Chương 11: Khu mỏ Dozmaly
-
Công Tắc Bão
- Anthony Horowitz
- 5184 chữ
- 2020-05-09 03:36:53
Số từ: 5177
Nhà Xuất Bản Trẻ
Alex bước vào cảng Tallon, đi ngang qua nhà trọ Cánh Tay Người Đánh Cá, cậu bé cứ thẳng bước trên con đường lát sỏi để đến thư viện. Mới là giữa buổi chiều, nhưng ngôi làng có vẻ như đang ngủ, ở trên bến, những tàu thuyền đang nhấp nhô bập bềnh theo sóng, trên đường phố cũng như vỉa hè chẳng có một ai. Mấy con chim mòng biển lượn lờ trên các nóc nhà một cách uể oải, kêu lên những tiếng thảm thiết, thê lương vốn có. Không khí mang theo vị mặn của muối và phảng phất mùi cá chết.
Thư viện được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ mười chín, thời Nữ hoàng Victoria, đứng cao ngạo trên đỉnh một ngọn đồi. Alex đẩy cánh cửa nặng trịch, bước vào gian phòng có sàn lát gạch vuông kiểu bàn cờ và có khoảng năm mươi kệ sách xếp thành hình bán nguyệt xòe ra quanh khu vực phục vụ nằm ở giữa. Có khoảng sáu, bảy người đang ngồi ở bàn, đọc sách. Một người đàn ông trong chiếc áo len dày đang đọc Tuần san Dân Chài. Alex bước đến quầy phục vụ. Ở đó có một tấm bảng thường hay thấy: VUI LÒNG GIỮ YÊN LẶNG. Ngay bên dưới là một người phụ nữ đứng tuổi, có gương mặt tròn, đang ngồi đọc Tội ác và Hình phạt.
- Cô có thể giúp gì được cho cháu ? - Mặc dù có tấm bảng nhắc nhở nhưng giọng nói của người phụ trách lại to đến độ mọi người đều ngước lên nhìn.
- Vâng...
Alex đến đây vì câu nói vô tình của ông Herod Sayle. Ông ta đã nói về bác Ian Rider: "Nửa thời gian của ông ta là ở trong làng, ở cảng này, ở bưu điện này, ở cả thư viện nữa". Alex đã trông thấy bưu điện, một tòa nhà cũ kỹ gần cảng. Cậu bé không nghĩ là mình sẽ biết được điều gì ở đó. Nhưng còn thư viện ? Hẳn bác Rider đã đến đây để tìm kiếm thông tin. Chắc là người phụ trách sẽ nhớ bác ấy.
- Cháu có một người quen sống ở trong làng - Cậu bé nói - Cháu muốn biết là bác ấy có đến đây không. Tên của bác ấy là Ian Rider.
- Rider là I hay y ? Cô nghĩ là ở đây không có ai tên Rider cả.
Người phụ nữ gõ nhẹ mấy chiếc chìa khóa lên máy vi tính, lắc đầu.
- Không có...
- Bác ấy ở Tập đoàn Sayle - Alex giải thích - Bác khoảng bốn mươi tuổi, ốm, tóc vàng. Bác ấy lái chiếc xe BMW.
- À, có đấy - Người phụ nữ mỉm cười - ông ta có đến đây vài lần. Một người đàn ông tốt. Rất lịch thiệp. Cô biết ông ấy không phải là người sống ở vùng quanh đây. Ông ấy tìm một quyển sách...
- Cô có nhớ là sách nào không?
-Tất nhiên là nhớ rồi. Cô không thể nào nhớ nổi mặt ai nhưng chẳng bao giờ quên một quyển sách nào đâu. Ông ấy quan tâm đến vi-rút.
- Vi-rút à ?
- Ừ. Đúng như thế. Ông ấy cần thông tin...
Một con vi-rút máy tính ! Điều này có thể thay đổi mọi thứ. Vi-rút máy tính là một chương trình phá hoại tuyệt hảo: vô hình và ngay tức khắc. Chỉ cần một chương trình nhỏ được viết thêm vào phần mềm thôi, thì tất cả các thông tin nằm trong phần mềm của Công Tắc Bão đều có thể bị phá hủy bất cứ lúc nào. Ông Herod Sayle không đời nào muốn hủy hoại những gì mình đã tạo ra. Điều đó chẳng có ý nghĩa chút nào. Như vậy, có thể ngay từ đầu, Alex đã có những định kiến sai lầm về ông ta.
- Cô tiếc rằng cô đã không thể giúp được ông ấy - Người phụ trách thư viện tiếp tục nói - Đây chỉ là một thư viện nhỏ, trợ cấp dành cho thư viện đã bị cắt sau ba năm hoạt động - Người phụ nữ thở dài - ông ấy bảo rằng ông ấy có một số sách được gửi đến từ London. Ông ấy còn cho biết là ông ấy có một hộp thư ở bưu điện...
Điều này cũng rất có ý nghĩa. Bác Ian Rider không muốn thông tin được gửi đến Tập đoàn Sayle, nơi chúng có thể bị đọc trộm.
- Đó là lần cuối cùng cô gặp bác ấy phải không ạ ? - Alex hỏi.
- Không. Khoảng một tuần sau, ông ấy quay lại. Ông ấy hẳn đã có được thứ ông ấy cần, vì lần này, ông không tìm sách viết về vi-rút nữa. Ông ấy quan tâm đến những chuyện địa phương.
- Chuyện địa phương nào hả cô ?
- Lịch sử xứ Cornwall. Ở kệ CL ấy - Người thủ thư chỉ - Ông ấy đã bỏ cả buổi chiều để đọc một quyển sách, xong rồi bỏ đi. Kể từ đấy, ông ấy không đến nữa. Cô cảm thấy ngượng vì cứ tưởng là ông ấy đã gia nhập vào thư viện rồi chứ. Cháu có muốn gia nhập không ?
- Cháu cảm ơn cô, nhưng hôm nay thì chưa được, cô ạ.
Lịch sử địa phương. Nó sẽ chẳng giúp gì được cho Alex. Cậu bé gật đầu chào người thủ thư rồi đi ra cửa.
Khi bàn tay vừa chạm đến tay nắm thì cậu chợt nhớ đến mã số: CL 475/19.
Cậu mở chiếc túi, lấy ra món đồ chơi điện tử, gỡ phần lưng ra, mở tấm giấy vuông mà cậu đã tìm được trên giường ngủ. Chắc chắn rồi, những ký tự đều giống nhau. CL. Phần hình vẽ lại không có liên quan gì. CL là nhãn trên quyển sách !
Alex đi tới kệ sách mà người phụ trách thư viện đã chỉ. Sách nhanh cũ hơn nếu không có ai đọc, các quyển sách được tập hợp ở đây đã cũ kỷ lắm rồi, quyển này tựa vào quyển kia một cách mệt mỏi. CL 475/19 - là ký hiệu được in trên gáy sách - có tựa là Dozmary: Chuyện về khu mỏ lâu đời nhất ở Cornwall.
Cậu bé rút lấy quyển sách, đặt lên bàn, mở ra, rồi đọc lướt qua, trong lòng cậu cứ thắc mắc tại sao lịch sử về thiếc ở xứ Cornwall này lại được bác Ian Rider quan tâm đến thế. Câu chuyện đã trở nên rất quen thuộc rồi mà.
Khu mỏ vốn thuộc về gia đình Dozmary và đã truyền qua được mười một đời. Vào thế kỷ mười chín, ở Cornwall có bốn trăm khu mỏ. Đến những năm 1990, con số này chỉ còn lại ba. Dozmary là một trong số này. Giá thiếc tự nhiên sụt thê thảm, khiến khu mỏ gần như bị kiệt quệ, nhưng vì trong khu vực không có công việc nào khác nên gia đình vẫn phải tiếp tục điều hành khu mỏ, mặc dù điều đó khiến họ càng suy kiệt nhanh hơn. Năm 1991, đến ngài Rupert Dozmary là chủ nhân cuối cùng thì khu mỏ cứ trượt dài nên người chủ phải tự bắn vào đầu mình tự sát. Ông được an táng ở nghĩa trang địa phương trong một quan tài mà người ta bảo là làm bằng thiếc.
Con cái của ông đã cho đóng cửa khu mỏ và bán đất cho Tập đoàn Sayle. Khu mỏ bị bịt lại cùng với một số đường hầm hiện đang chìm trong nước.
Quyển sách cũng bao gồm một số ảnh đen trắng cũ: những con ngựa nhỏ dùng dưới hầm mở để kéo các xe chở nặng và những con chim hoàng yến trong lồng. Nhiều người đứng cầm rìu và đèn lồng. Giờ đây, tất cả họ đều đã yên nghỉ dưới lòng đất. Giở lướt qua những trang sách khác, Alex thấy một tấm bản đồ, vẽ sơ đồ vị trí của những đường hầm tại thời điểm khu mỏ đóng cửa:
Thật khó để chắc chắn về tỉ lệ, nhưng đó là mê cung của những những đường hầm, những lò, và những đường ray xe lửa kéo dài hàng dặm dưới mặt đất. Đi xuống lòng đất toàn một màu đen ngòm như thế thì sẽ lạc đường ngay chứ chẳng chơi. Không lẽ bác Ian Rider muốn tìm đường đến khu mỏ Dozmary ? Nếu là thế thật thì bác đã tìm thấy đường nào rồi ?
Alex bỗng nhớ lại lối đi nằm dưới chân cầu thang kim loại. Những bức tường màu nâu sẫm vẫn chưa được xây xong và những ngọn đèn được treo trên những sợi dây điện gợi cho cậu bé nhớ đến một điều gì đó, đột nhiên, cậu hiểu ra đó là cái gì. Lối đi đó không phải là gì khác, nó chính là một trong những cái hầm của khu mỏ cũ ! Đúng là bác Ian Rider cũng đã xuống cầu thang. Giống như Alex, bác cũng đã từng đối diện với chiếc cửa kim loại bị khóa nên đã quyết định tìm đường đi qua nó. Bác đã nhận ra lối đi đó là cái gì - và đó chính là lý do tại sao bác trở lại thư viện. Tại đây, bác tìm được quyển sách về Khu mỏ Dozmary - chính là quyển sách này đây. Bản đồ đã chỉ cho bác đường để đến phía bên kia cánh cửa.
Và bác đã ghi chú về nó !
Alex lấy sơ đồ mà bác Ian Rider đã vẽ ra, đặt nó lên tờ giấy, để nó nằm phía bên trên tấm bản đồ. Giữ cả hai tờ giấy như vậy, cậu bé đưa chúng lên ánh sáng.
Và đây là điều mà cậu đã nhìn thấy:
Những đường nét màu xanh do bác Rider vẽ trên tấm giấy hoàn toàn vừa khít theo các hầm lò của khu mỏ, chúng chỉ đường đi qua. Alex chắc chắn như vậy. Cậu bé có thể tìm được đường vào khu mỏ Dozmary, rồi sau đó, cậu sẽ theo bản đồ đi đến phía bên kia cánh cửa kim loại.
Mười phút sau, cậu rời thư viện cùng với bản sao của tờ giấy. Alex đi xuống bến tàu và tìm được một trong những cửa hàng bán dụng cụ đi biển, nhưng xem ra cửa hàng này bán tất cả mọi thứ trên đời. Ở đây, cậu mua được cho mình một chiếc đèn pin cực mạnh, một cái áo len, một sợi dây thừng và một hộp phấn.
Rồi cậu bé trở lại với những ngọn đồi.
Quay lại chỗ chiếc xe máy, Alex phóng nhanh qua những đỉnh đồi, mặt trời đang lặn dần ở phía tây. Cậu có thể nhìn thấy trước mắt mình một ống khói đơn độc và một cái tháp đang bị hư hại mà cậu hy vọng rằng đó sẽ là lối vào Hầm Kerneweck... cái tên này lấy từ ngôn ngữ cổ của xứ Cronwall. Theo bản đồ, đây là nơi cậu bé sẽ bắt đầu. Xem ra, chiếc xe máy này cũng làm cho cuộc hành trình của cậu bé dễ dàng hơn. Cậu mà đi bộ thì cũng phải mất đến cả giờ đồng hồ là ít.
Alex đã đi hết thời gian rồi và cậu bé biết như vậy. Những chiếc Công Tắc Bão hẳn đã rời nhà máy, trong vòng hai mươi bốn giờ, ngài Thủ tướng sẽ khởi động chúng. Nếu phần mềm thực sự được cài thêm một loại virus nào đó, thì điều gì sẽ xảy ra ? Một sự sỉ nhục với cả Sayle và chính phủ Anh ? Hay là tệ hơn ?
Nhưng làm sao mà các con bọ máy tính ấy lại được để trong những thứ mà cậu bé đã thấy vào đêm rồi nhỉ ? Bất cứ thứ gì mà chiếc tàu ngầm kia đưa vào cầu tàu cũng không thể nào là phần mềm máy vi tính được. Những chiếc hộp màu bạc quá lớn. Và cũng chẳng ai lại bắn chết một người khi anh ta lỡ để rơi một chiếc đĩa máy tính cả.
Đậu xe cạnh cái tháp, Alex đi qua một khung cửa có hình vòng cung. Mới đầu cậu bé tưởng là mình vào nhầm. Tòa nhà trông giống như một ngôi nhà thờ đang bị hư hại hơn là giống lối vào một khu mỏ. Hẳn có những người đã vào đây trước cậu. Vài vỏ lon bia bị bóp méo và những gói khoai tây chiên đã cũ đang nằm lăn lóc trên sàn, còn trên tường là những dòng chữ thường thấy; JRH ĐÃ ĐẾN ĐÂY. NICK THÍCH CASS. Những người khách đã để lại bút tích không nên có trên những mảng sơn tĩnh điện.
Đôi chân của cậu bé bỗng giẫm phải một vật gì đó tạo thành một âm thanh kêu loảng xoảng, cậu nhận ra mình đang đứng trên một cửa lật làm bằng kim loại. Rong rêu và có dại mọc um tùm xung quanh nó, đặt tay lên khe hở hẹp, Alex có thể cảm nhận được luồng không khí đang bốc lên từ bên dưới. Đây hẳn là lối vào hầm.
Cái cửa lật bị chốt chặt bằng một khóa móc nặng trịch, dày cỡ vài xăngtimét. Cậu bé rủa thầm trong bụng. Cậu đã để quên tuýp kem trị mụn trong phòng. Kem sẽ ăn thủng chốt cửa chỉ trong vài giây, nhưng cậu không có thời gian để đi lại bằng đó con đường dẫn về Tập đoàn Sayle mà lấy nó. Cậu bé quỳ xuống, lắc mạnh chiếc khóa móc hòng phá bung nó ra. Trước sự ngạc nhiên của cậu, chiếc khóa bỗng bật ra. Vậy là ai đó đã ở đây trước cậu. Là bác Ian Rider - chỉ có bác thôi. Hẳn bác đã xoay sở để mở khóa và không đóng lại hoàn toàn để khi trở lại, bác có thể mở nó ra.
Alex kéo khóa móc ra, nắm lấy cái cửa lật. Phải dùng hết sức, cậu bé mới nâng nổi nó lên, trong lúc nâng lên như vậy, một luồng không khí lạnh bốc lên mặt cậu. Cửa lật kêu loảng xoảng và cậu nhận ra mình đang nhìn vào một cái hố đen ngòm, nó sâu đến nỗi ánh sáng mặt trời cũng không thể nào rọi tới đáy. Alex rọi đèn pin vào cái hố. Ánh sáng đèn pin rọi được khoảng mười lăm, mười sáu mét là ngừng lại, cái hố sâu hơn. Cậu bé tìm được một hòn sỏi, nhặt lên và ném nó xuống cái hố. Ít nhất là mười giây sau, hòn sỏi mới kêu lách cách khi nó chạm phải một vật gì đó ở tít bên dưới.
Một cái thang đã hoen rỉ được dựng bên hông hầm. Cậu bé nhìn lại, chiếc xe máy vẫn đang nằm ở một chỗ khuất, cậu thắt dây thừng qua vai rồi gắn đèn pin vào thắt lưng. Alex chẳng thích thú gì với việc leo xuống hố. Tay của cậu bé phải chạm vào những nấc thang kim loại lạnh ngắt, còn đôi vai thì đã hoàn toàn ở bên dưới mặt đất trước khi mặt trời tắt nắng, cậu có cảm giác toàn bộ con người mình đã ngập chìm vào sâu trong bóng tối đến độ cậu thậm chí không chắc là mình có mắt hay không nữa. Alex không thể vừa leo xuống vừa cầm đèn pin được. Cậu bé cảm nhận được hành trình leo xuống của mình, tay hạ xuống trước, sau đó mới đến chân, mỗi lúc mỗi xuống sâu hơn, cho đến khi bàn chân cậu đặt được lên một nền đất, chỉ khi ấy, cậu mới biết rằng mình đã xuống đến đáy hầm Kerneweck.
Nhìn ngược trở lên, Alex thấy cái lối vào mà mình vừa leo xuống nhỏ bé, tròn vành vạnh và ở xa như mặt trăng vậy. Cậu bé hít thở một cách khó khăn. Không khí quá loãng và phảng phất mùi kim loại. Cố gắng đấu tranh chống lại cảm giác đang bị giam giữ, cậu rút đèn pin ra và bật lên. Ánh sáng từ tay cậu phát ra, soi rõ đường đi trước mặt và tỏa ra những quảng sáng trắng xung quanh. Alex đang đứng trước một đường hầm dài với những bức tường sần sùi và trên trần là những thanh xà gỗ. Nền đất rất ẩm ướt, một giọt nước muối lóng lánh đang nhỏ xuống. Khu mỏ lạnh quá. Và cậu bé đã biết điều đó trước khi xuống đây, cậu mặc chiếc áo len vừa mua vào, lấy phấn ra, ghi một chữ X lên tường. Đây là một ý tưởng rất hay. Dù dưới này có xảy ra bất cứ chuyện gì, cậu muốn mình sẽ chắc chắn tìm thấy đường quay trở lại.
Cuối cùng, Alex đã sẵn sàng. Cậu bé bước hai bước về phía trước, bỏ lại cái hố thẳng đứng sau lưng, bắt đầu đi vào đường hầm, cậu cảm nhận được ngay lập tức sức nặng của những tảng đá cứng, của đất và của những dấu vết về thiếc còn sót lại đang đè lên mình. Nơi đây thật kinh khủng, giống như đang bị chôn sống vậy, cậu bé phải dùng hết mọi nỗ lực để bắt mình đi tiếp. Khoảng năm mười bước sau, Alex gặp một nhánh đường hầm thứ hai quẹo sang bên trái. Cậu lấy bản sao của tấm bản đồ ra để kiểm tra lại. Theo bác Ian Rider, đây là nơi cậu phải rẽ. Alex chiếu đèn pin qua trái và tiếp tục bước tới, đường hầm dốc xuống, dẫn cậu vào lòng đất mỗi lúc một sâu hơn.
Trong khu mỏ hoàn toàn chẳng có âm thanh nào, ngoài tiếng thở khó khăn, tiếng chân bước đi lạo xạo và tiếng tim đập nhanh thình thịch của cậu bé. Dường như bóng tối đã xóa hết mọi âm thanh rồi, giống như đang trong mơ vậy. Alex mở miệng la to một tiếng, cậu muốn nghe thử một cái gì đó. Nhưng tiếng la của cậu chỉ nghe thấy nhỏ xíu, khiến cậu hiểu ra rằng trên đầu mình là cả một sức nặng khổng lồ. Hiện trạng của con đường hầm này quá tệ. Một số thanh xà đã mục, rơi xuống; khi Alex đi qua, một loạt sỏi đá rơi trúng cổ và vai cậu, khiến cậu nhớ lại cái lý do mà khu mỏ Dozmary đã bị đóng cửa. Nó là một nơi khủng khiếp. Và nó có thể đổ sập xuống bất cứ lúc nào.
Con đường dẫn cậu bé đi xuống sâu hơn bao giờ hết. Cậu có thể cảm nhận được áp lực đang dồn vào tai mình khi bóng tối trở nên dày hơn và ngột ngạt hơn. Alex đến bên một đống sắt có dây điện: một loại máy nào đó đã bị chôn giấu và lãng quên từ lâu lắm rồi. Cậu bé trèo nhanh qua nó, một mảnh sắt sắc cạnh cứa vào chân cậu. Alex đứng thất thần trong vài giây, cậu buộc phải đi chậm lại. Cậu bé không cho phép mình được hoảng hốt. Cậu bắt mình phải nghĩ rằng: Nếu mình sợ hãi, mình sẽ mất tất cả. Chỉ được nghĩ về những gì mình đang làm thôi. Hãy cẩn thận nhé. Từng bước, từng bước một...
- Ổn rồi. Ổn rồi...
Cậu bé thì thầm vài tiếng để động viên mình rồi tiếp tục dấn bước.
Alex đang bước vào một căn phòng hình tròn, được tạo thành do sáu đường hầm gặp nhau, tất cả đều giao nhau, tạo thành một hình sao. Đường hầm rộng nhất dốc về bên trái có đường ray xe lửa. Cậu lia đèn pin và nhìn thấy một vài xe goòng bằng gỗ hẳn đã được dùng để đưa thiết bị xuống và chở thiếc lên mặt đất. Kiểm tra lại bản đồ, cậu bé bị lôi cuốn đi theo hướng có đường ray xe lửa, có vẻ như nó là đường tắt đi qua những con đường mà bác Ian Rider đã vẽ. Cậu bé bỗng quyết định bỏ ý định đi đường tắt. Sơ đồ chỉ cậu phải quẹo, đi ngược trở lại con đường đã đi. Hẳn phải có lý do gì đó. Alex vẽ hai chữ thập khác, một chữ thập cho đường hầm cậu bỏ qua, một chữ thập cho đường hầm cậu chuẩn bị đi vào. Và cậu bé đi tiếp.
Con đường hầm mới này mau chóng trở nên thấp hơn và hẹp hơn cho đến khi Alex phải cúi mình xuống mới đi tiếp được. Ở đây, nền đất rất ẩm ướt, những vũng nước ngập lên đến mắt cá chân của cậu bé. Cậu định thần nhớ lại xem mình đang cách biển bao xa, điều này đồng thời lại đem đến cho cậu một ý nghĩ không mấy dễ chịu khác. Mấy giờ thì thủy triều sẽ dâng lên ? Và khi nước lên cao, điều gì sẽ xảy ra trong khu mỏ ? Bất chợt một cơn ác mộng trỗi lên trong tâm thức của Alex: rồi cậu sẽ bị kẹt lại trong bóng tối, nước dâng lên đến ngực, đến cổ, và quá mặt cậu... Cậu bé thôi không nghĩ nữa, buộc mình phải suy nghĩ đến chuyện khác, ở dưới này, cậu chỉ có một mình, rất xa mặt đất, cậu không được tạo ra một kẻ thù tưởng tượng nào cả.
Đường hầm uốn cong lại và gặp một đường ray xe lửa thứ hai, con đường bị sụt lở, rải rác đây đó là những mảnh gạch đá vỡ, hẳn là chúng đã rơi từ trên xuống. Tuy nhiên, những đoạn đường có dấu vết kim loại này lại khiến cho việc di chuyển về phía trước thuận lợi hơn, vì nó phản xạ được ánh sáng đèn pin. Cậu bé tiếp tục đi cho đến khi gặp chỗ giao nhau với đường ray chính. Cậu mất những ba mươi phút và gần như là quay trở lại điểm ban đầu, khi lia đèn pin rọi xung quanh, cậu hiểu ra lý do tại sao bác Ian Rider lại cho cậu đi một đường vòng dài như thế. Đường tắt đã bị chắn vì một đường hầm khác bị sụt lở. Lên tiếp khoảng ba mươi mét nữa thì con đường ray chính đến chỗ cụt.
Alex tiếp tục đi, vẫn theo tấm bản đồ, rồi dừng lại. Cậu nhìn vào tờ giấy, sau đó nhìn vào con đường phía trước mặt. Không thể đi tiếp được nữa, mặc dù tấm bản đồ không hề vẽ sai.
Cậu bé vừa bước đến một đường hầm nhỏ, tròn, dốc xuống một cách cheo leo hiểm trở. Ở phía dưới, đường hầm bị một thứ trông như một tấm kim loại chắn ngang. Alex nhặt một hòn đá lên, ném vào đó. Một tiếng tõm vang lên. Bây giờ thì cậu đã hiểu. Đường hầm đang chìm trong làn nước đen như mực. Nước đang dâng lên trần hầm, ngay cả khi cậu bé có thể bơi nổi trong nhiệt độ gần như đóng băng này, cậu cũng không thể lấy hơi được.
Alex đã thất bại. Cậu toan bỏ đi, nhưng khi đang lia đèn tìm đường thì ánh đèn của cậu rọi phải một mớ đồ vật gì đó nằm trên nền đất. Cậu bé tiến lại phía ấy, cúi người xuống. Đó là một bộ đồ của thợ lặn, trông nó còn mới toanh. Cậu quay trở lại mép nước, kiểm tra bằng đèn pin. Lúc này, cậu trông thấy một thứ khác. Một sợi dây thừng đã được cột vào một tảng đá. Nó nằm xiên trong nước và mất dạng. Alex hiểu ra nó là cái gì.
Bác Ian Rider đã bơi qua đường hầm bị ngập nước này. Bác đã mặc bộ đồ lặn, và tìm cách nối sợi dây thừng để nó có thể giúp bác bơi qua dễ dàng hơn. Rõ ràng là bác có ý định sẽ quay trở lại. Đó là lý do vì sao bác để bộ đồ lặn ở đó. Đó là lý do vì sao bác đóng hở cái khóa móc.
Alex cầm bộ đồ lặn lên. Nó quá lớn so với cậu, mặc dù nó có thể bảo vệ cậu bé khỏi cái lạnh như cắt da.
Nhưng lạnh không phải là vấn đề duy nhất. Đường hầm có thể dài mười mét. Cũng có thể nó dài tới cả trăm mét. Làm sao cậu bé có thể chắc chắn rằng bác Ian đã không sử dụng bình dưỡng khí để bơi qua đó ? Nếu Alex xuống đó, lặn trong nước, và rồi hết hơi giữa chừng, thì cậu sẽ bị chết đuối. Một lần nữa, trí tưởng tượng của cậu bé lại hoạt động. Cậu hình dung thấy cảnh mình có thể bị đè bên dưới tảng đá, trong bóng tối giá lạnh. Cậu không tưởng tượng ra được một cái chết nào có thể tệ hơn thế.
Cậu bé đứng tần ngần một lát, ôm bộ đồ lặn trên tay. Bỗng nhiên cậu cảm thấy mọi chuyện thật không công bằng. Cậu chẳng bao giờ yêu cầu được đến đây. Chính MI6 đã ép cậu tham gia vào vụ này, và cậu bé đã làm được nhiều hơn những gì mà họ đòi hỏi. Chẳng có cái gì trên trái đất này có thể khiến cậu phải chui đầu vào cái chỗ ao tù nước đọng này. Thật dễ dàng để đặt ra nhiều câu hỏi.
Nhưng bác Ian Rider đã bơi qua đó. Bác Ian Rider đã phải tự làm lấy tất cả, và bác chẳng bao giờ bỏ cuộc... không bao giờ, cho đến ngày người ta ám hại bác. Còn Alex thì vẫn luôn đinh ninh rằng bác chỉ là một giám đốc ngân hàng không hơn không kém ! Cậu bé cảm thấy lòng kiên quyết của mình đã nhường chỗ cho nỗi tức giận. Bọn người đó - Sayle, Yassen, bất cứ ai - đã thổi tắt cuộc đời của bác cậu đơn giản chỉ bởi vì điều đó đem lại tiện ích cho họ. Được rồi, cậu sẽ chẳng chết vì cái gì hết. Alex sẽ vượt qua.
Cậu bé mặc bộ đồ lặn vào. Nó lạnh, ẩm ướt và chẳng thoải mái chút nào. Cậu kéo phẹcmơtuya ở phía trước lên. Cậu không cởi bỏ bộ quần áo mặc đi đường, có thể nó sẽ giúp ích cho cậu. Bộ đồ lặn có vài chỗ bị rộng, nhưng chắc chắn rằng nó sẽ không để cho nước thấm vào người cậu.
Bây giờ sẽ phải hành động thật nhanh, sợ rằng nếu còn chần chừ, cậu sẽ thay đổi ý định, Alex tiến đến gần mép nước. Cậu đưa một tay ra nắm lấy sợi dây thừng. Nếu bơi bằng cả hai tay sẽ nhanh hơn, nhưng cậu không dám thách thức rủi ro. Sơ sểnh mà bị lạc trong đường hầm ngập nước này thì cũng tệ hại như là bị cạn không khí vậy. Kết quả cũng hoàn toàn như nhau. Alex nắm chặt sợi dây thừng để nó chỉ đường cho cậu bơi qua. Cậu hít vào thật sâu, cố gắng cung cấp thật nhiều oxy cho máu, cậu biết rõ rằng điều này sẽ cho cậu có thêm vài giây phút quý báu nữa. Thế rồi cậu bé lao mình xuống nước.
Cái lạnh thật hung dữ, nó giống như một cái búa nện mạnh vào hai lá phổi của Alex, ép sạch hết không khí ở đấy ra. Nước đấm vào đầu, đập vào mũi và hai mắt cậu bé. Các ngón tay của cậu bé lập tức tê cứng lại. Cả người Alex bị sốc, tuy nhiên, bộ đồ lặn đã giữ và che chắn cho cậu được một vài chỗ trên người ấm áp. Bám lấy sợi dây thừng, cậu đạp chân, lướt người tới phía trước.
Cậu bé đã tự cam kết với chính mình rồi. Sẽ không có chuyện quay ngược trở lại.
Tay kéo, chân đạp. Tay kéo, chân đạp. Alex mới ở dưới nước chưa tới một phút, nhưng hai lá phổi của cậu có cảm giác như đang căng ra. Nóc hầm đang cạ vào đôi vai khiến cậu bé sợ rằng nó sẽ cứa rách bộ đồ lặn và chọc thủng cả da cậu theo cách đó. Nhưng cậu không dám bơi chậm lại.
Tay kéo, chân đạp. Tay kéo, chân đạp. Cái lạnh băng giá đang rút dần sinh lực của cậu bé. Cậu có thể ở dưới nước trong bao lâu ? Chín mươi giây ? Hay một trăm ? Mắt Alex nhắm chặt lại, cho dù chúng có mở ra thì cũng chẳng có gì khác biệt cả. Cậu bé đang ở trong dòng xoáy của địa ngục đen ngòm và lạnh giá. Hơi thở của cậu đang từ từ đi ra.
Cậu đẩy mình lướt tới dọc theo sợi dây thừng, lòng bàn tay của cậu bị dây thừng cào xước. Cậu đã bơi được gần hai phút, nhưng lại có cảm giác như mười phút vậy. Cậu phải mở miệng ra để thở... mặc dù đang ở trong nước, không phải trong không khí, khiến cho nước xộc vào cổ họng. Một tiếng thét câm lặng bộc phát ra ở bên trong. Tay kéo, chân đạp. Tay kéo, chân đạp. Và rồi, sợi dây thừng chuyển thành thế nghiêng theo hướng lên trên, cậu bé cảm thấy đôi vai mình không còn chạm phải một vật gì nữa, miệng cậu há ra thật mạnh muốn sái cả quai hàm, hổn hển thở, vậy là cậu lại được hít thở không khí và hiểu rằng mình đã hoàn thành chuyến bơi.
Nhưng mà bơi đến đâu đây ?
Alex chẳng nhìn thấy gì cả. Cậu bé đang nổi lên giữa một cảnh tối tăm hoàn toàn, không thể nhìn thấy gì, dù chỉ là xem xem nước kết thúc ở đâu. Cậu đã để đèn pin lại ở phía bên kia, cậu biết rằng mặc dù có muốn, cậu cũng không còn sức đâu mà quay trở lại được nữa. Cậu đã đi theo con đường mà người bác quá cố đã để lại. Và chỉ đến lúc này, cậu bé mới nhận ra rằng có khả năng nó dẫn cậu đến chỗ chết.