Chương 3
-
Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican
- James Fenimore Cooper
- 4181 chữ
- 2020-01-30 01:00:07
Dịch giả: Trương Đắc Vỵ
NXB Văn Học
Thuở ấy những cánh đồng này chưa cày vỡ
Các con sông đầy ắp cuộn trôi,
Giai điệu sóng nước ngập tràn
Rừng cây xanh tươi bát ngát;
Những dòng lũ đổ dồn, những con suối reo vui,
Và nước nguồn trào tuôn trong bóng mát.[16]
• BRYANT
[16]
Một người da đỏ bên phần mộ tổ tiên
của William Cullen Bryant, nhà thơ Mỹ, 1794 - 1878.
Tạm biệt chàng Heyward tự tin và các bạn đồng hành cả tin của anh đang dấn mình vào chốn rừng sâu ở đó có những con người quỷ quyệt, chúng tôi muốn sử dụng quyền hạn của tác giả để chuyển sang một cảnh khác ở cách nơi chúng ta vừa gặp họ vài dặm về phía Tây.
Ngày hôm đó, có hai người quanh quẩn bên bờ một con sông nhỏ, nước chảy xiết, cách doanh trại của tướng Webb chừng một tiếng đồng hồ đi đường. Trông họ có vẻ đang chờ đợi một người nào sắp tới hoặc một sự kiện nào sắp xảy ra. Vòm cây bao la của núi rừng bao phủ đôi bờ dòng sông nhỏ, nghiêng mình trên mặt nước, tỏa bóng nhuốm đậm thêm dòng nước thắm. Những tia nắng mặt trời trở nên bớt gay gắt, và cái nóng nung nấu ban ngày cũng dịu dần khi hơi mát từ lòng các dòng sông con suối đầy lá cây bốc lên và đọng lại trong không trung. Bầu không khí ắng lặng đặc biệt của tháng Bảy oi ả tại một miền nước Mỹ trùm lên khu rừng hẻo lánh; chỉ nghe thấy tiếng thì thầm của hai người, tiếng gõ thưa thớt và uể oải của con chim gõ kiến, tiếng kêu lạc điệu của con giẻ cùi sặc sỡ, hoặc tiếng thác đổ ì ầm nơi xa.
Tuy nhiên, những âm thanh yếu ớt và ngắt quãng đó đã quá quen tai những người của núi rừng nên không làm cho họ phải chú ý mà bỏ dở câu chuyện lý thú của họ. Một trong hai nhân vật kể trên có màu da đỏ và trang phục man sơ của thổ dân trong rừng; nhân vật thứ hai, áo quần đơn sơ và thô lậu có nước da sáng hơn tuy sạm nắng và bàng bạc chứng tỏ thuộc dòng giống Âu châu. Người thứ nhất ngồi ở đầu một thân cây rêu mốc, với một tư thế khiến cho có thể làm tăng hiệu lực những lời nói sôi nổi của mình bằng những cử chỉ khoan thai nhưng đầy diễn cảm mà người da đỏ thường có trong khi tranh luận. Thân người đó hầu như để trần, có hình vẽ khủng khiếp của thần Chết, bằng hai màu trắng và đen. Đầu cạo nhẵn thín chỉ còn giữ lại chỏm tóc nổi tiếng nom rất hùng dũng, không trang điểm gì khác ngoài chiếc lông chim đại bàng độc nhất xuyên vào chỏm tóc, rủ xuống vai bên trái. Thắt lưng đeo một chiếc rìu trận và một con dao chế tạo tại Anh quốc dùng để lột da đầu kẻ thù; một khẩu súng trận ngắn nòng, loại súng những người da đỏ đồng minh được trang bị do chính sách của người da trắng, hững hờ nằm ngang đầu gối trần trụi và gân guốc của con người này. Ngực rộng, tay chân nở nang và dáng điệu trầm tĩnh, tất cả nói lên rằng người chiến binh đang độ sung sức, không một nét nào chứng tỏ sinh lực đã sút kém.
Thân hình người da trắng, nhìn qua những bộ phận không bị che lấp, là thân hình của một người đã gặp nhiều gian truân thời niên thiếu. Thân hình anh ta tuy có bắp thịt nhưng dong dỏng chứ không đậm, mỗi đường gân thớ thịt đều có vẻ rắn chắc do luôn luôn phải chịu đựng nguy hiểm nhọc nhằn. Anh ta mặc một chiếc áo đi săn màu xanh lá cây đính tua vàng bạc phếch, đầu đội một chiếc mũ mùa hè bằng da đã trơ cả lông. Thắt lưng bằng chuỗi vỏ sò - giống như chiếc thắt lưng bó lấy bộ quần áo chẽn của người da đỏ - cũng giắt một con dao nhưng không có rìu trận. Đôi giày được trang trí sặc sỡ như của người da đỏ; về y phục nửa thân dưới, chỉ thấy lộ ra dưới chiếc áo khoác đi săn một đôi xà cạp bằng da hoẵng có dây thắt hai bên và được bó chặt vào đầu gối bằng sợi gân hươu. Trang phục của anh ta còn gồm một túi đạn và một cái sừng đựng thuốc súng, một khẩu súng nòng dài, mà lý thuyết đã dạy cho những người da trắng khôn ngoan là lợi hại nhất trong tất cả các loại súng, tựa vào một thân cây nhỏ gần đấy. Mắt của người thợ săn hoặc trinh sát này nhỏ, lanh sắc và luôn luôn hoạt động, trong lúc nói chuyện, cặp mắt vẫn đảo quanh như lùng thú săn hoặc nghi ngờ sự xuất hiện đột ngột của kẻ thù lẩn quất đâu đây. Mặc dù có những biểu hiện của tính đa nghi, diện mạo của anh không gian giảo và trong lúc chúng tôi tả ra đây, con người đó chứa đầy vẻ trung thực và cương nghị.
Anh ta nói tiếng của những thổ dân trước kia sống trên miền đất nằm giữa sông Hudson và sông Potomack; chúng tôi xin phỏng dịch ra đây, cố gắng lột tả những đặc điểm của con người và của ngôn ngữ anh ta dùng; anh nói:
Bác Chingachgook này, ngay những truyền thuyết của bộ tộc bác cũng ủng hộ ý kiến của tôi. Tổ tiên bác từ phía mặt trời lặn tới; họ vượt qua con sông lớn[17] giao chiến với những người da đỏ và chiếm đất. Còn ông cha tôi từ phía mặt trời đỏ rực lúc buổi sáng vượt qua hồ mặn[18], và cũng làm ăn theo cách tổ tiên bác đã đặt ra. Hãy để Chúa xét xử việc đó; giữa anh em chúng ta, xin miễn bàn tới.
[17] Sông Mississippi.
[18] Ý nói là đại dương.
Người Anh điêng nghiêm nghị đáp lại cũng bằng thứ tiếng đó:
Tổ tiên của tôi đánh nhau với những người da đỏ vũ khí thô sơ. Bác Mắt Chim Ưng, giữa mũi tên đầu bịt đá của người thổ dân và viên đạn chì mà các bác dùng để giết người, không có gì khác nhau sao?
Người Anh điêng cũng có lý của họ tuy tạo hóa đã phú cho họ nước da đỏ!
người da trắng đáp, đầu lắc lư như không muốn gạt bỏ một câu hỏi yêu cầu sự công bằng của mình. Trong giây lát anh có vẻ như cảm thấy mình đuối lý; rồi trấn tĩnh lại, anh cố đem những hiểu biết hạn chế để trả lời những ý kiến đối lập của người đối thoại, anh nói tiếp:
Tôi không phải là một nhà thông thái, và tôi không sợ ai biết điều đó; nhưng căn cứ vào những điều mắt tôi đã trông thấy trong các cuộc săn hươu và sóc, tôi thiết nghĩ một khẩu súng trong tay người da trắng không nguy hiểm bằng chiếc nỏ làm bằng gỗ cây hồ đào và mũi tên gắn đá được cái đầu và con mắt của một người da đỏ ngắm bắn.
Ông cha bác đã kể với bác chuyện đó.
Chingachgook lạnh lùng xua tay đáp,
Những người già cả của bác nói gì? Họ có kể lại với các chiến binh trẻ của họ rằng những người mặt tái[19] đã gặp những người da đỏ trên mình sơn những nét chiến họa và trong tay có rìu đá hoặc súng gỗ không?
[19] Tức là người da trắng ở châu Âu.
Tôi không phải là một người có định kiến và cũng không hợm hĩnh gì về những đặc quyền tạo hóa dành cho mình, mặc dù kẻ thù xấu xa nhất của tôi trên mặt đất này là bọn Iroquois cũng không dám phủ nhận rằng tôi là một người da trắng chính cống,
người trinh sát nhìn màu da trắng nhờ ở đôi bàn tay xương xẩu và gân guốc của mình với một vẻ khoái trá kín đáo, nói,
Là một người trung thực, tôi sẵn sàng thừa nhận rằng dân tộc tôi có nhiều việc làm mà tôi không thể tán thành. Một trong những lề thói của họ là viết thành sách những điều họ đã làm và trông thấy; lẽ ra họ phải trở về làng kể lại những điều đó, nhưng làm như vậy thì những kẻ khoác lác hèn nhát sẽ bị vạch mặt nói láo, còn anh lính dũng cảm có thể viện bè bạn ra làm chứng cho những lời nói thật của mình. Do cách làm không hay này, một người có ý thức không phí hoài thời gian ngồi với đám đàn bà để nghe về những khuyết tật của người này người khác, không bao giờ được biết tới những chiến công của cha ông mình hoặc cảm thấy kiêu hãnh khi cố gắng làm được tốt hơn. Riêng tôi tự kết luận rằng tất cả những người Buppos đều biết bắn; tôi cũng có khiếu về môn bắn súng, một năng khiếu truyền từ đời này sang đời kia, vì những điều răn của Chúa đã dạy chúng ta rằng mọi cái hay cái dở đều được truyền lại cho đời sau. Tuy nhiên tôi không thích trả lời hộ người khác về vấn đề này. Vả lại mọi việc đều có hai mặt của nó; bởi thế, bác Chingachgook, tôi muốn hỏi một câu: theo truyền thuyết của người da đỏ, chuyện gì đã xảy ra khi cha ông chúng ta gặp nhau lần đầu?
Trong một phút đồng hồ, người da đỏ lặng yên; rồi, với một vẻ đầy trang nghiêm đối với việc sắp làm, bác bắt đầu kể lại vắn tắt câu chuyện, vẻ mặt trịnh trọng khiến cho lời nói của bác tăng thêm phần chân thực:
Mắt Chim Ưng hãy nghe tôi nói, và tai bác sẽ không uống một lời dối trá nào. Đây là những điều ông cha tôi đã nói và những việc người Mohican đã làm.
Bác ngập ngừng một lát, thận trọng liếc nhìn bạn, rồi tiếp tục bằng một giọng nửa chất vấn nửa khẳng định:
Phải chăng con sông ở dưới chân chúng ta chảy về phương có mùa hè[20] cho tới khi nước của nó trở nên mặn và dòng nước chảy ngược lại?
[20] Tức phương Nam.
Không thể phủ nhận được rằng truyền thuyết của bác đã nói đúng cả hai điều đó,
người da trắng đáp,
chính tôi cũng đã ở đấy và đã nhìn thấy; tuy nhiên, vì sao khi nước ở trong bóng mát thì dịu ngọt mà khi ra ánh sáng lại mặn chát, tôi chưa bao giờ giải thích nổi sự thay đổi này.
Thế còn dòng nước?
người Anh điêng hỏi với vẻ chờ đợi một câu trả lời công nhận một hiện tượng mà bác thấy lạ lùng nhưng vẫn tin là có thật,
ông cha Chingachgook không nói dối đâu.
Thánh kinh cũng không thể nói đúng hơn, và hiện tượng này quả có thật trong thiên nhiên. Người ta gọi dòng nước chảy ngược đó là nước triều, một hiện tượng dễ giải thích và khá rõ ràng. Trong sáu tiếng đồng hồ nước chảy vào và, trong sáu tiếng, nước lại rút ra, nguyên nhân như sau: khi nước biển cao hơn mặt sông thì nước chảy vào cho đến khi mặt sông cao hơn thì nước lại chảy ra.
Nước ở trong rừng và các hồ lớn chảy xuôi cho tới khi dòng nước nằm ngang như bàn tay này,
người Anh điêng vừa nói vừa dang cánh tay ngang mặt,
rồi nước không chảy nữa.
Người trinh sát hơi phật lòng vì thấy câu nói của bạn ngụ ý không tin vào những lời mình giải thích về bí mật của nước triều, bác nói:
Không một người trung thực nào phủ nhận điều đó. Và tôi đồng ý là chuyện này có thật trên quy mô nhỏ và ở nơi đất bằng. Nhưng mọi việc đều tùy thuộc vào quy mô của vấn đề ta xem xét, cho nên trên quy mô nhỏ thì mặt đất bằng phẳng, nhưng trên quy mô lớn thì nó lại tròn. Bởi vậy, nước ở các đầm ao và ngay cả các hồ lớn nước ngọt là nước tù như bác và tôi đều biết vì đã nhìn thấy; nhưng một khi bác vãi nước trên một khoảng rộng lớn như biển chẳng hạn, mà quả đất lại tròn, thì có lý nào nước có thể đứng yên được! Dù bác muốn cho là nước đứng yên dưới chân những tảng đá đen ngòm cách chúng ta một dặm về phía thượng lưu kia, chính lỗ tai bác lại bảo bác rằng ngay lúc này, nước đang xô qua những tảng đá ấy.
Tuy không thỏa mãn với lý luận của bạn, người Anh điêng không lộ vẻ hoài nghi vì quá giàu lòng tự tôn. Bác làm như thể tin vào những lời đó, rồi lại tiếp tục kể chuyện với tư thế nghiêm trang như lúc trước:
Chúng tôi đi từ chỗ mặt trời bị che khuất ban đêm, vượt qua những cánh đồng bao la có nhiều trâu, đến tận con sông lớn. Tại đây, chúng tôi đánh nhau với người Alligewi cho tới khi máu của chúng đỏ lòm mặt đất. Từ bờ con sông lớn tới bờ hồ nước mặn, không gặp một ai. Bọn người Maqua đi theo sau đằng xa. Chúng tôi cho rằng miền đất phải thuộc về chúng tôi bắt đầu từ chỗ nước con sông này không chảy ngược nữa tới một con sông khác cách đây hai mươi ngày đường về phía có mùa hè. Chúng tôi đã chiến đấu để giành lấy đất đai và chúng tôi sống để giữ gìn nó. Chúng tôi xua bọn Maqua vào rừng ở với lũ gấu. Chúng chỉ được liếm muối ở các bãi đất mặn, chúng không kiếm được cá ở các hồ lớn, và chúng tôi ném xương cho chúng.
Tất cả những điều đó, tôi đã được nghe và tôi tin,
người da trắng nói khi thấy người Anh điêng ngừng lời,
nhưng việc đó xảy ra từ lâu trước khi người Anh đặt chân lên đất này.
Trước kia có một cây thông mọc lên ở chỗ cây hạt dẻ đây. Những người mặt tái đầu tiên đến với chúng tôi không nói tiếng Anh. Họ tới trên một chiếc thuyền lớn khi ông cha tôi cùng với những người da đỏ trong vùng đã chôn những chiếc rìu trận xuống đất. Thuở ấy, bác Mắt Chim Ưng ạ,
người da đỏ kể tiếp, để lộ niềm xúc động mạnh qua giọng nói trầm hẳn và đục khiến cho ngôn ngữ bác dùng trở nên thánh thót,
thuở ấy, Mắt Chim Ưng ạ, chúng tôi cùng chung một dân tộc và sống sung sướng. Hồ mặn cho chúng tôi cá, rừng cho chúng tôi hươu, bầu trời cho chúng tôi chim. Chúng tôi lấy vợ và họ cho chúng tôi con cái; chúng tôi thờ phụng đấng Đại Linh[21] và chúng tôi dồn bọn Maqua ra mãi xa, không nghe được tiếng ca chiến thắng của chúng tôi.
[21] Từ của thổ dân châu Mỹ dùng để chỉ thần Cơ Đốc giáo.
Thế bác có biết gì về gia đình bác lúc đó không?
người da trắng hỏi,
Một người Anh điêng như bác là một con người chính trực. Tôi nghĩ rằng bác đã thừa hưởng những đức tính của cha ông, bởi vậy tổ tiên bác phải là những chiến binh dũng cảm và những người khôn ngoan trước ngọn lửa của hội đồng bộ tộc.
Bộ tộc tôi là thủy tổ của các dân tộc, nhưng tôi là một người có dòng máu không pha tạp. Dòng máu của các thủ lĩnh chảy và mãi mãi còn trong huyết quản của tôi. Người Hà Lan đặt chân lên đất này và phát cho dân tôi nước-lửa[22]; dân chúng uống vào cho tới khi trời và đất tưởng chừng như chấp vào nhau, và họ nghĩ một cách dại dột là đã tìm thấy đấng Đại Linh. Thế rồi họ phải bỏ đất đai mà đi. Lần lần, họ bị đuổi ra xa bờ nước, đến nỗi tôi đây, một thủ lĩnh, một người tù trưởng, chỉ mới nhìn thấy mặt trời chiếu sáng qua những cành cây và chưa bao giờ được thăm viếng mồ mả của tổ tiên mình.
[22] Ý nói là rượu mạnh.
Những ngôi mộ mang lại cho trí óc những ý nghĩ nghiêm túc,
người da trắng đáp, vô cùng xúc động trước vẻ đau khổ bình tĩnh của bạn,
và chúng giúp thêm cho ta làm điều thiện. Riêng tôi lại muốn cho nắm xương tàn của mình phơi ra giữa rừng, không nơi chôn cất, hoặc làm mồi cho bầy sói gặm xé. Tìm đâu thấy những người của giống nòi bác bao mùa hạ trước đây vẫn về với bà con thân thích ở miền Delaware[23].
[23] Ngày trước, người Mohicans sống tại miền này.
Còn đâu những bông hoa của mùa hè năm xưa!… Rụng hết rồi, từng bông từng bông; giống nòi của tôi cũng ra đi như vậy, lần lượt về thế giới của linh hồn. Tôi đang ở trên đỉnh đồi và sẽ phải xuống thung lũng, và cho đến khi Uncas theo gót tôi thì sẽ không còn ai mang dòng máu của người tù trưởng, vì con trai tôi là người cuối cùng của bộ tộc Mohican.
Uncas đây!
có tiếng nói cũng nhẹ và đục mé sau lưng Chingachgook,
Ai bảo gì Uncas?
Bất thình lình bị ngắt quãng người da trắng sờ vào con dao găm cắm trong bao da và vô tình giơ tay với khẩu súng; trái lại người da đỏ vẫn ngồi yên, không quay đầu về phía có tiếng nói phát ra.
Liền đó, một chiến binh trẻ măng lướt qua mặt hai người, không một tiếng động và ngồi xuống bên bờ con sông chảy xiết. Trong hồi lâu, người cha không thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc nào và cũng không hỏi han gì; cả hai đều có vẻ chờ đợi thời gian thuận tiện mới nói để khỏi tỏ ra rằng mình tò mò như đàn bà hay sốt ruột như con trẻ. Dường như thông hiểu tập quán của họ, người da trắng buông súng ngồi yên với một thái độ dè dặt. Cuối cùng Chingachgook từ từ quay mặt về phía con trai của mình và hỏi:
Bọn Maqua có dám để lại dấu giày của chúng trong khu rừng này không?
Con đã dò được vết tích của chúng
người da đỏ trẻ tuổi đáp,
và biết là bọn chúng đông bằng số ngón tay của con; nhưng chúng lẩn lút như một lũ nhát gan.
Người da trắng mà chúng ta sẽ gọi là Mắt Chim Ưng theo cách xưng hô của những bạn đồng hành của bác, lên tiếng:
Quân trộm mò ra để lột da đầu và cướp bóc chăng? Hay là viên tướng Pháp Montcalm hung hăng kia tung do thám đến tận doanh trại của ta để dò đường chúng ta đi!
Thôi được,
Chingachgook đáp, mắt nhìn về phía mặt trời đang lặn,
chúng sẽ bị xua đuổi như ta đuổi hươu nai ra khỏi bụi rậm. Mắt Chim Ưng, tối nay ta hãy ăn đã, ngày mai sẽ cho bọn Maqua biết tay.
Tôi sẵn sàng làm cả hai việc đó; nhưng muốn đánh bọn Maqua thì phải biết chúng lẩn trốn ở đâu đã; còn như muốn ăn thì phải có thú săn… Nhưng kìa, vừa nhắc thì nó đã dẫn xác tới! Ở dưới chân núi kia, trong bụi rậm thập thò một cặp sừng to nhất mà tôi trông thấy trong mùa này. Uncas.
Bác nói tiếp gần như thì thào, cố nén tiếng cười khỏi bật ra như một người có thói quen thận trọng,
Bác đánh cuộc ba mồi thuốc súng đầy lấy ba tấc thắt lưng vỏ sò rằng bác sẽ bắn trúng giữa hai mắt con vật và gần mắt phải hơn mắt trái.
Không thể trúng được,
người Anh điêng trẻ đứng phắt dậy với tất cả sự sôi nổi của tuổi thanh niên,
con vật chỉ thò ra cái chóp sừng.
Thằng bé ngây thơ thật,
người da trắng lắc đầu nói với Chingachgook,
Nó tưởng rằng khi người đi săn chỉ thấy một bộ phận của con vật thì không thể biết được những bộ phận khác của nó ở đâu sao!
Nói rồi, bác tì súng vào vai chuẩn bị trổ tài thiện xạ mà bác rất tự hào thì người chiến binh da đỏ có tuổi lấy tay hất khẩu súng, nói:
Mắt Chim Ưng, bác có muốn đánh nhau với bọn Maqua không?
Người trinh sát hạ súng quay mặt đi như biết mình đã phạm sai lầm, rồi đáp:
Bọn Anh điêng này thông thuộc núi rừng như thể đó là bản năng của chúng vậy. Uncas, bác đành phải nhường con nai cho mũi tên của cháu, nếu không chúng ta sẽ giết con vật để rồi lũ kẻ cắp Iroquois xơi mất thôi.
Vừa thấy cha khoát tay ra hiệu tán thành ý kiến đó. Uncas liền nằm rạp xuống đất, thận trọng bò lại gần con vật. Khi chỉ còn cách nơi ẩn nấp của nó vài thước, chàng hết sức nhẹ tay lắp tên vào nỏ; đôi sừng động đậy như thể con vật đánh hơi thấy kẻ thù và cảm thấy bất an; rồi có tiếng bật dậy, một vệt trắng bay vụt vào trong bụi, và con vật bị thương lao thẳng từ trong bụi tới ngay chân kẻ thù đang núp kín. Tránh khỏi đôi sừng của con vật nổi điên, Uncas lao tới bên nó và xuyên một nhát dao vào cổ; con nai chồm lên rồi ngã vật bên bờ sông, máu nhuộm đỏ dòng nước.
Thế là công việc đã hoàn thành nhờ tài khéo léo của người Anh điêng.
Người trinh sát cười khe khẽ rất khoái trá,
Thật là một cảnh tượng đẹp mắt! Tuy nhiên cung tên chỉ bắn được tầm ngắn và cần phải dùng dao để kết thúc công việc.
Bỗng Chingachgook kêu lên một tiếng và quay phắt như một con chó săn đánh hơi thấy mồi. Người trinh sát reo lên, long lanh cặp mắt của một người đi săn chuyên nghiệp:
Lạy Chúa có cả một đàn hươu! Nếu chúng đến vừa tầm súng, nhất định tôi sẽ hạ một con dù cho cả sáu bộ lạc nghe thấy tiếng nổ. Chingachgook, bác có nghe thấy gì không? Đối với đôi tai tôi, núi rừng đều yên lặng.
Người Anh điêng cúi rạp xuống cho tới khi tai gần chạm đất, nói:
Chỉ có một con nai và nó đã chết rồi. Tôi nghe có tiếng chân đi.
Có lẽ lũ chó sói đã buộc con nai này phải chạy trốn tới đây, và bây giờ chúng đang dõi theo vết chân con vật.
Không phải. Ngựa của những người da trắng đang đi tới!
người da đỏ vươn thẳng người lên với một vẻ trang nghiêm và ngồi lại ngay ngắn trên cây gỗ,
Mắt Chim Ưng, họ là những người anh em của bác đấy, hãy đến nói chuyện với họ đi.
Tôi sẽ làm việc đó với một thứ tiếng Anh mà ngay đức vua cũng sẽ không hổ thẹn khi phải trả lời,
người đi săn đáp bằng ngôn ngữ mà bác rất tự hào,
nhưng tôi không nhìn thấy gì và cũng chẳng nghe thấy tiếng người hoặc tiếng con vật nào. Có điều lạ lùng là một người da đỏ lại phân biệt được tiếng người da trắng giỏi hơn một người mà ngay kẻ thù cũng phải công nhận là có dòng máu không bị pha tạp cho dù có nghĩ rằng người đó đã sống với những người da đỏ khá lâu. Ồ, có cái gì như tiếng cành khô gãy… bây giờ lại thấy tiếng bụi cây động đậy… phải, phải, có tiếng chân bước mà tôi đã tưởng nhầm là tiếng thác reo… và… nhưng kìa, họ đã tới. Cầu Chúa cho họ không rơi vào tay bọn Iroquoist!