33 …một chữ thập ngoặc thay vào vị trí của Âm và Dương…
-
Công Lý Thảo Nguyên
- Ian Manook
- 4490 chữ
- 2020-05-09 04:29:06
Số từ: 4474
Dịch giả: Lê Đình Chi
Công ty phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: Nhà Xuất Bản Lao Động
Yeruldelgger biết rõ rặng núi và những thung lũng cho tới tận Oulan-Bator. Khu trang trại của Erdenbat tọa lạc cách phía Đông Hồ Đen rộng mênh mông ở Khar Nuur tám kilomet. Có nhiều đường mòn dẫn tới đó, và ông chắc chắn sẽ bắt gặp dọc đường vài khách du lịch hay những người cưỡi ngựa. Ông có thể tới được bờ hồ chỉ sau ba giờ đi bộ và nằm duỗi dài người trên mặt cát vàng óng để ngắm nhìn các đỉnh núi rực lên trong ánh hoàng hôn trong khi làn nước sâu thẳm dần đen thẫm lại. Khi đêm xuống, thể nào ông cũng tìm được lòng hiếu khách trong một căn lều và chia sẻ rượu sữa ngựa kèm món bánh gối nhân mỡ cừu hành cùng những người du mục vừa tử tế vừa dè dặt.
Nhưng ông thích đi xuống phía Nam hơn. Khu vực này của Khar Nuur và những hồ nước nhỏ đánh dấu đường phân chia dòng nước. Ở phía Bắc, các dòng sông bắt đầu chảy về phía Siberia cho tới tận hô Baïkal. Nhưng về phía Nam, phần lớn sông chảy về phía Oulan-Bator qua hệ thống các thung lũng chạy chéo về phía Tây Nam. Dẫu vậy, ngay phía Nam hồ nước nhỏ, một dãy núi đồ sộ vươn lên như pháo đài tròn có đường kính chừng mười kilomet. Khắp xung quanh những vách đá vươn lên tới một nghìn tám trăm mét, che chở lòng thung lũng phủ đầy rừng cây nằm kẹp giữa hai vách núi dốc đứng, nơi dòng sông Tuul chảy xuyên qua từ Bắc xuống Nam. Yeruldelgger thuộc nằm lòng con đường này. Rất lâu trước khi vùng núi Terelj trở thành công viên quốc gia, vài năm sau khi chế độ trước sụp đổ, khi Erdenbat vẫn còn là kẻ du đãng chống đối bị nhốt trong trại giam, Yeruldelgger và Uyunga hồi đang yêu nhau đã thách thức những nguy hiểm của rừng già và những cấm đoán của gia đình để đi bộ tới tận Hồ Đen trong bốn ngày và cắm trại ở đó.
Cũng vào lần đó Yeruldelgger đã nói với vợ ông về thiền viện nơi gia đình đã bí mật gửi ông vào. Cha ông muốn giữ lại truyền thống bất chấp bị truy bức. Trong vài thập kỷ, chế độ trước đã tàn sát những người mà họ gọi là ‘kẻ lười biếng và mê tín’. Từ hàng trăm nghìn sư sãi trên toàn Mông Cổ, chẳng mấy chốc chỉ còn lại một trăm sư sải chính thức ở Oulan-Bator trong ngôi đền duy nhất được phép hoạt động và do chính quyền kiểm soát. Hơn hai nghìn ngôi đền khác đã bị các đội tình nguyện, cảnh sát hay quân đội cách mạng san bằng trên cả nước. Chỉ còn chưa đầy mười công trình tôn giáo thoát khỏi cảnh bị xóa sổ, náu mình trong những rặng núi hiểm trở hay chìm nghỉm giữa lòng thảo nguyên. Đồng thời cũng được nỗi sợ hãi từ các truyền thuyết bảo vệ. Đó là trường hợp của thiền viện Yelintey. Những người già cả vẫn còn khẳng định, bằng giọng thì thầm vì cảnh giác đám người tố giác và lũ gián điệp, rằng có một vị sư duy nhất đã thoát khỏi những cuộc vây ráp của chính quyền cách mạng và tiếp tục thuyết giảng trong đống đổ nát của ngôi đền một giáo pháp còn thuần khiết và rõ ràng hơn thứ đạo Phật nguyên bản nhất. Người ta cũng kể đã hai lần chính quyền cách mạng huy động lực lượng hùng hậu xóa bỏ triệt để sự mê tín và cả hai lần đều bị đánh bại bởi thứ mà vị sư duy nhất còn sống sót này gọi là sức mạnh vô hình và huyền bí. Trước khi chính ông cũng gặp phải thần Chết, lần này do bị đồng bào mình hành quyết vì tội phản bội và mê tín. Sau đó, vào những năm bốn mươi, để bẻ gãy hoàn toàn truyền thuyết, nguyên soái Tchoïbalsan đã mượn một chiếc Yak-9 của không quân Xô viết và cho chiếc máy bay tới bắn phá tàn tích của thiền viện. Chiếc Yak-9 đã bắn xuống một trăm hai mươi quả đạn 20 li từ khẩu pháo và phóng đi sáu quả rốc két RS-82 trong ba lần lượn qua, nhưng nó không bao giờ quay lại căn cứ Nalayh. Người ta không bao giờ tìm thấy xác chiếc máy bay, nhưng những lời đồn đại kể rằng ngày hôm sau vị nguyên soái nhận được trong một cái hộp nhỏ được bọc gói cầu kỳ như món đồ origami đựng một viên đá đen tuyệt đẹp và nhẵn bóng đến khó tin. Khi vị nguyên soái đặt nó trên lòng bàn tay để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đáng kinh ngạc của viên đá, nó vụn nát ra thành thứ cát xám xịt chảy qua giữa các ngón tay như nước, chỉ để lại trong lòng bàn tay ông ta lời nhắn được viết trên mảnh giấy da nhỏ cuộn quanh một mũi tên đỏ. Lời nhắn viết, ‘Tim và lưỡi ngươi sẽ trở thành thế này’. Phải mất vài ngày để các chuyên gia quân sự xác định được mũi tên này giống với mũi tên trong đồng hồ chỉ độ cao của một chiếc Yak-9, nhưng chỉ mất vài phút để vị nguyên soái ra sắc lệnh mật cấm mọi hành động chống lại thiền viện Yelintey.
Yeruldelgger đã được gửi tới học tại Yelintey trong năm năm, từ năm ông mười ba đến năm mười tám tuổi, vào cuối những năm bảy mươi. Vào thời đó, thiền viện vẫn chỉ là đống đổ nát bám vào vách đá nhỏ của một khe núi, trong chỗ khuyết ở một nếp gấp của ngọn núi. Những đệ tử lớn tuổi nhất, trở thành môn hạ của vị sư phụ, đã dựng lại một nhà ngủ, một phòng ăn tập thể và một phòng cầu nguyện do các đệ tử mới nhập môn coi sóc. Cộng đồng của họ gồm bốn môn hạ và mười đệ tử mới nhập môn tập họp quanh Nerguii
, danh xưng có nghĩa là ‘vô danh’.
Chẳng cần mất nhiều thời gian để Yeruldelgger, dù lúc đó còn rất trẻ, hiểu ra những lời thuyết pháp của Nerguii
chẳng có gì giống với các truyền thống Phật giáo. Truyền thuyết về các Nerguii
kể rằng họ là những hậu duệ nối tiếp nhau của người duy nhất thoát được trong trận đánh của công chúa Zengh. Năm 630, công chúa đã lôi kéo thành công các bộ lạc Mông Cổ Djurtchet và Euleuthes vào cuộc khởi nghĩa của bà chống lại hoàng đế Đường Thái Tông. Trong tuyệt vọng, hoàng đế Đường Thái Tông đã cầu viện các nhà sư chiến binh trứ danh của Thiếu Lâm. Truyền thuyết kể rằng năm nhà sư chiến binh đã bất ngờ đánh chiếm đại bản doanh của quân khởi nghĩa, cho dù nơi này được năm trăm người có vũ trang bảo vệ. Tất cả lính thường đều bị giết trong đấu cận chiến, và từng tù binh là tướng lĩnh đều bị thách đấu, dùng vũ khí đấu với một nhà sư tay không. Không ai thắng nổi trong các cuộc đấu tay đôi và tất cả đều bị chém đầu. Chỉ có một viên tướng đã từ chối món binh khí các nhà sư chiến binh dành cho mình và yêu cầu, vì sự tôn trọng danh dự của chính bản thân anh ta, cũng được chiến đấu tay không. Ấn tượng trước lòng dũng cảm của viên tướng, các nhà sư tuy vậy vẫn cho rằng một cuộc quyết đấu như thế là không công bằng và trái với quy tắc danh dự của họ. Vậy là họ đề nghị người chiến binh Mông Cổ can trường làm tù binh của họ trong thời gian cần thiết để học võ công họ sử dụng. Ngày anh ta cảm thấy sẵn sàng, tù binh đó có thể thách thức bất cứ ai trong số họ đấu tay không, và chết hoặc giành lại được tự do. Vì mỗi nhà sư đều mang một pháp danh do từng người tự chọn, họ quyết định không đặt pháp danh nào cho tù binh, và người này được gọi là Vô Danh.
Trong thời gian sau đó, hoàng đế đã ban cho các nhà sư chiến binh rất nhiều đặc ân cũng như năm thiền viện trên khắp lãnh thổ nhà Đường. Rồi các nhà sư ngày càng lúc càng trở thành chiến binh nhiều hơn hòa thượng, giàu có hơn là sáng suốt, tham lam hơn là rộng rãi, đến mức chẳng mấy chốc được biết đến nhiều hơn dưới tên gọi là hòa thượng thảo khấu Thiếu Lâm. Danh dự duy nhất họ còn lại là danh dự của lời hứa đã đưa ra, và Vô Danh nhắc lại với họ mỗi khi có dịp. Tự trách bản thân vì vẫn chưa thể đạt tới mức độ hiểu biết của các cai ngục của mình, người tù Mông Cổ, bằng mưu trí, đã tránh giao đấu với các chủ nhân của anh ta. Thế rồi, dần dần, sự thật trở nên rõ ràng với họ, bị đè nặng bởi tuổi tác, sự phì nộn cùng những mưu mô chính trị, là Vô Danh, người miệt mài khổ luyện ngày này qua ngày khác suốt nhiều năm qua, giờ đây đã hơn hẳn họ về võ công và thiền định. Các đệ tử mới nhập môn cũng muốn lấy anh ta làm gương, và chẳng mấy chốc không còn vị sư phụ hay đệ tử mới nào dám đối đầu với người tù, người đã nhận được sự chỉ bảo tốt nhất từ năm thiền viện. Các trưởng lão của họ cuối cùng cũng họp nhau lại để đề nghị anh ta thực hiện cuộc giao đấu mong đợi bấy lâu, và trao cho anh ta, trong trường hợp chiến thắng, ngoài tính mạng, trách nhiệm quay trở về Mông Cổ để lập ra thiền viện thứ sáu. Truyền thuyết kể rằng Vô Danh đã đánh bại đối thủ của mình bằng một đòn duy nhất ra tay nhanh tới mức không trưởng lão nào có thể mô tả lại được, và anh ta đã giết chết đối thủ, làm thân thể đối phương bắn ra xa ba mươi bước mà không nhức nhích lấy một bước nào. Đối thủ của anh ta, chiến binh mạnh nhất trong năm thiền viện Thiếu Lâm, đã chết mà không đổ máu, theo đúng truyền thống Mông Cổ.
Sau đó, Vô Danh tuyên bố chính thức lấy danh xưng Nerguii
chỉ yêu cầu được cấp một con ngựa rồi lên đường về phía Bắc không mang theo binh khí hay lương thực. Các trưởng lão nhanh chóng xóa hết tung tích anh ta trong truyền thuyết về Thiếu Lâm, và sự tồn tại của thiền viện thứ sáu đã biến mất khỏi ký ức người đời.
Yeruldelgger thuộc lòng câu chuyện này, cũng như phần tiếp theo. Bản anh hùng ca của Nerguii
đem đến cho ông lòng can đảm cùng những sức mạnh mà ông không còn hy vọng nữa. Đến lúc này ông đã đi bộ được hai giờ, đôi giày công sở của ông trượt đi trên đá dăm và chiếc áo măng tô mắc vào các bụi rậm, song ông không hề thấy hụt hơi. Ông đã quyết định vượt qua rặng núi pháo đài này bằng cách xuôi theo thung lũng nhỏ của sông Tuul và đi bộ theo sườn núi, lần theo những lối mòn bỏ hoang mà cánh thợ săn cẩn trọng đã vạch ra ở khoảng cách và độ cao an toàn so với dòng sông. Trong bùn lầy do băng tan hay dưới những cơn dông dữ dội của mùa hè, nước sông có thể tràn vào thung lũng cả trăm mét mỗi bên bờ và dâng cao nhiều mét. Hai bên bờ sông, mặt đất gần như bằng phẳng đã bị bào mòn và rửa trôi hết chất màu, và chỉ còn lại một loài cỏ nhỏ cứng cỏi, xanh xao có thể mọc nổi ở đó. Rồi mặt đất dần cao lên thoai thoải, được bao phủ bằng một loại cỏ dày và nhiều hoa hơn. Chính ở rìa thảm cỏ dày và những bụi cây rải rác đá tảng này là nơi mà lối mòn của cánh thợ săn chạy qua. Quá lên nữa, địa hình trở nên vừa dốc hơn vừa bị cắt xẻ bởi các thung lũng sâu dưới những cây thông và thông rụng lá.
Yeruldelgger đi về phía Nam. Khi đi xuyên qua rặng núi pháo đài, ông bắt gặp thung lũng rộng lởm chởm đá bao quanh nó. Từ phía bên kia thung lũng, cách đó năm kilomet, sừng sững những dãy núi ngang của một pháo đài khác lớn hơn và kỳ vĩ hơn nhiều, chứa trong lòng công viên tự nhiên Terelj đẹp tuyệt vời. Thiền viện Yelintey ẩn trong đó, dưới bóng của một vách đá. Yeruldelgger tính toán rằng ông cần thêm ba giờ nữa để tới được thung lũng, nhưng ông đã lên đường từ lúc rạng đông và không hề thiếu thời gian.
Ông bước đi, vui vẻ vì tìm lại được những bản năng đã lãng quên. Ông khám phá trở lại những cảm giác tưởng chừng đã mất. Ông ngạc nhiên về việc cơ thể mình, dù đã bị thành phố và nghề nghiệp của ông bào mòn, vẫn có thể đưa ông đi dễ dàng đến thế qua núi. Yeruldelgger không hề cảm thấy chút sợ hãi nào. Dù là không gian mênh mông khiến người ta chếnh choáng bao quanh ông, hay những loài thú hoang dã sinh sống trong các khu rừng bảo tồn này, hay cả đêm tối và cái lạnh có thể bắt kịp ông. Ông chỉ cảm thấy vô cũng bình yên khi được ở đây, cuối cùng cũng được một mình, không ai biết đến, được đắm mình trong nỗ lực của thế giới đầy sức sống này, nỗ lực đó đang xâm chiếm toàn bộ con người ông. Đó chính xác là cảm giác xâm chiếm ông vào khoảnh khắc đó. Ông từng thuộc về thế giới này, đã gắn bó với nó sâu sắc tới mức nó trở thành cội nguồn nuôi dưỡng ông. Ông đã lấy ra từ nó nguồn sức mạnh ông từng không còn nữa, nhưng giờ đây ông đã nhớ ra. Ông chợt có cảm giác mình đã tùng tràn đầy sức sống, trước đây. Đầy sức sống hơn hiện tại rất nhiều, và ông có thể lại trở lại như thế.
Cũng chính vào khoảnh khắc đó ông nhận ra mối nguy hiểm. Không phải là một nguy hiểm cận kề, hay hoang dã. Không phải một con gấu. Không phải một bầy sói. Cũng không phải một mối nguy hiểm từ thiên nhiên. Thời tiết không hề báo trước có vụ lở đất tiềm tàng hay một trong những cơn động đất thình lình. Không phải đàn ong hay con rắn viper. Mà là một mối nguy hiểm lạnh lùng. Một nguy hiểm xa xăm. Một mối nguy hiểm nằm trong phong cảnh, đang ẩn nấp đâu đó, xa phía trước ông. Yeruldelgger tiếp tục bước đi, không rời mắt khỏi đường chân trời khép kín. Rất kín đáo, ông từ từ rời xa khỏi lối mòn của cánh thợ săn bằng cách đi chéo lên cao về phía bìa rừng. Mối nguy hiểm theo dõi ông. Có kẻ đang quan sát ông. Ông cố ý đưa tay áo lên trán lau mồ hôi và vờ tỏ vẻ mệt mỏi. Ông thoải mái cởi áo măng tô ra, trải lên lớp lá thông rồi buông mình ngồi phịch xuống như một người kiệt sức. Ngay khi chạm đất, ông lập tức lăn người ra sau một thân cây, nấp kín sau vài bụi cây, rồi dò xét phía bên kia thung lũng.
Thung lũng mà ông lần theo chạy qua núi từ Bắc xuống Nam, rồi gặp một thung lũng khác ở gần ngay cửa núi. Một thung lũng hẹp hơn, nhưng có nhiều người lui tới hơn, chạy xiên xuống Hồ Đen. Nơi tiếp giáp của hai thung lũng nằm cách đó vài trăm mét về phía Nam, và chính tại đó Yeruldelgger nhận thấy mối nguy hiểm. Có kẻ nào đó hoặc thứ gì đó đang đợi ông tại đó, phục kích sẵn. Một kẻ nào đó hẳn là đã đuổi theo ông quá trễ để bám theo và bắt kịp ông ở nơi trống trải trong thung lũng, và do đó đã chọn đi vòng lên đón đầu ông ở thung lũng sau. Giờ đây ông đã chắc chắn về điều này: có kẻ nào đó đang đợi ngoài đó để giết ông. Nhưng ông vẫn không hề thấy sợ.
Viên đạn sượt qua vai ông bỏng rát, phạt gãy một cây liễu non đằng sau ông trong lúc ông còn đang đoán xem kẻ săn lùng mình rình nấp ở đâu. Hai giây sau, viên đạn thứ hai cắm thẳng vào thân cây thông rụng lá to là chỗ Yeruldelgger đang nấp Ông cảm thấy cú va chạm trong thân gỗ rung lên đập vào sọ mình. Tay xạ thủ bắn loại đạn dùng để săn thú, nhiều khả năng là với khẩu súng có ống ngắm quang học, nhờ nó hắn chắc hẳn có thể theo dõi ông cũng rõ nét như qua ống nhòm. Tuy vậy, gã này lại là thợ săn tồi. Một kẻ theo dõi kém cỏi, quá nóng vội, hắn vừa đánh mất lợi thế bất ngờ của mình. Nhưng Yeruldelgger vẫn nằm trong góc bắn của hắn. Sau lưng ông, mặt đất dựng lên dốc đứng. Không thể lui vào trong tán rừng mà không lộ mình ra.
Vì tay xạ thủ chỉ có thể ngắm trúng nếu ông di chuyển, Yeruldelgger lựa chọn không động đậy. Gã sát thủ sẽ mất kiên nhẫn mà tìm một góc bắn khác. Trong thời gian cần thiết để bước vài bước, hắn sẽ không thể giữ súng ngắm bắn chính xác và Yeruldelgger có thể tận dụng điều đó để chạy lên nấp ở chỗ cao hơn trong rừng. Cho dù hắn có bắn theo bản năng, với thứ vũ khí hắn đã chọn, thì tay xạ thủ cũng không có chút cơ may nào bắn trúng được ông. Chỉ lệch một độ ở khoảng cách như vậy cũng sẽ khiến phát đạn của hắn đi chệch nhiều mét.
Yeruldelgger vừa bắt đầu suy nghĩ vừa quan sát sườn dốc bên kia thung lũng. Gã sát thủ không thể bám theo ông vào hôm qua từ Oulan-Bator. Erdenbat trên thực tế đã dùng vũ lực bắt cóc ông lên chiếc Lexus của ông ta, và không ai có thể bám theo họ trên con đường vắng vẻ tới Terelj mà không bị phát giác, dù chỉ bởi ánh sáng đèn pha trong đêm. Hơn nữa, nếu gã này tới từ phía Bắc, thế có nghĩa là hắn biết Yeruldelgger đã nghỉ qua đêm tại trang trại. Như vậy, nhiều khả năng đây là người của trang trại. Và tại đó, không có gì diễn ra lại không do Erdenbat ra lệnh. Lão trùm tư bản vậy là đã ra lệnh hạ ông!
Yeruldelgger chuẩn bị liệt kê ra những hậu quả của kết luận này thì ông nhận thấy một chuyển động rất nhỏ ở phía bên kia thung lũng. Ông thận trong ghé mắt ra nhìn trong khi vẫn áp sát người vào thân cây thông rụng lá và trông thấy gã đàn ông mang súng đang lom khom giữa các bụi cây để đi xuống phía dòng sông. Yeruldelgger hiểu ngay hắn đang tìm góc bắn tốt hơn để bắn ngược vào trong rừng. Ông bật dậy lao hết tốc lực lên bờ dốc dốc nhất để góc bắn của kẻ săn đuổi lập tức bị tán lá của những cái cây đầu tiên che khuất. Ông thậm chí chẳng buồn để tâm tới hai tiếng súng nổ. Vài giây sau, ông đã tới chỗ ẩn náu ở vị trí cao hơn một chút trong khu rừng, song lần này ông đã cảm thấy sợ và tim ông đập thình thịch trong lồng ngực. Yeruldelgger ngồi xuống một tảng đá to một hai phút để thở lấy hơi, và điều này đã khiến ông lâm nguy. Ông mơ hồ nghe thấy tiếng động cơ ô tô 4x4 rú vang khi chiếc xe ào ào lội qua sông và lao lên bờ dốc.
Yeruldelgger lập tức nhìn thấy dưới tán rừng mấy bánh xe của một chiếc ô tô địa hình đang tìm đường tiến lên điểm cao nhất giữa những thân cây. Rồi ông thấy phần dưới cánh cửa xe mở ra thật mạnh đập vào một cái cây và đôi chân xỏ giày của lính biệt kích nhảy xuống truy đuổi mình. Nhờ độ dốc của triền núi, gã nọ chưa thể trông thấy Yeruldelgger, song hắn chỉ còn cách ông chừng năm mươi mét, đi giày phù hợp hơn, được trang bị tốt hơn, và có súng. Yeruldelgger lao vụt lên dốc, và trong đà lao ông làm vài viên đá cuội rơi xuống, chúng nẩy lên đập vào các thân cây tận bên dưới. Gã đàn ông lập tức nổ súng theo hướng mà hắn phán đoán là có ông. Hắn không thể bắn trúng và phát súng hú họa đó chỉ nhằm mục đích duy nhất là khiến mục tiêu hoảng sợ và dẫn tới phạm sai lầm. Yeruldelgger biết vậy và đáng lẽ ông phải chế ngự bản thân, song thêm một lần nữa ông lại cảm thấy nỗi sợ hãi cào cấu tim mình. Ông tiếp tục cuộc leo dốc kinh hoàng, loang choạng trên triền núi càng lúc càng dốc, dốc tới mức chẳng mấy chốc ông đã phải dùng đến cả hai bàn tay để tiến lên. Sau mỗi mét, ông lại ngoái lại bên này bên kia cố tìm kiếm kẻ đang săn lùng mình, và mỗi lúc một thêm khiếp hãi sau mỗi lần quay lại như thế mà không thấy gì. Gã kia có thể ở bất cứ chỗ nào. Viên đạn có thể bắn ra và hạ ông như một con thú bất cứ lúc nào. Yeruldelgger vã mồ hôi hột, vừa vì sợ vừa vì gắng sức, và mồ hôi làm hai mắt ông cay sè.
Đột nhiên, ngoái đầu nhìn qua vai, ông thấy gã nọ chỉ còn cách ông chừng hai chục mét ở phía dưới, bên trái. Yeruldelgger đờ người ra mất vài giây. Gã sát thủ vào thế bắn, ngắm bắn rất bình tĩnh và thành thạo. Hoảng hốt, Yeruldelgger lao thẳng về phía trước để nấp sau một cây thông rụng lá to. Đúng khoảnh khắc phát súng vang lên, một thứ gì đó sụp xuống dưới sức nặng của ông, làm ông rơi xuống khoảng không. Ông nghe thấy viên đạn rít lên sát bên tai và thấy các thân cây, bầu trời giữa các ngọn cây và các vách đá trộn lẫn vào nhau lộn xộn trong khi ông ngã lăn lông lốc xuống sườn bên kia của một chỏm núi nhỏ mà ông đã không để ý thấy. Cú nẩy cuối cùng ném ông đập lưng xuống đáy khe núi, một cái hố ẩm ướt, một dãy vực không có lối lên, trên đầu ông là mảnh trời xanh hình bầu dục bị những ngọn thông sẫm màu cắt xé. Một cảm xúc thoáng qua ngập tràn trong ông trước vẻ đẹp bất ngờ này, và ông bất giác quyết định rằng đây sẽ là hình ảnh cuối cùng của ông về thế giới. Ông đã bị mắc kẹt, thân thể bầm giập và bị thương vì cú ngã, không còn sức lực để đứng dậy và chiến đấu, và không còn cơ may trốn thoát nào. Ông ngẩng đầu lên và thấy gã đàn ông đứng bên bờ khe núi, chỉ cách ông chừng mười mét. Hắn cắp khẩu súng săn dưới cánh tay, nòng chĩa xuống đất, và quan sát ông qua cặp kính lấp lánh. Không hề có chút vội vàng nào trong dáng vẻ của gã đàn ông này. Hắn quan sát Yeruldelgger bị thương dưới đáy khe núi hồi lâu như thể đang do dự để đưa ra quyết định. Rồi hắn đổi khẩu súng cầm tay, rút khẩu súng lục tự động vẫn giắt sau lưng, hơi nghiêng người sang một bên, hai chân choãi ra, và ngắm bắn.
Yeruldelgger ép minh cam chịu đón nhận cái chết. Ông sắp chết và chẳng thể làm gì chống lại điều đó nữa. Ý nghĩ một đầu đạn nhỏ bằng kim loại bị nung nóng trắng lên từ cú nổ của thuốc súng sắp bắn vỡ sọ ông làm ông kinh hoàng. Ông giơ một tay ra trước mặt để che đi hình ảnh kẻ sắp giết mình và chỉ có thể thấy loáng thoáng cử động của một cái bóng phía trên khe núi khi phát súng vang lên giữa trời xanh. Khi hạ tay xuống, Yeruldelgger kịp thấy gã đàn ông không còn ở đó nữa và khẩu súng săn của hắn đang nhào lộn trên không trung. Ông thấy món vũ khí biến mất phía sau mình, nghe thấy tiếng nó đập vào một tảng đá rồi nẩy lên ở đâu đó, rồi lĩnh trọn cái báng súng vào trán khi khẩu súng rơi xuống trở lại. Cú đập làm ông ngất xỉu, máu chảy ròng ròng trong mắt ông, làm tăng thêm sự hỗn độn và nỗi kinh hoàng đang bùng nổ trong ông. Nửa tỉnh nửa mê, ông còn nghe thấy âm thanh trầm đục của một cú rơi, tiếng của một đống đá cuội ngã xuống đập lên nhau, tiếng vải bị xé khô khốc lẫn trong tiếng răng rắc của cành cây gãy, và một thân người rơi phịch xuống ông với toàn bộ trọng lượng chết của nó, một cánh tay đập vào khuôn mặt sưng húp của Yeruldelgger. Ngay trước khi bất tỉnh, qua lớp vải bị cú ngã xé rách, trên vai gã đàn ông đang kề sát mắt mình, Yeruldelgger thấy có một hình xăm. Hình xăm biểu tượng soyombo với một chữ thập ngoặc thay vào vị trí của Âm và Dương…