòng du lịch, tiệm uốn tóc và quán bia ở tầng trệt, giữa những đường dây điện và cột đèn đường. Ka bị bắn chết lúc gần nửa đêm. Tarkut Ölçün cho tôi biết là vào giờ ấy thường có gái làm tiền thơ thẩn ở đây. Thực ra khu nhà thổ ở cách đó một phố về phía Bắc. Ở phố Kaiser, nhưng vào những đêm đông người, cuối tuần hay dịp hội chợ thì các cô gái tràn ra tận đây."Người ta không tìm được gì cả," ông nói khi thấy tôi nhìn quanh quẩn như kiếm dấu vết gì. "Mà cảnh sát Đức không như cảnh sát Thổ, họ làm việc tử tế." Khi tôi hỏi han mấy cửa hiệu xung quanh đó, ông giúp tôi với sự đồng cảm chân thành. Các cô gái ở hiệu uốn tóc đều quen mặt và hỏi thăm sức khỏe ông, nhưng lúc xảy ra vụ án họ không ở cửa hiệu và cũng hoàn toàn không nghe nói gì về vụ ấy. "Các gia đình Thổ chỉ cho con gái học nghề làm đầu." Ông nói với tôi khi ra đến ngoài đường. "Ở Frankfurt có hàng trăm phụ nữ Thổ làm thợ uốn tóc." Những người Kurd ở cửa hàng rau thì biết quá rõ về vụ giết người và công tác điều tra của cảnh sát sau đó. Có thể vì vậy mà họ không mặn mà lắm với chúng tôi. Có cậu bồi bàn thân thiện của quán Kebab Bayram đã dùng chính chiếc giẻ bẩn thỉu mà hôm nay đang cầm trong tay để lau mặt bàn tráng nhựa hôm xảy ra vụ án. Cậu có nghe tiếng súng và sau khi đợi một chút thì chạy ra xem, cũng là người cuối cùng thấy Ka còn sống.
Sau khi ra khỏi quán Kebab chúng tôi đi nhanh qua một ngõ gần nhất và vào sân sau một ngôi nhà tối đèn. Tarkut Ölçün dẫn tôi đi xuống hai cầu thang, qua một cánh cửa và vào một căn nhà khủng khiếp to như nhà để máy bay, rõ ràng đã từng được sử dụng làm kho. Thế giới ngầm này lan tỏa dưới ngôi nhà và chạy đến tận bên kia phố. Những tấm thảm trải dưới đất và một cộng đồng khoảng năm, sáu chục đàn ông đang tụ tập ở đây cầu kinh tối cho thấy ngôi nhà này được dùng làm nhà nguyện. Giống các phố ngầm ở Istanbul, bao xung quanh là các cửa hàng bẩn thỉu tăm tối. Tôi thấy một thợ kim hoàn có cái tủ kính không thèm tỏa sáng lấp lánh, một người bán rau quả lùn tịt, ngay cạnh đó là một người hàng thịt luôn tay bận bịu, một nhà buôn hàng tạp nham đang xem vô tuyến nhưng không ngừng tay bán xúc xích vòng.Bên tường là những thùng đựng nước quả đóng chai từ Thổ đem sang, mì và đồ hộp Thổ, một quầy bán sách tôn giáo, một quán cà phê còn đông hơn nhà nguyện và mịt mù khói thuốc. Những người đàn ông mệt nhọc tập trung xem phim Thổ trên ti vi, thỉnh thoảng một người đứng dậy đi ra máy nước nối từ một thùng chứa bằng nhựa bên lề để rửa tay theo nghi lễ. "Vào các buổi cầu nguyện ngày lễ và ngày nghỉ, trong phòng này có tới hai nghìn người," Tarkut Ölçün nói. "Người ta đứng tràn ra cả cầu thang và ra đến sân." Tôi mua một số Truyền đạt ở một trong những quầy sách báo tạp chí - dù chẳng biết để làm gì.
Sau đó chúng tôi vào một quán bia kiểu Munich cổ ở tầng trên nhà nguyện. "Nhà nguyện dưới đó của những người theo Süleyman." Tarkut Ölçün nói và chỉ tay xuống nền. "Họ theo chủ nghĩa toàn thống, nhưng không dính dáng gì tới khủng bố cả. Họ không dại gây sự với nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ như phe 'Phù trợ dân tộc' hay 'Những con hổ Cemalettin'." Tuy nhiên, ánh mắt nghi ngại của tôi hay việc tôi lật trang trong Truyền đạt như thể đi tìm một chỉ dẫn nào đó khiến ông thấy bất ổn, và ông kể cho tôi nghe tất cả những gì biết được từ cảnh sát và báo chí về vụ sát hại Ka.
Bốn mươi hai ngày trước, vào lúc 23 giờ 30 ngày thứ Bảy đầu tiên trong năm. Ka quay về từ một buổi đọc thơ ở Hamburg mà ông có tham gia. Ngay sau chuyến tàu hỏa dài sáu tiếng, ông rời ga qua cửa phía Nam, và thay vì về ngay nhà mình ở phố Gutleut thì ông lại đi ngược lên phố Kaiser, lang thang hai mươi lăm phút ở đó trong đám đàn ông độc thân, khách du lịch, dân say rượu và gái làm tiền đợi khách, giữa các cửa hàng đồ kích dục còn mở cửa. Nửa tiếng sau, ông rẽ phải ở "Trung tâm sex thế giới" và bị bắn chết khi sang đến vỉa hè bên kia của phố Munich. Rất có thể ông định mua quýt ở cửa hàng Günzel Antalya trước khi về nhà, hiệu bán rau duy nhất ở Frankfurt mở đến nửa đêm. Người bán hàng nhớ là Ka hay tới đây mua quýt vào ban đêm. Cảnh sát ngờ vực khi người bán rau nói là anh ta không biết tí gì; anh ta bị tra khảo lấy cung đến giữa đêm nhưng không kết quả.
Cảnh sát không tìm ra được ai nhìn thấy kẻ bắn Ka. Cậu bồi bàn của quán Kebab Bayram có nghe tiếng súng nhưng do tiếng ti vi và khách khứa ầm ĩ nên không biết có mấy phát súng. Do cửa kính của quán bia phía trên nhà nguyện đóng hơi nước nên không ai thấy gì bên ngoài. Một gái làm tiền đang hút thuốc đợi khách cách đó một phố khai rằng vào thời điểm đó ả thấy một người đàn ông thấp nhỏ, tóc sẫm như người Thổ, mặc áo choàng sẫm màu chạy về hướng Kaiser, nhưng không thể miêu tả người đó chính xác hơn. Một người Đức đã gọi xe cấp cứu, người này tình cờ ra bao lơn khi Ka vừa ngã xuống vỉa hè, nhưng cũng chẳng nhìn thấy ai. Viên đạn thứ nhất xuyên vào sau đầu Ka và trổ ra mắt trái. Hai viên kia xé nát mạch máu gần tim và phổi ông, xuyên thủng chiếc áo choàng màu xám tro ở lưng và ngực, làm nó thấm đẫm máu.
"Vì ông ấy bị bắn từ phía sau nên sát thủ là người có chủ định và đã bám chân ông." Một nhân viên điều tra đứng tuổi luôn miệng ho sù sụ kết luận. Có thể kẻ sát nhân đã theo dõi ông từ Hamburg. Cảnh sát cũng lần theo đủ thứ phỏng đoán khác như giết người vì ghen tuông hoặc thanh toán chính trị rất thường thấy trong nội bộ người Thổ. Ka không liên quan gì đến thế giới ngầm vùng ga. Được cho xem ảnh Ka. những người bán hàng cho cảnh sát biết rằng đôi khi Ka lang thang qua những của hàng bán đồ kích dục và vào các ngăn chiếu phim khiêu dâm. Do không có tin tức nào chắc chắn, cũng như không thấy báo giới hay các cơ sở có ảnh hưởng lớn gây áp lực tìm cho được sát thủ, một thời gian sau cảnh sát cũng bớt năng nổ.
Hành vi của nhân viên điều tra đứng tuổi với chứng ho kinh niên đôi lúc đi lạc khỏi mục đích điều tra cho ra kết quả. Ông hẹn gặp các người quen Ka và trong quá trình điều tra thì ông chủ yếu nói về mình. Qua nhân viên già xuề xòa ưa người Thổ này, Tarkut Ölçün biết đến hai phụ nữ bước vào đời Ka trong tám năm trước chuyến đi của ông đến Kars. Tôi cẩn thận chép số điện thoại của hai phụ nữ này vào sổ địa chỉ, một người Đức và một người Thổ. Trong bốn năm sau khi từ Kars trở về, Ka không hề quan hệ với phụ nữ nào cả.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Tuyết.