Cái Anh Đánh Mất, Không Chỉ Là Em (2)
-
Tuyết
- Orhan Pamuk
- 2666 chữ
- 2020-05-09 02:57:48
Số từ: 2655
Người dịch: Lê Quang
NXB: Văn học
Nguồn: Sưu tầm
Vì không tìm ra được chút manh mối gì, cảnh sát cuối cùng bỏ lửng cuộc điều tra.
Chúng tôi câm lặng trên đường quay về căn hộ ngày xưa của Ka. Lần này chúng tôi đã gặp được bà chủ nhà to như con voi, dễ chịu mặc dù luôn mồm ca thán về đủ mọi thứ. Bà mở cho chúng tôi tầng áp mái mát lạnh có mùi bồ hóng, độc miệng thông báo là bà đang chuẩn bị cho thuê phòng này, và nếu chúng tôi không đem đống đồ đạc kinh tởm kia đi thì bà sẽ vứt ra bãi rác. Rồi bà đi mất. Tôi trào nước mắt khi bước vào căn hộ nhỏ tối tăm, trần thấp nơi Ka sống tám năm cuối cùng, và nhận ra mùi đặc trưng của ông mà tôi quen từ hồi nhỏ. Đó là mùi chiếc áo len chui cổ mà mẹ ông đan cho, mùi chiếc cặp sách và phòng của ông khi tôi tới thăm nhà. Tôi nghĩ rằng mùi ấy từ loại xà phòng Thổ nào đó mà tôi không biết tên nhưng chẳng bao giờ nhớ ra để hỏi.
Trong những năm đầu sang Đức, Ka làm khuân vác ở khu chợ, thợ phụ chuyển nhà, dạy tiếng Anh cho người Thổ, quét sơn v. v... nhưng đã cắt đứt quan hệ với giới cộng sản ở nhà cộng đồng Thổ là những người đã giúp ông được nhận những công việc nói trên, từ khi ông được công nhận là tị nạn chính trị và bắt đầu nhận trợ cấp xã hội. Những người cộng sản Thổ lưu vong cho rằng ông quá khó gần và quá tư sản". Một nguồn thu nhập khác của Ka trong mười hai năm qua là những buổi đọc thơ ở các thư viện thành phố, trung tâm văn hóa và hội đoàn của người Thổ. Nếu mỗi tháng ông kiếm được ba buổi đọc thơ (chỉ có người Thổ đến dự, và hiếm khi quá hai chục khách) thì sẽ được tám trăm mình và vừa đủ sống vì người tị nạn chính trị còn được lĩnh sáu trăm mark nữa; nhưng rõ ràng những tháng may mắn đó đã qua lâu rồi. Mấy chiếc ghế đẩu tồi tàn, gạt tàn sứt sẹo, lò sưởi điện gỉ sét. Bực mình vì bà chủ nhà gây áp lực, thoạt tiên tôi định cho hết mọi đồ đạc của bạn tôi vào chiếc vali cũ trong phòng và các túi xách để đem đi: chiếc gối có mùi tóc ông, thắt lưng và cà vạt tôi còn nhớ đã thấy từ hồi học cấp ba, đôi giày Bally mà trong một bức thư ông kể là vẫn dùng nó như "dép đi trong nhà" bởi đầu ngón chân đã xuyên thủng mũi giày, bàn chải răng để trong chiếc cốc bẩn, mấy trăm quyển sách, một ti vi cũ và đầu videomà ông chưa bao giờ nhắc đến, áo vest sờn cũ, sơmi và bộ đồ ngủ có từ mười tám năm.
Nhưng tôi phát điên lên khi không tìm thấy trên bàn giấy thứ mà tôi hy vọng tìm được, mà khi đặt chân lên ngưỡng cửa phòng này tôi hiểu ra rằng thực ra chính vì nó mà tôi đã tới Frankfurt.
Trong những lá thư cuối cùng gửi từ Frankfurt cho tôi, ông vui mừng kể rằng sau bốn năm làm việc ông đã hoàn tất cuốn thơ mới. Đầu đề của nó là Tuyết. Phần lớn được ông chép vào quyển vở màu xanh trong những phút cảm hứng bùng phát đột ngột ở Kars. Từ Kars về ông có cảm giác là cuốn sách sở hữu một trật tự "sâu kín và bí hiểm" mà chính ông cũng không rõ. Bốn năm tiếp theo ông dành ra để lấp kín những "chỗ trống" trong sách. Đó là một nỗ lực hành xác làm ông rã rời, vì những vần thơ đã nghĩ ra ở Kars như có người thì thào vào tai lại không sao nghe được ở Frankfurt.
Nhưng ông vẫn bắt tay vào giải mã thứ logic kỳ bí của cuốn sách, và lấp kín những chỗ trống trong sách theo logic đó. Trong lá thư cuối cho tôi, ông viết rằng rốt cuộc mọi nỗ lực đã được đền đáp, ông sẽ đọc và thử thách các bài thơ ấy ở một số thành phố Đức và mặc dù không có bản sao nào của cuốn vở xanh chép tay, khi chắc chắn rằng mọi thứ đã tìm được đúng vị trí của nó thì ông sẽ đánh máy lại và gửi một bản cho tôi, một bản nữa cho nhà xuất bản Istanbul. Liệu tôi có thể viết vài dòng cho bìa bốn và gửi đến tay Fahir, người xuất bản cuốn sách này?
Bàn giấy của Ka, gọn gàng tới mức không ai mong đợi ở một nhà thơ, nhìn ra những mái nhà phủ tuyết của Frankfurt chìm trong bóng tối. Bên phải mặt bàn bọc len xanh lá cây là chồng vở ghi chép của Ka về thời gian ở Kars và giải thích các bài thơ mà ông sáng tác ở đó, bên trái là sách vở báo chí đang đọc. Một chiếc đèn bàn chân đồng và máy điện thoại đứng đối xứng nhau qua đường trung tuyến tưởng tượng giữa mặt bàn. Tôi tuyệt vọng ngó vào ngăn kéo, tìm trong sách vở và tập tư liệu cắt từ báo ra mà người Thổ lưu vong nào cũng có, trong tủ quần áo, giường, tủ ở nhà tắm và bếp, tủ lạnh và hòm quần áo, tóm lại là khắp các xó xỉnh của căn hộ khả dĩ đút vừa quyển vở. Tôi không thể tin là quyến vở ấy lại mất, và tìm lại khắp mọi nơi lần nữa trong lúc Tarkut Ölçün im lặng đốt thuốc và nhìn ra các mái nhà phủ tuyết.
Nếu quyển vở không nằm trong túi du lịch mà ông đem theo đi Hamburg thì ông phải để nó ở nhà. Trước khi hoàn tất một cuốn thơ không bao giờ Ka chép lại một bài thơ nào của mình; ông thường nói chuyện đó đem lại điềm rủi. Nhưng như đã viết cho tôi ông đã làm xong cuốn thơ và chuẩn bị cho đánh máy rồi.
Hai tiếng sau, thay vì chấp nhận là quyển vở xanh Ka chép những bài thơ làm ở Kars đã thất lạc, tôi cố nghĩ là nó nằm ngay trước mắt, chẳng qua vì xúc động mà tôi đã không nhìn thấy. Khi bà chủ nhà gõ cửa, tôi gói tất cả các quyển vở đã tìm thấy trong ngăn kéo, mọi mảnh giấy có nét chữ của Ka, nhét bừa tất cả vào các túi nylon. Những băng hình khiêu dâm quẳng bừa bãi cạnh đầu video (chứng tỏ là Ka không bao giờ có khách) tôi cho vào một túi gói hàng in chữ "Kaufhof". Như một người đi du lịch trước một chuyến đi xa đem theo một đồ dùng hằng ngày, tôi ngó quanh tìm một kỷ vật cuối cùng nhắc nhở đến Ka, nhưng như vẫn hay xảy ra, nhưng không quyết định nổi và không chỉ nhét vào túi cái gạt tàn, bao thuốc lá và con dao mà ông dùng mở thư, đồng hồ đặt đầu giường, chiếc áo vest đã xơ xác sau hai mươi lăm năm mà ông vẫn mặc ra ngoài áo ngủ nên còn mang mùi người ông, bức ảnh ông và em gái chụp bên bờ Dolmabahçe, mà lấy cả tất bẩn và khăn tay chưa bao giờ dùng ở trong tủ, bộ dĩa trong bếp và bao thuốc lá moi ra từ thùng giấy lộn. Tôi làm việc ấy với sự hăng say của một người làm bảo tàng. Trong một lần trò chuyện gần đây ở Istanbul Ka có hỏi về cuốn tiểu thuyết tôi sắp viết, và tôi kể ông nghe cốt truyện của "Bảo tàng của trong trắng" mà tôi giấu kỹ trước những người khác.
Sau khi chia tay người dẫn đường và lui về khách sạn, tôi bắt đầu lục lọi trong đống đồ vật của Ka. Tôi tự hẹn với mình sẽ quên đi người bạn trong đêm nay để khỏi quỵ xuống vì đau buồn. Đầu tiên tôi xem qua đống băng hình khiêu dâm. Khách sạn không có đầu video, nhưng theo những ghi chú viết tay của bạn tôi trên vỏ băng thì ông ấy đặc biệt thích một diễn viên Mỹ tên là Melinda.
Sau đó tôi đọc đến chú giải các bài thơ của Ka làm ở Kars. Vì sao ông ấy giấu tôi tất cả các trải nghiệm khủng khiếp và mối tình ở Kars? Tôi tìm được câu trả lời trong khoảng bốn chục bức thư tình trong một kẹp giấy mà tôi lôi từ trong ngăn kéo ra. Tất cả viết cho một người tên là Ipek, nhưng không lá nào được gửi đi, và thư nào cũng bắt đầu bằng một câu như nhau: "Em yêu, anh đã băn khoăn suy nghĩ rất lâu, liệu có nên viết cho em những dòng này hay không." Nhưng trong mỗi bức thư là một kỷ niệm khác nhau của Ka ở Kars, một chi tiết đau xót và cảm động đến chảy nước mắt trong câu chuyện tình của họ kèm một vài quan sát về sự đơn điệu và tầm thường trong cuộc sống của Ka ở Frankfurt. (Ông ấy đã viết cho tôi về con chó bị què trong công viên Von Bethmann và những chiếc bàn kẽm buồn thảm trong Bảo tàng Do Thái.) Do những lá thư không có vết gập, có thể thấy Ka chưa một lần đủ quyết tâm nhét chúng vào phong bì.
Ka có viết trong một bức thư: "Chỉ cần em nói một câu, anh sẽ đến." Ở một bức khác ông viết là sẽ không bao giờ quay lại Kars. vì ông không cho phép Ipek hiểu lầm mình thêm nữa. Một thư khác nhắc đến một bài thơ (đã mất). Lại một thư nữa, khi đọc có cảm giác đó là câu trả lời cho thư Ipek. "Tiếc rằng em đã hiểu lầm thư anh." Ka viết. Tối hôm đó tôi đã bày tất cả các đồ vật lấy từ trong túi lên sàn phòng khách sạn và trên giường để lục tìm, do vậy tôi chắc chắn là trong đó không có thư nào của Ipek gửi cho ông cả. Mặc dù vậy, mấy tuần sau tôi vẫn hỏi lại khi gặp cô ở Kars và được biết rằng cô không bao giờ viết thư cho Ka. Vì sao Ka làm như trả lời thư Ipek trong khi ông biết chắc ngay trong khi viết thư là sẽ không bao giờ gửi đi?
Có lẽ chúng ta đã xâm nhập đến tận tim gan câu chuyện này. Người ta có thể hiểu đến chừng mực nào nỗi đau và tình yêu của một người khác? Chúng ta có thể hiểu đến mức nào những người từng chịu đựng đày đọa, khổ ải và tổn thương ghê gớm hơn nhiều so với những gì bản thân ta đã trải qua? Nếu những người giàu có và quyền thế trên đời này có cố gắng đặt mình vào vị trí phía bên kia, liệu họ hiểu được đến đâu hàng tỉ người nghèo đang rên xiết chung quanh họ? Nhà tiểu thuyết Orhan có thể thấu thị đến mức nào những góc tối trong cuộc đời nhọc nhằn và đau khổ của người bạn thi sĩ?
Có một chỗ Ka viết: "Cả cuộc đời anh đã trôi qua trong cảm giác mất mát và thiếu hụt sâu sắc nhất, trong nỗi đọa đày của con thú bị thương. Có lẽ nếu anh không ôm em thật chặt, nếu anh không làm em nổi giận vào phút cuối thì anh đã không mất đi sự thăng bằng đã tìm được trong tám năm, quay lại điểm xuất phát ban đầu. Bây giờ anh lại tràn đầy cảm giác khôn nguôi mất mát và bị bỏ rơi. Nó làm anh ứa máu khắp cơ thể. Đôi khi anh nghĩ cái anh đánh mất không chỉ là em, mà là cả thế gian." Tôi đọc đấy, nhưng tôi có hiểu được không?
Khi chỗ whisky trong tủ lạnh khách sạn đã làm tôi đủ lơ mơ, tôi đến phố Kaiser lúc tối muộn để điều tra về Melinda.
Cô gái có cặp mắt to, rất to, màu ô-liu buồn bã, hơi hiếng, nước da cô trắng, đôi chân dài, cặp môi nhỏ nhưng dày - các thi sĩ phương Đông ắt sẽ ví nó với trái anh đào. Cô khá nổi tiếng: sau hai mươi phút lục tìm trong ngăn thuê băng hình của "Trung tâm sex thế giới" tôi tìm ra sáu băng mang tên cô trên bìa. Sau này, khi xem mấy băng trong số đó ở Istanbul, tôi hiểu được vì sao Ka chịu ấn tượng sâu sắc về cô đến thế. Kệ cho người đàn ông nằm giữa hai đùi cô xấu xí hay thô tục đến mức nào, biểu cảm trên khuôn mặt trắng trẻo của cô khi hắn rên lên sung sướng luôn luôn là một nét âu yếm đích thực, chỉ thấy ở những người mẹ. Khi mặc quần áo cô khêu gợi đến chừng nào (một nữ doanh nhân nhiều kỳ vọng, một cô nội trợ khốn khổ vì ông chồng liệt dương, một nữ phục vụ hàng không dâm đãng) thì khỏa thân ra cô vẫn mỏng mảnh và yếu đuối như thủy tinh Và như tôi nhận ngay ra khi tới Kars, rõ ràng cặp mắt rất to, bộ ngực căng và một nét gì đó trong phong thái của cô gợi nhớ đến Ipek.
Tôi biết, khi nói là bạn tôi trong bốn năm cuối đời đã mất khá nhiều thì giờ giải trí theo cách này tôi sẽ làm một số người nổi giận, những người vì yêu chuộng tưởng tượng và huyền thoại - đặc trưng cho kẻ bần hàn - muốn thấy trong Ka một thi sĩ trong sáng và thánh thiện. Trong khi lò dò giữa đám đàn ông, những bóng ma cô đơn, trong "Trung tâm sex thế giới" để tìm thêm các băng hình Melinda, tôi nghĩ, cái chung duy nhất của ông với lũ lợn đàn ông thảm hại trên thế giới này là cùng chui vào một góc xem phim khiêu dâm với ý thức tội lỗi. Trong những rạp phim phố 42 ở New York, phố Kaiser ở Frankfurt hay mấy ngõ nhỏ thuộc quận Beyoğlu ở Istanbul, lũ mày râu ấy trăm người như một đi xem phim con heo trong sự ngượng ngập và cảm giác lạc lõng. Ở tiền sảnh xám xịt tránh nhìn vào mắt nhau - một điểm chung khả dĩ làm rung chuyển mọi thành kiến dân tộc chủ nghĩa và lý thuyết nhân chủng học. Cầm trong tay một túi nylon đựng các băng hình Melinda. tôi rời khỏi Trung tâm sex thế giới, qua những phố vắng đi về khách sạn dưới những bông tuyết dày xốp.
Bên quầy bar ở tiền sảnh tôi còn uống hai ly whisky, ngó qua cửa sổ ra ngoài trời tuyết và đợi rượu ngấm. Tôi tin là nếu nốc cho đủ rượu trước khi lên phòng thì đêm nay tôi sẽ không thèm để ý tới Melinda hay các cuốn vở của Ka. Nhưng vào đến phòng thì tôi vớ hú họa một quyển, không cởi quần áo mà nằm xuống giường và bắt đầu đọc. Sau ba, bốn trang tôi thấy bông tuyết này.