Chương 12
-
Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican
- James Fenimore Cooper
- 6082 chữ
- 2020-01-30 01:00:09
Dịch giả: Trương Đắc Vỵ
NXB Văn Học
Hề: Tôi đi đây, thưa ngài,
Rồi sẽ trở lại tức thì
Với ngài.[38]
• SHAKESPEARE
[38] Đêm thứ mười hai (hồi 4, cảnh hai) của William Shakespeare.
Bọn Huron sững sờ trước cái chết của đồng bọn. Nhưng khi nhìn đường đạn vô cùng chính xác nhằm đúng kẻ thù, sẩy tay một chút là vào bạn, chúng đồng thanh kêu:
Súng Dài
, tiếp theo là một tiếng hú man rợ, rền rĩ. Từ trong một bụi cây, nơi bọn Huron đã bất cẩn tập trung vũ khí, một tiếng thét to đáp lại đồng thời Mắt Chim Ưng xông tới, không kịp nạp đạn khẩu súng vừa thu hồi được, bác nắm đấu nòng vung lên múa tít. Nhưng lại thấy bóng một người khác dũng mãnh và nhanh nhẹn hơn, vượt lên trước và, với một sự mau lẹ gan dạ tuyệt vời nhảy vào giữa đám Huron, ngay trước mặt Cora, tay múa rìu trận tay vung lưỡi dao sáng loáng, trông thật dữ tợn. Trước những hành động táo bạo bất ngờ, bọn địch chưa kịp xử trí thì lại một bóng người thứ ba, trên mình vẽ biểu tượng thần Chết, vọt qua mặt chúng, tới ngay bên cạnh người vừa nói trên, dáng điệu cũng rất dữ tợn. Trước khí thế hùng dũng của ba người mới tới, lũ đao phủ man rợ lùi lại, buông ra những tiếng kêu kinh ngạc rồi hú lên những cái tên quen thuộc và khủng khiếp:
Hươu Nhanh Nhẹn! Rắn Lớn!
Nhưng tên thủ lĩnh quỷ quyệt của chúng không hề bối rối. Đảo quanh cặp mắt sắc sảo, hắn nắm ngay được tính chất cuộc tấn công, bèn động viên lũ lâu la bằng lời nói và hành động thực tế, rút con dao dài lợi hại, thét to một tiếng rồi lao tới chỗ Chingachgook đang đứng chờ. Cuộc giao tranh bắt đầu. Cả hai đều không có súng và phải thi thố những đòn hiểm độc nhất để quyết định thắng bại, không sử dụng vũ khí phòng ngự.
Uncas hét trả lại rồi nhảy bổ tới một tên địch, thẳng tay phang cho một nhát rìu trúng sọ, vỡ toác. Heyward giật chiếc rìu của Magua cắm trên thân cây nhảy phắt vào vòng chiến. Quân số hai bên lúc này ngang nhau, mỗi người tự chọn một địch thủ. Những miếng đòn qua lại mạnh như vũ bão, nhanh tựa chớp giật. Mắt Chim Ưng lừa cho đối phương tới vừa tầm tay và, trước sự chống đỡ yếu ớt vụng về của tên địch, giáng mạnh một báng súng làm hắn ngã quay lơ dưới đất. Heyward nôn nóng không chờ địch thủ tới gần, phóng một cây rìu trận vừa chiếm được, tên Anh điêng bị rìu va trúng trán, khựng lại một chút. Phấn khởi trước thắng lợi nhỏ ban đầu, người sĩ quan hăm hở xông lên với hai bàn tay không. Lập tức anh tự thấy đã làm một việc liều lĩnh, và anh phải vận dụng hết sức lực cũng như lòng can đảm để tránh những nhát dao thục mạng của tên Huron. Biết không thể chống đỡ mãi trước một địch thủ vừa nhanh nhẹn vừa tỉnh táo, anh ôm lấy nó, ghì chặt hai tay nó vào sát người mình; vì phải dốc sức quá nhiều, anh không thể cầm cự lâu hơn nữa. Giữa giờ phút quyết liệt, anh nghe có tiếng thét bên tai:
Diệt cho hết lũ súc sinh! Quyết không tha một tên Mingo khốn kiếp nào!
Liền sau đó, báng súng của Mắt Chim Ưng bổ xuống cái đầu trọc lốc của tên Huron đang quần với Heyward làm hắn tuột khỏi tay người sĩ quan gân cốt rã rời, người mềm nhũn bất động.
Sau khi đã bổ vỡ sọ một tên, Uncas quay đi lùng đối thủ khác, hệt như một con sư tử đói. Trong lúc bốn cặp đọ sức, tên Huron thứ năm đứng ngoài cuộc; nhìn xung quanh thấy mọi người đang mải mê chém giết nhau, tên này nghĩ cách hoàn thành công việc bỏ dở với tất cả lòng hận thù xấu xa. Cất lên một tiếng đắc thắng, y xông tới trước mặt nàng Cora yếu ớt, thẳng tay phóng cây rìu sắc bén như muốn báo trước cho nàng biết số phận khủng khiếp đang chờ. Lưỡi rìu sạt qua vai, tiện đứt một sợi dây cột Cora vào thân cây và cởi trói cho nàng. Né mình tránh khỏi tay tên da đỏ, không quản nguy hiểm, nàng chạy tới chỗ Alice, ngón tay run rẩy luống cuống cố rút tung những sợi dây đang quấn chặt đứa em gái. Trừ loài quỷ sứ, không ai không mủi lòng trước sự tận tâm cao cả và tình thương trong sáng như vậy; nhưng trái tim của tên Huron không biết rung động. Hắn nắm mớ tóc dài buông xõa, giằng đôi tay đang ôm chặt Alice, phũ phàng dúi Cora xuống đất. Tên dã man vuốt mớ tóc giơ ngược lên, tay kia đưa lưỡi dao vòng quanh cái đầu tròn trịa, cất lên tiếng cười mai mỉa đắc chí. Nhưng để trả giá những phút khoái trá man rợ, nó đã lỡ mất thời cơ hành động. Vừa hay, Uncas nhìn thấy; anh co chân nhảy vọt như một quả cầu lao thẳng vào ngực tên địch, đẩy hắn bắn ra xa, đầu chúi xuống đất. Vì dùng sức quá mạnh nên người thanh niên Mohican cũng ngã theo. Cả hai vùng dậy quần nhau, máu me bê bết. Nhưng cuộc vật lộn đã kết thúc nhanh chóng; cây rìu của Heyward và khẩu súng của Mắt Chim Ưng cùng bổ xuống sọ tên Huron giữa lúc lưỡi dao của Uncas cắm trúng tim nó.
Lúc này, cuộc giao tranh nói chung đã kết thúc, riêng cuộc đọ sức giữa Cáo Tinh Khôn và Rắn Lớn vẫn tiếp diễn. Hai chiến binh dữ tợn này quả xứng đáng với danh hiệu được tặng do chiến công họ đã lập được trong những cuộc chiến đấu trước đây. Trong những phút đầu, hai bên đều tìm cách né tránh những miếng đòn chí tử của đối phương. Rồi đột nhiên họ xông vào đánh giáp lá cà, ngã lăn xuống đất, quấn chặt lấy nhau như hai con rắn. Diệt xong kẻ địch, Mắt Chim Ưng, Heyward và Uncas nhìn sang chỗ hai người da đỏ lão luyện đang đánh nhau dữ dội thì chỉ thấy bụi cát lá cây bay tung từ giữa bãi đất bằng ra tứ phía như thể bị một cơn lốc bốc lên. Thôi thúc bởi những nguyên nhân khác nhau, - tình cha con, tình bạn, lòng biết ơn - cả ba người cùng tới vây quanh đám bụi bao bọc hai chiến binh. Uncas chạy qua chạy lại mà không sao phóng được lưỡi dao vào tim địch thủ của cha mình; khẩu súng lợi hại của Mắt Chim Ưng giơ lên lơ lửng; Heyward cố tóm lấy chân tay tên Huron nhưng đôi bàn tay anh tỏ ra bất lực. Mình mẩy bụi bặm máu me, hai chiến binh tiến thoái thoăn thoắt, thân thể như quyện vào nhau. Dáng vẻ đầy sát khí của người Mohican và thân hình đen trũi của tên Huron loang loáng trước mặt ba người khiến họ không biết nên đánh vào chỗ nào và lúc nào để tiếp viện cho bạn và cha họ. Có đôi lúc thoáng qua, cặp mắt nảy lửa của Magua long lên dữ tợn như một con rắn thần giữa đám bụi mịt mù; bắt gặp những ánh mắt sắc gọn và đầy căm thù vây quanh, y hiểu rõ số phận đang chờ đợi mình. Tuy nhiên, mọi người xung quanh không dám ra tay, e rằng miếng đòn nhằm vào đầu Magua lại trúng mặt Chingachgook. Cuộc chiến đấu chuyển dần từ trung tâm ra mép bãi đất bằng. Thừa lúc kẻ địch sơ hở, Chingachgook phóng mạnh một nhát dao; đột nhiên Magua buông tay ngã vật về phía sau, không động đậy, như chết rồi. Chingachgook đứng phắt dậy thốt lên những tiếng kêu đắc thắng vang cả khu rừng.
Hoan hô những người Delaware! Thắng lợi thuộc về người Mohican!
Mắt Chim Ưng giơ cao khẩu Súng Dài lợi hại, reo to,
Miếng đòn kết liễu này của một người có dòng máu không pha tạp sẽ không xúc phạm tới vinh dự và cũng không tước mất của bạn ta quyền lột da đầu.
Nhưng giữa lúc cái báng súng nguy hiểm của Mắt Chim Ưng giáng xuống, tên Huron quỷ quyệt nhanh như cắt lăn mình xuống chân đồi rồi đứng phắt dậy nhảy vọt vào một bụi cây rậm rạp gần đấy. Hai người Delaware thốt lên những tiếng kêu kinh ngạc vì tưởng kẻ địch chết rồi; họ liền lao theo, mồm hò hét ầm ĩ như bầy chó săn nhìn thấy bóng con hươu. Nhưng tiếng gọi xé tai của người trinh sát đã khiến họ thay đổi ý định và quay trở lại đỉnh đồi.
Thế mới đúng là con người nó, một kẻ dối trá tráo trở!
người trinh sát lão luyện cao giọng, sẵn có thành kiến, bác không giữ được tính công bằng đối với bọn Mingo,
Một người Delaware trung thực, một khi thua trận, sẽ nằm yên cho địch thủ đánh xuống đầu mình, còn bọn Maqua quỷ quyệt này bám lấy cuộc sống như những con mèo rừng. Thôi, mặc cho nó chạy, nó chỉ có một thân một mình, tay không súng không nổ, xa các bạn Pháp của nó. Như con rắn độc bị bẻ nanh, nó không thể gây hại được chừng nào cả nó lẫn chúng ta chưa in được dấu chân lên dải cát dài bằng phẳng,
bác nói tiếp bằng tiếng Delaware:
Uncas trông kìa, cha cháu đang lột da đầu. Ta nên đi một vòng soát lại những tên khốn kiếp nằm đây kẻo lại có tên nào khác chạy vào rừng, mồm kêu vang như con giẻ cùi bị đạn trúng cánh chăng.
Nói xong, người trinh sát lương thiện nhưng cứng rắn đi kiểm tra một lượt, không chút động tâm, bác dùng con dao dài thản nhiên chọc vào tim các xác chết như thể đó là xác những con vật vậy. Tuy nhiên Chingachgook đã đi trước bác bằng cách lột da đầu các xác chết làm chiến lợi phẩm.
Trái với tập quán, có thể nói là trái cả bản chất, Uncas kín đáo lảng tránh không làm theo Mắt Chim Ưng. Cùng với Heyward, anh đi tới chỗ hai cô gái, nhanh nhẹn cởi trói cho Alice và đặt nàng vào tay Cora. Không sao tả xiết lòng biết ơn của hai chị em đối với đấng Tối cao đã làm cho họ sống lại bên nhau một cách bất ngờ như vậy. Trang nghiêm và trầm lặng, họ cầu nguyện tạ ơn Thượng đế, dâng lên Người những tình cảm thành kính và trong sáng nhất xuất phát tự đáy lòng, rồi họ vỗ về nhau hỏi lâu, không nói lên lời. Lát sau, Alice đứng dậy, ngã vào lòng chị, thổn thức gọi tên người cha già, đôi mắt bồ câu dịu dàng ngời lên những tia hy vọng.
Chúng ta thoát rồi! Chúng ta thoát rồi!
nàng thì thào,
Chúng ta sẽ trở về với cha xiết bao thân yêu, và trái tim của người sẽ không bị giày vò vì đau khổ. Cả chị của em nữa, Cora, mà em coi hơn cả một người mẹ, chị cũng thoát nạn, và anh Duncan,
nàng đưa mắt nhìn chàng sĩ quan trẻ, nở một nụ cười ngây thơ khó tả,
ngay cả anh Duncan dũng cảm và cao quý của chúng ta cũng hoàn toàn thoát nạn!
Nghe những lời nói thắm thiết và hầu như không mạch lạc. Cora lẳng lặng ghì chặt em vào lòng, dịu dàng và trìu mến. Trước tình thương yêu dào dạt của hai chị em, chàng Heyward cứng rắn cũng không cảm thấy xấu hổ vì đã không cầm được nước mắt. Mình mẩy còn bê bết máu me sau trận giao chiến, Uncas tuy có vẻ thản nhiên như một người ngoài cuộc, nhưng đôi mắt anh đã mất vẻ dữ tợn và đang bừng lên một niềm cảm thông sâu sắc; điều này chứng tỏ anh vượt xa những người đồng chủng về mặt trí tuệ, và có lẽ đi trước họ hàng thế kỷ về mặt hành động.
Trong lúc mọi người đang biểu lộ sự xúc động bột phát của mình, và sau khi đã chắc chắn rằng lũ Huron không còn phá rối được cảnh vật thanh bình này nữa, Mắt Chim Ưng lại gần David và giải phóng anh chàng khỏi những sợi dây trói mà cho tới lúc này anh vẫn chịu đựng với một sự kiên trì vô cùng mẫu mực. Quẳng ra phía sau sợi dây liễu cuối cùng, người trinh sát nói:
Thế là anh lại làm chủ chân tay mình tuy rằng hình như anh chưa sử dụng một cách thông minh những khả năng mà Thượng đế đã ban cho chúng. Nếu những lời khuyên của một người, tuy không lớn tuổi hơn, nhưng vì sống lâu năm trong rừng nên có thể nói là có được nhiều kinh nghiệm trước tuổi, không làm bạn mếch lòng, xin hãy nghe tôi nói; bạn bán quách cái còi xinh xinh trong túi áo cho gã điên rồ đầu tiên đến với bạn, và hãy dùng tiền đó mua sắm một vũ khí nào có ích, dù là khẩu súng ngắn của kỵ binh. Bằng khôn khéo và nỗ lực, bạn có thể tìm được một con đường tiến thủ vì tôi nghĩ rằng lúc này đây, chính đôi mắt bạn chỉ cho bạn rõ rằng một con quạ xấu xí có ích hơn con chim nhại tiếng. Ít ra con quạ còn dọn dẹp những xác chết thối tha cho khuất mắt con người, chứ con kia chỉ đánh lừa lỗ tai người nghe, làm náo động cả khu rừng.
Vũ khí và kèn đồng dùng cho chiến trận, còn những bài hát tạ ơn Thượng đế thì dùng khi chiến thắng.
David đáp sau khi đã được cởi trói; anh chìa bàn tay gầy gò nhỏ nhắn cho Mắt Chim Ưng với một vẻ đầy thiện cảm, đôi mắt long lanh rớm lệ,
Anh bạn, nhờ anh mà tóc trên đầu tôi vẫn tiếp tục mọc ở nơi mà Thượng đế đã sắp đặt. Tuy rằng tóc của người khác có thể óng mượt hơn và lượn sóng, tôi vẫn nghĩ rằng bộ tóc che chở cho cái đầu của tôi rất là thích hợp. Vừa rồi tôi không tham dự cuộc chiến đấu, không phải vì không muốn mà vì bị bọn tà giáo trói chặt. Bạn đã tỏ ra dũng cảm và khôn khéo trong lúc giao tranh, và trước khi bắt tay vào những công việc khác quan trọng hơn, tôi xin có lời cảm ơn vì bạn đã tỏ ra xứng đáng với lời ngợi khen của một tín đồ Cơ Đốc.
Đó chỉ là chuyện thường tình mà anh sẽ luôn luôn chứng kiến nếu còn đi lâu với chúng tôi.
Người trinh sát đáp, xúc động trước lòng biết ơn của thầy quản hát; bác vỗ vào báng súng, nói thêm:
Tôi đã lấy lại khẩu Sát Hươu, người bạn cố cựu của tôi; riêng việc đó đã là một thắng lợi. Bọn Iroquois này vốn quỷ quyệt nhưng chúng đã lú lẫn ruột gan để súng ống ngoài tầm tay; giá như hai bố con Uncas giữ được thái độ kiên nhẫn của người da đỏ thì chúng tôi đã tặng cho lũ khốn kiếp ba phát đạn chứ không phải chỉ có một, và thế là giải quyết gọn cả lũ chúng nó, kể cả tên đê tiện vừa chạy trốn. Nhưng mọi sự đều được định trước, như vậy cũng tốt.
Anh bạn nói phải và nắm được tinh thần của Cơ Đốc giáo.
David đáp,
Kẻ nào đáng được cứu vớt sẽ được cứu vớt, còn kẻ nào Chúa bắt tội sẽ phải tội. Đó là nguyên lý của sự thật, khiến cho một tín đồ ngoan đạo thanh thản và thoải mái.
Người trinh sát ngồi xem xét khẩu súng như một ông bố săn sóc con mình; nghe tới đó, bác ngước mắt nhìn người đang nói với một thái độ khó chịu ra mặt, xẵng giọng ngắt lời:
Nguyên lý gì? Chỉ những kẻ bất lương mới tin vào nguyên lý còn người lương thiện nguyền rủa nó. Tôi tin rằng tên Huron nọ đáng lý phải chết bởi tay tôi vì tôi đã nhìn thấy tận mắt; ngoài ra, không có gì khiến tôi nghĩ rằng nó được Chúa ban cho một phần thưởng nào - trừ phi tôi được chứng kiến, hoặc nghĩ rằng bác Chingachgook kia tới ngày tận số sẽ bị trừng phạt.
Anh không có gì bảo đảm cho một lý thuyết táo bạo như vậy và cũng không có cơ sở để bênh vực nó.
David lớn tiếng; cũng như những người cùng thời đại và nhất là cùng xứ sở, trong khi cố gắng tìm hiểu những điều huyền bí của tạo hóa, David có những phân tích quá tinh tế trước những phát hiện giản đơn và cụ thể, thay thế đức tin bằng tính tự kiêu tự phụ; điều này khiến cho những ai lập luận giáo điều bị rơi vào sự ngớ ngẩn hoài nghi,
Đền đài của anh xây trên cát, và chỉ một cơn bão là đổ sụp. Xin hỏi, anh căn cứ vào đâu mà có một nhận định bất nhân như vậy (cũng như những người khác khi biện hộ cho một học thuyết, không phải lúc nào David cũng dùng danh từ một cách chính xác)? Hãy cho biết anh dựa vào chương nào, câu nào, sách thánh nào để bênh vực cho lý thuyết của mình.
Sách à!
Mắt Chim Ưng nhắc lại với một vẻ khinh miệt lộ ra nét mặt,
Anh coi tôi là đứa trẻ ranh chỉ quen khóc nhè và bám gấu váy mấy ả gái già sao! Và anh coi khẩu súng lợi hại ở trên đùi tôi đây là cái lông ngỗng, súng đựng thuốc này là lọ mực, và cái túi đi săn bằng da này là chiếc khăn tay kẻ sọc để đựng thức ăn sao! Sách ư! Một người như tôi, một chiến binh sống ở nơi hoang vu, tuy dòng máu không pha tạp, cần gì đến sách! Cả đời tôi chỉ đọc có một cuốn trong đó câu chữ thật giản dị rõ ràng, chẳng cần phải học hành gì thêm. Tuy nhiên tôi có thể tự hào là đã dày công nghiên cứu cuốn sách đó suốt bốn chục năm trời.
Tên cuốn sách ấy là gì?
David không hiểu ý của Mắt Chim Ưng, hỏi.
Cuốn sách đó hiện đang mở ngay trước mắt anh,
người trinh sát đáp,
và chủ nhân của nó không giữ riêng để dùng đâu. Tôi nghe nói có những người phải đọc sách mới tin rằng có Thượng đế. Không hiểu sao người ta có thể xuyên tạc đến như vậy những công trình của Người tại những vùng đất mới, biến một sự việc thật hiển nhiên ở nơi hoang dã thành một điều nghi vấn đối với các nhà buôn và nhà tu hành. Nếu có kẻ nào như vậy, xin hãy đi theo tôi ngày này qua ngày khác vào sâu trong rừng. Những điều trông thấy sẽ đủ để chỉ cho kẻ đó thấy rằng mình là một thằng điên, và sự điên rồ lớn nhất là muốn leo lên ngang hàng với một bậc mà y không bao giờ sánh nổi cả về lòng nhân từ lẫn quyền lực.
Nhận ra mình đang tranh luận với một người xây dựng lòng tin không phải bằng những lý thuyết quá tinh tế mà thông qua những điều mắt thấy tai nghe trong thiên nhiên. David bèn bỏ cuộc vì thấy chẳng lợi lộc gì. Mặc cho người trinh sát cứ nói, anh ngồi xuống, rút quyển sách nhỏ luôn ở bên mình và đổi mục kính gọng sắt, chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ mà đáng lẽ anh đã làm rồi nếu không có cuộc tấn công bất ngờ vào những ý kiến chính thống của anh. Thực ra, David là một người hát rong của châu Mỹ, một người hát rong gần gũi mang tính chất thời đại và địa phương, khác với những người xưa kia ca tụng hư danh của các ông hoàng bà chúa. Và giờ đây, anh sắp sửa thi thố tài nghệ để chào mừng thắng lợi vừa qua hay đúng hơn, để tạ ơn Thượng đế. Anh kiên nhẫn chờ cho Mắt Chim Ưng ngừng lời, ngước mắt cất cao giọng:
Mời các bạn hãy cùng tôi cầu chúc Thượng đế đã cứu chúng ta thoát khỏi tay quân man rợ vô đạo, và hãy hát lên bài thánh ca trang trọng theo điệu Northampton cho sảng khoái tinh thần.
Rồi anh nói số trang và tiết của bài hát vừa chọn, trịnh trọng đưa chiếc thanh mẫu lên môi như mỗi khi anh cầu nguyện ở nơi giáo đường. Nhưng lần này chẳng thấy ai hưởng ứng vì hai chị em Cora còn đang bộc lộ tình cảm dạt dào. Không hề thối chí trước sự thờ ơ của các thính giả (thực ra chỉ có người trinh sát nghe một cách miễn cưỡng), David cất giọng hát một mạch bài thánh ca từ đầu đến cuối.
Mắt Chim Ưng vừa nghe vừa thản nhiên lắp viên đá và nạp lại đạn; thiếu sự hỗ trợ của ngoại cảnh, bài ca không gợi lại cho người trinh sát những cảm xúc lắng đọng trong lòng. Chưa bao giờ có một người hát rong, hoặc gọi David bằng cái tên nào khác thích hợp hơn cũng được, biểu diễn tài nghệ trước những thính giả vô tình như vậy tuy rằng nhìn vào động cơ duy nhất và chính đáng của anh, chắc hẳn không một người hát rong nào khác có thể tạo ra những âm thanh tuyệt vời như vậy để ngợi ca Thượng đế. Lát sau, thấy người trinh sát lắc đầu, mồm lẩm bẩm không rõ, chỉ nghe thấy mấy tiếng
cổ họng
và
Iroquois
; rồi bác đi thu thập xem xét số vũ khí của bọn Huron bỏ lại. Chingachgook cũng làm theo và đã tìm thấy khẩu súng của mình và của Uncas. Heyward và David cũng được mỗi người một khẩu; đạn dược thì không thiếu.
Sau khi lựa chọn và phân phát vũ khí, người trinh sát bảo là đã tới giờ lên đường. Lúc này David đã ngừng hát và hai chị em Cora cũng đã dẹp cơn xúc động. Được Duncan và người thanh niên Mohican giúp đỡ, hai nàng đi xuống dốc quả đồi chênh vênh mà mới vừa đây họ phải leo lên bên cạnh những con người hung bạo; cũng trên đỉnh quả đồi này suýt nữa đã xảy ra một cuộc tàn sát. Dưới chân đồi, lũ ngựa đang gặm cỏ bên thung lũng bụi cây. Hai nàng leo lên ngựa và theo chân người dẫn đường đã luôn luôn bảo vệ họ trong những giờ phút hiểm nghèo nhất. Họ không phải đi lâu. Mắt Chim Ưng không đi con đường của bọn Huron; bác quặt sang phải, luồn vào cánh rừng rậm, lội qua con suối róc rách và dừng lại trong một thung lũng hẹp lòng, dưới bóng mấy cây du. Nơi đây chỉ cách ngọn đồi khốc liệt vài sào, và lũ ngựa chỉ mới giúp ích cho chị em Cora khi qua con suối nhỏ. Người trinh sát và hai người Anh điêng có vẻ thông thuộc nơi nghỉ chân này. Họ dựa súng vào cây, gạt đống lá khô sang một bên rồi khoét lớp đất sét màu xám; một tia nước trong vắt lóng lánh vọt lên. Mắt Chim Ưng nhìn quanh quẩn như tìm một vật gì quen thuộc; tìm mãi chẳng thấy, bác lẩm bẩm:
Lũ Mohawk khốn kiếp cũng như anh em chúng là bọn Tuscarora và bọn Onondaga đã đến đây uống nước, và bọn lười biếng này đã quẳng đâu cái bầu đựng nước rồi! Làm ơn cho lũ chó bất nhân để rồi chúng trả nghĩa thế này đây! Chúa đã vươn bàn tay đến tận vùng khỉ ho cò gáy này cho chúng và bắt nước suối chảy ra từ lòng trái đất, nước suối này dám thách thức cửa hàng dược phẩm lớn nhất ở khắp thuộc địa. Vậy mà trông kìa, lũ quỷ quái đã giẫm bừa lên đất sét, nom thật bẩn mắt, như thể chúng là bầy thú vật chứ không phải là người nữa.
Chẳng nói chẳng rằng, Uncas chìa cái bầu tìm thấy trên một cành cây du cho người trinh sát mà, trong cơn bực tức, bác không nom thấy. Bác bèn hứng đầy nước, đi lại chỗ đất rắn và khô hơn ở gần đó, thản nhiên ngồi xuống tu một hơi dài, có vẻ khoái trá lắm. Rồi bác chăm chú quan sát những miếng thức ăn còn lại của bọn Huron, cất trong cái túi đeo bên vai.
Cảm ơn cháu.
Vừa nói bác vừa đưa trả Uncas cái bầu không,
Nào, thử xem lũ Huron hung bạo này ăn uống ra sao khi chúng đi đánh nhau. Trông này! Lũ ma ranh cũng biết những miếng ngon trên mình con hươu; tưởng đâu chúng có thể xả và nướng thịt giỏi như người đầu bếp lành nghề nhất trên trái đất này! Nhưng các miếng thịt đều sống nguyên vì bọn Iroquois chỉ là những tên man rợ. Uncas, lấy cái bật lửa của bác và nhóm lửa lên; một miếng thịt nướng thơm phức sẽ giúp ta hồi sức sau chuyến đi dài.
Thấy những người dẫn đường đang mải chuẩn bị bữa ăn, Heyward đỡ hai cô gái xuống ngựa, không hề tính chuyện nghỉ ngơi một vài phút sau cuộc huyết chiến vừa qua. Trong lúc thức ăn sắp chín, anh tò mò muốn biết nguyên nhân nào đã dẫn đến cuộc giải nguy kịp thời và bất ngờ như vậy, bèn lại gần người trinh sát, hỏi:
Ông bạn nghĩa hiệp của tôi, làm sao có thể gặp lại bác sớm thế này tuy không có sự hỗ trợ của quân đội ở pháo đài Edward?
Nếu chúng tôi tới tận khuỷu sông thì chỉ kịp trở lại đây cào lá cây trên thi hài bọn anh thôi, đâu còn thời giờ để cứu mảng da đầu của các anh nữa,
người trinh sát thản nhiên đáp,
Không, chúng tôi chẳng chạy bộ tới pháo đài cho phí sức và lỡ cơ hội mà nấp ngay bên bờ sông Hudson chờ xem bọn Huron động tĩnh ra sao.
Vậy là các bác đã chứng kiến tất cả những sự việc xảy ra?
Đâu có con mắt người Anh điêng tinh lắm, không dễ lừa được đâu; cho nên chúng tôi phải nấp thật kín. Nhưng cái khó là làm sao giữ được chân thằng bé Mohican này trong chỗ nấp. Ôi, Uncas! Trông cháu lúc đó giống người đàn bà tò mò hơn là một chiến binh đang rình kẻ địch.
Uncas đưa đôi mắt sắc sảo nhìn khuôn mặt rắn rỏi của Mắt Chim Ưng hồi lâu; anh không nói, cũng không tỏ vẻ hối hận. Heyward nhận thấy thái độ của người thanh niên Mohican có nét kiêu kỳ, nếu không phải là giận dữ, mà anh ta đã nén lại, phần vì nể những người khách mới phần vì xưa nay vẫn kính trọng người cộng sự da trắng.
Thế các bác trông thấy bọn Huron bắt chúng tôi à?
Heyward hỏi tiếp.
Chúng tôi nghe thấy,
người trinh sát đáp một cách có ý nghĩa,
Tiếng kêu thét của người Anh điêng là một ngôn ngữ đối với những ai sống quanh năm trong rừng. Nhưng khi các anh lên bờ thì chúng tôi phải bò như rắn dưới những đám lá cây; sau đó thì mất hút cho tới khi nhìn thấy bọn anh đang bị trói vào thân cây, sắp sửa bị lũ da đỏ sát hại.
Việc giải thoát cho chúng tôi có bàn tay an bài của Thượng đế. Một điều gần như thần kỳ là các bác đã không đi nhầm đường, vì bọn Huron chia làm hai toán, mà toán nào cũng có ngựa.
Quả là khi ấy chúng tôi không biết đi hướng nào và nếu không có Uncas thì chắc đã mất dấu. Chúng tôi cứ tiến theo con đường vào rừng vì đoán chắc bọn dã man dẫn các bạn đi lối đó. Mà đúng như vậy. Nhưng sau khi đi được mấy dặm đường vẫn không thấy cành cây nào bị bẻ gãy như tôi đã dặn làm, tôi bắt đầu nao núng, đặc biệt khi thấy những vết trên đường đều là những vết giày moccasin[39].
[39] Giày đi rừng cho người Anh điêng.
Bọn Huron đã cẩn thận bắt chúng tôi đi giày như của chúng.
Duncan giơ bàn chân mang giày của người da đỏ lên.
Thật là một hành động ranh ma đúng với bản chất của chúng; nhưng chúng tôi thừa khôn ngoan để không bị đánh lạc hướng bởi một trò tầm thường như vậy.
Vậy nhờ đâu mà chúng tôi sống sót?
Là một người da trắng không lẫn chút máu Anh điêng trong huyết quản, tôi lấy làm xấu hổ thú nhận rằng đó là nhờ vào óc nhận xét của người thanh niên Mohican về những điều mà đáng lý tôi phải biết rõ hơn. Tới lúc này, tôi vẫn chưa tin hẳn là những điều đó có thật tuy rằng chính mắt tôi đã nhìn thấy.
Thật là phi thường! Bác có thể cho biết lý do không?
Mắt Chim Ưng đưa mắt về phía hai con ngựa của chị em Cora, nhìn chăm chú tò mò, nói tiếp:
Uncas dám quả quyết rằng những con ngựa do hai cô gái cưỡi đặt hai chân ở một bên mình xuống đất cùng một lúc, khác hẳn cách đi nước kiệu của những con vật bốn chân khác mà tôi biết, trừ con gấu. Đây chính là những con ngựa đi theo kiểu đó như mắt tôi đã thấy, cũng như những vết chân của chúng trên hai mươi dặm đường đã chỉ rõ.
Đó là đặc điểm của giống ngựa này. Chúng sinh ra bên bờ vịnh Narrangansett, thuộc một tỉnh nhỏ có tên là
Những vườn cây của Thượng đế
. Chúng nổi tiếng là giống ngựa dũng mãnh và có nước kiệu đặc biệt tuy rằng có những giống ngựa khác cũng được huấn luyện kiểu đi này.
Có thể lắm.
Mắt Chim Ưng đáp; bác đặc biệt chăm chú nghe Heyward giảng giải,
Tôi là một người có dòng máu da trắng thuần khiết nhưng lại hiểu biết về các loài hươu và hải ly nhiều hơn loài vật thồ. Thiếu tá Effingham có nhiều con ngựa rất hay, nhưng tôi chưa hề thấy con nào đi xiên về một bên như thế này.
Đúng vậy; ông ấy muốn ngựa của mình có những đặc tính khác. Còn giống ngựa Narrangansett này rất quý và như anh thấy đấy, thường dùng vào những việc chuyên chở đặc biệt.
Hai cha con người Mohican ngừng cả nấu nướng để nghe; khi Duncan nói xong, họ đưa mắt nhìn nhau ra vẻ hiểu ý, rồi người cha thốt lên tiếng kêu kinh ngạc quen thuộc. Người trinh sát thì đang trầm ngâm như thể nhập tâm những điều mới học được và một lần nữa, lại liếc mắt tò mò nhìn hai con ngựa. Cuối cùng bác lên tiếng:
Tôi dám nói rằng còn nhiều điều kỳ lạ hơn nữa trong vùng đất mới này. Con người lạm dụng thiên nhiên một khi họ đã làm chủ. Nhưng dù ngựa đi xiên xẹo hay đi thẳng tắp thì Uncas cũng đã nhận ra, và vết chân ngựa đã dẫn chúng tôi đến đám bụi cây gãy nát. Một cành cây sát bên đường, gần chỗ có vết chân ngựa, bị bẻ gập mé trên, như thể một người phụ nữ ngắt bông hoa khỏi cành, còn cả đám bụi cây thì giập nát tơi bời như bị một bàn tay cứng rắn của đàn ông phá phách. Nhờ đó, tôi kết luận là lũ dòi bọ quỷ quyệt đã nhìn thấy cành bị gãy và đã vặt tất cả đám bụi cây còn lại để làm cho chúng tôi tưởng lầm rằng có một con hươu húc sừng vào.
Quả là bác đã sáng suốt nên không bị lừa; sự việc diễn ra đúng như vậy.
Điều đó dễ nhận thấy,
người trinh sát không hề nghĩ rằng mình đã tỏ ra sáng suốt phi thường còn dễ thấy hơn cách đi của một con ngựa.
Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ là bọn Mingo sẽ tới con suối này vì bọn quỷ quái biết rất rõ đặc tính của nước ở đây.
Nước ở đây có tiếng vậy sao?
lúc này Heyward mới quan sát tỉ mỉ hơn cái thung lũng hẻo lánh có con suối sủi bọt đất nâu bám bẩn xung quanh.
Chẳng mấy người da đỏ đi từ Nam tới Bắc vùng hồ lớn mà không nghe nói tới những đặc tính của suối nước này. Anh muốn uống thử không?
Heyward cầm bầu nước và sau khi đã tợp một ngụm nhỏ, anh quăng bầu, nhăn mặt vì khó chịu. Người trinh sát cười thoải mái, đầu lắc lắc có vẻ khoái chí lắm.
Hà hà! Anh thích thứ nước vẫn quen uống kia. Trước đây tôi cũng vậy, chẳng ưa gì nước này; nhưng rồi tôi thấy hợp khẩu vị, và bây giờ ao ước được uống, khác nào hươu nai thích liếm đất mặn. Những loại rượu ngon nhất của anh cũng không làm cho người da đỏ thích thú bằng nước suối ở đây, nhất là khi họ khó ở. Nhưng kìa, Uncas nhóm được lửa rồi, và đã đến lúc phải nghĩ tới bữa ăn vì con đường trước mắt của chúng ta còn dài.
Chuyển vấn đề một cách đột ngột, người trinh sát chấm dứt cuộc đàm thoại, cầm lấy những miếng thịt mà bọn Huron phàm ăn đã để lại. Bữa ăn đạm bạc cũng đơn giản như lúc chuẩn bị. Mắt Chim Ưng và hai người Mohican ăn lặng lẽ và nhanh chóng, cốt sao có sức chịu đựng những gian khổ nhọc nhằn. Sau khi làm xong một công việc cần thiết mà thú vị, ba người khom mình bên suối nước đơn độc im lìm làm một hơi dài trước khi ra đi. Trong khoảng năm mươi năm trời, con suối này và các con suối khác trong vùng đã là nơi gặp gỡ của những khách giàu sang, của trai tài gái sắc trên một bán cầu, tới đây bồi bổ sức khỏe và vui chơi. Mắt Chim Ưng báo là đã tới giờ khởi hành. Hai chị em Cora lên ngựa, Duncan và David cầm súng theo sau; người trinh sát dẫn đầu, còn hai người Mohican đi cuối cùng. Cả đoàn người rảo bước trên con đường nhỏ hẹp, hướng về phương Bắc, mặc cho dòng nước có dược chất lặng lẽ đổ vào con sông gần đó, mặc cho những xác chết thối rữa trên ngọn đồi cao, không ai chôn cất. Mà đó cũng là số phận chung của những chiến binh miền rừng núi, không có gì phải xót thương bình luận.