Chương 14


Dịch giả: Trương Đắc Vỵ
NXB Văn Học
Lính canh:
Ai đó?

Cô gái Giano:
Dân cày, những kẻ khốn khổ của nước Pháp.
[41]
• SHAKESPEARE
[41] Vua Henry thứ sáu (hồi 3, cảnh hai) của William Shakespeare.
Trong lúc rút nhanh khỏi lô cốt và cho tới khi cả đoàn đã vào sâu trong rừng, không ai nói năng gì, dù là nói thầm, vì còn lo thoát thân. Lúc này khoảng cách giữa họ với quân thù đã xa; người trinh sát vẫn dẫn đầu, nhưng chân bước ngập ngừng hơn chuyến đi đêm trước vì bác hoàn toàn không nắm được địa hình của khu rừng này. Hơn một lần, bác phải dừng lại để hội ý với hai người Mohican, khi nhìn mặt trăng, lúc chăm chú quan sát vỏ cây. Trong những phút dừng chân ngắn ngủi ấy, tinh thần căng thẳng gấp bội do nguy hiểm luôn luôn đe dọa, Heyward và hai chị em Cora lắng tai nghe ngóng xem có triệu chứng gì báo hiệu kẻ thù ở gần không. Vào lúc này, cánh rừng mênh mông như chìm đắm trong giấc ngủ triền miên; không một tiếng động nhỏ, trừ tiếng nước của một con suối ầm ì róc rách nơi xa. Chim chóc, thú rừng và con người (nếu quả có người nào sống trong chốn rừng núi hoang vu này) dường như ngủ yên. Nhưng tiếng suối chảy, tuy rì rầm yếu ớt đã cất được nỗi thắc mắc của những người dẫn đường, khiến họ lập tức quay về hướng đó.
Khi đoàn người tới bên bờ con suối nhỏ, Mắt Chim Ưng dừng bước; bác rút giày moccasin, bảo Heyward và David làm theo, rồi lội xuống nước. Trong gần một tiếng đồng hồ, cả đoàn đi trong lòng suối, không để lại một dấu vết nào. Mặt trăng đã khuất sau đám mây đen dày đặc lơ lửng phía chân trời Tây. Lúc này họ ra khỏi lòng suối nông và bước lên bãi đất cát bằng phẳng có nhiều cây. Tới đây, người trinh sát dường như lại trở về nơi quen thuộc; bác dẫn đường với sự chắc chắn và khẩn trương của một người hiểu biết tường tận. Đường đi trở nên hiểm trở hơn; núi non sát lại gần, và đoàn khách bộ hành sắp đi vào một cái đèo. Đột nhiên Mắt Chim Ưng dừng lại, chờ cho mọi người tới mới lên tiếng; giữa đêm khuya tĩnh mịch, giọng bác hạ thấp một cách thận trọng càng làm tăng vẻ nghiêm trang của câu nói:

Biết đường đi và tìm những bãi đất mặn cùng những con suối trong chốn rừng xanh không phải chuyện khó, nhưng có ai tới đây dám nói rằng bên kia những hàng cây im lìm và những rặng núi khô cằn có một đạo quân hùng mạnh đang hạ trại không?


Vậy ra chúng ta cách pháo đài William Henry không xa ư?
Heyward tiến lại gần người trinh sát, hỏi.

Đường đi còn dài và gian nan; khó khăn lớn nhất hiện nay của ta là đến đó vào lúc nào và bằng lối nào cho thuận lợi. Anh hãy trông kìa,
người trinh sát chỉ tay về phía một vũng nước nhỏ ẩn sau những rặng cây, mặt nước phẳng lặng phản chiếu ánh sáng sao,
đó là
đầm máu
. Trên mảnh đất này, không những tôi đã qua lại nhiều lần mà còn đánh nhau với quân thù từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn.


Vậy ra chính lớp nước lờ đờ lặng lẽ này là mồ chôn những con người anh dũng đã ngã xuống trong chiến đấu. Tôi có nghe nói về cái đầm này nhưng chưa hề tới đây.


Chúng tôi đã quần nhau ba trận trong một ngày với viên chỉ huy liên quân Hà Lan - Pháp.
Không trả lời vào câu của Heyward, Mắt Chim Ưng nói tiếp dòng suy nghĩ của mình.
Hắn bắt gặp chúng tôi giữa lúc bọn tôi đi phục kích chặn đường tiến của hắn và đã đánh chúng tôi tan tác như những con hươu bị săn đuổi, băng qua đèo tới tận bờ hồ Horican. Tại đây, chúng tôi tập hợp lại sau hàng rào cây đổ và dưới quyền chỉ huy của Ngài William (Ngài được phong tước nhờ có chiến tích này), chúng tôi phản công thắng lợi và đã trả được mối hận khi sáng. Ngày hôm ấy có mấy trăm tên Pháp nhìn thấy mặt trời lần cuối cùng; và cả tên chỉ huy Dieskau cũng rơi vào tay chúng tôi. Người hắn đầy vết đạn, đến nỗi hắn phải rút về nước, hết khả năng chiến đấu.


Thật là một cuộc phản công gan dạ!
Heyward reo to, sôi sục bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên.

Chỉ ít lâu sau, tiếng tăm của trận đó đã vang tới đạo quân miền Nam của chúng tôi. Thế nhưng chưa hết chuyện. Theo lệnh của chính Ngài William, thiếu tá Effingham cử tôi men theo sườn quân địch, vượt qua vùng chuyên chở đường bộ để mang tin thất trận của quân Pháp tới một đồn quân bên bờ sông Hudson. Kia kìa, ngay chỗ đám cây mọc trên quả núi, tôi gặp quân tiếp viện của mình và đã dẫn họ đến chỗ quân địch; bọn này đang ăn uống, không nghĩ rằng cuộc chém giết trong ngày chưa kết thúc.


Và các bác đã đánh chúng bất ngờ?


Phải, nếu chết chóc có thể là điều bất ngờ đối với những kẻ chỉ nghĩ đến ăn cho thích khẩu. Chúng tôi đánh cho bọn nó không kịp thở vì khi sáng chúng đã giáng cho bọn tôi những đòn nặng nề. Quả thật không mấy ai trong chúng tôi không có người thân kẻ thuộc bị sát hại. Sau trận này, người ta vứt xác chết, nghe nói có cả những người còn ngắc ngoải, xuống cái đầm nhỏ này. Chính mắt tôi đã nhìn thấy vũng nước ngầu máu. Nước từ trong lòng trái đất chảy ra không bao giờ đỏ như vậy.


Thật là một nơi thuận tiện, và tôi tin là còn yên ổn nữa, để chôn các chiến binh. Thế ra bác đã hoạt động nhiều ở vùng biên giới này ư?


Tôi à!
người trinh sát vươn thẳng thân hình cao lớn với một tư thế quân sự hiên ngang,
Không mấy ngọn núi ở đây không vang lên tiếng súng của tôi, và từ hồ Horican đến sông Hudson, cứ mỗi dặm vuông cây súng Sát Hươu này lại hạ được một tên địch hoặc một con thú rừng. Còn sự yên ổn của cái mồ này, như anh vừa nói, lại là một vấn đề khác. Có những người nghĩ và nói rằng muốn cho con người nằm xuống yên ổn thì không được chôn khi họ còn hơi thở trong ngực, chắc chắn là trong lúc bối rối chiều hôm đó, các bác sĩ không có nhiều thời giờ để nói cho biết ai còn sống và ai đã chết. Suỵt! Anh không thấy có vật gì đang di chuyển trên bờ đầm ư?


Không lẽ có người nào không nhà không cửa như chúng ta trong chốn rừng rú âm u này.


Những vật như vậy ít cần tới nhà cửa để trú chân, và sương đêm không làm ướt được một hình hài quen sống dưới nước,
người trinh sát đáp, tay run run nắm vai Heyward; viên sĩ quan trẻ chợt nhận ra rằng con người vốn rất dũng cảm đang bị mê tín làm cho khiếp đảm.

Lạy Chúa! Có một bóng người đang tiến lại gần! Các bạn hãy nắm chắc tay súng vì không biết chúng ta sẽ chạm trán với ai.


Ai?
[42] một tiếng hô đanh và trầm, như từ thế giới khác vọng tới, vang lên giữa chốn hiu quạnh trang nghiêm này.
[42] Đoạn này có nhiều câu nguyên văn tiếng Pháp. Chúng tôi để chữ ngả.

Nó nói gì thế?
người trinh sát thì thầm,
Không phải tiếng Anh điêng mà cũng chẳng phải tiếng Anh.


Ai?
tiếng hô lại nổi lên, kèm theo là tiếng súng lách cách và một dáng vẻ nạt nộ.

Nước Pháp.
Heyward hét to; anh bước ra khỏi đám bóng cây và tiến về phía bờ đầm, cách người lính gác vài thước.

Anh từ đâu tới đây… đi đâu sớm thế?
Người lính cận vệ hỏi lại bằng ngôn ngữ và giọng nói của một người sinh trưởng ở nước Pháp cổ kính.

Tôi đi điều tra tình hình về và kiếm chỗ ngủ đây.


Có phải sĩ quan nhà vua không?


Đúng vậy anh bạn ạ; anh tưởng tôi là dân vệ Anh hay sao! Tôi là đại úy khinh binh (Heyward biết rõ người lính đứng trước mặt thuộc một trung đoàn ở trên tuyến). Tôi giải theo đây hai người con gái của viên chỉ huy pháo đài William Henry. Hà, hà! Chắc anh đã từng nghe nói về hai người đó. Tôi bắt được họ ở gần pháo đài trên kia và dẫn đến chỗ tướng Montcalm đây.


Thưa, quả thực tôi ái ngại cho hai tiểu thư,
người lính Pháp trẻ lịch sự đưa tay lên mũ, nói,
nhưng đó là định mệnh của chiến tranh! Các cô sẽ thấy rằng vị tướng của chúng tôi là con người hào hoa và rất lễ phép với phụ nữ.


Đó là đặc tính của con nhà binh.
Cora rất bình tĩnh đáp lại,
Thôi chào anh bạn; chúc anh được làm một công việc khác thú vị hơn.

Trước câu chúc lịch thiệp của cô gái, anh lính cúi gập người cảm ơn; Heyward cũng nói thêm:

Chúc anh bạn của tôi ngủ ngon.

Rồi đoàn người thong thả tiến về phía trước, mặc cho người lính gác đi đi lại lại dọc bờ đầm im lặng, không thể ngờ rằng kẻ thù táo tợn đến như vậy. Hình ảnh hai cô thiếu nữ và có lẽ những kỷ niệm của nước Pháp xa xôi tươi đẹp khiến anh nhớ lại và ngân nga câu hát:
Rượu muôn năm, ái tình muôn năm…


May sao anh hiểu được thằng quỷ ấy nói gì!
người trinh sát thì thào khi đã đi được một quãng, và bác đặt lại khẩu súng vào khuỷu tay,
Lúc đó, tôi biết ngay rằng nó là một trong những tên Pháp nhũng nhiễu. Phúc cho nó đã biết nói năng lễ độ, nếu không tôi đã quẳng xác xuống đầm cùng với các bạn đồng hương của nó.

Bỗng Mắt Chim Ưng im bặt. Một tiếng rên nặng nề vọng tới từ
đầm máu
, như thể linh hồn những người đã khuất đang than vãn dưới mồ ngập nước.

Chắc chắn đó là người bằng xương bằng thịt,
người trinh sát nói tiếp,
không một linh hồn nào có thể sử dụng vũ khí mạnh mẽ như vậy.


Đúng là người; có điều đáng ngờ là không biết anh lính nọ còn ở trên đời này không.
Heyward đáp, mắt nhìn xung quanh thì thấy thiếu Chingachgook. Lại một tiếng rên nữa, lần này yếu hơn, tiếp theo có tiếng một vật rơi tõm xuống nước, nặng nề và u uất, rồi tất cả trở lại im lìm như thể cảnh vật xung quanh đầm nước âm u vẫn chìm đắm trong yên lặng từ ngày khai sinh tới giờ.
Mấy người còn đang băn khoăn do dự thì đã thấy bóng người thủ lĩnh Anh điêng từ trong bụi rậm lướt tới, một tay buộc mảng da đầu còn nóng hổi của người lính Pháp xấu số vào thắt lưng, tay kia gài con dao và cây rìu đẫm máu; bác trở về vị trí cũ với thái độ của một người cho rằng mình đã lập được một chiến công.
Người trinh sát đặt báng súng xuống đất, tì tay vào nòng, trầm ngâm suy nghĩ, bác lắc đầu buồn bã, lẩm bẩm:

Đối với người da trắng, đó là một việc độc ác và vô nhân đạo, nhưng đây là đặc tính và bản chất của người Anh điêng mà tôi nghĩ rằng chúng ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cho chuyện này rơi vào đầu một tên Mingo chết tiệt hơn là vào anh chàng trẻ tuổi vui tính quê tại nước Pháp cổ kính kia.


Thôi!
sợ hai chị em Cora biết nguyên nhân vì sao phải dừng lại, Heyward vội gạt đi, và anh cũng lập luận tương tự như người thợ săn để nén sự ghê tởm. Đằng nào cũng lỡ rồi, sửa chẳng được tuy rằng không xảy ra thì hay hơn. Ông bạn này, rõ ràng chúng ta đang ở trong vùng địch kiểm soát; theo bác, ta nên đi lối nào?

Phải,
giọng Mắt Chim Ưng trở lại sôi nổi,
cũng như anh vừa nói, chúng ta không còn thời gian suy nghĩ cho bận óc. Đúng rồi, quân Pháp đã vây chặt pháo đài, lọt được vòng vây khác nào xâu một mũi kim nhỏ vậy.


Thế mà chúng ta chỉ có ít thời gian để làm việc đó,
Heyward nói thêm, mắt nhìn lên đám mây che kín mặt trăng đang xuống dần.

Chỉ có ít thời gian để làm việc đó!
người trinh sát nhắc lại,
Nhờ Thượng đế phù hộ, chỉ có hai cách làm, ngoài ra không còn cách nào khác nữa.


Xin nói ngay vì gấp lắm rồi.


Một là các cô thiếu nữ dịu hiền kia xuống đi bộ, còn ngựa thì thả rông. Những người Mohican này sẽ đi trước mở một đường nhỏ qua các vọng gác, và chúng ta sẽ bước lên xác chết vào trong pháo đài.


Không làm thế được, không làm thế được!
người sĩ quan bất nhẫn, ngắt lời,
Một người lính có thể mở đường theo cách đó, nhưng đi cả đoàn như thế này thì không thể được.


Đúng vậy, những bàn chân mềm mại kia sẽ phải bước lên một con đường đầy máu,
người trinh sát đáp, chính bác cũng thấy là không được,
nhưng tôi nghĩ rằng cũng phải nêu ra vì nó thích hợp với tính cách con người tôi. Đã vậy, chúng ta phải quay trở lại thoát khỏi tuyến kiểm soát của địch, quặt về phía Tây và đi và trong núi, ở đó tôi có thể giấu các bạn kín đến nỗi tất cả lũ chó săn quỷ quái bám gót tướng Montcalm mất bao tháng trời cũng chẳng tìm ra tung tích.


Hãy thực hiện ngay,
Heyward bảo.
Không cần phải bàn cãi nữa vì Mắt Chim Ưng đã hô gọn
Theo tôi
, rồi bác đi ngược con đường đã dẫn cả đoàn lâm vào tình thế gay go hiểm nghèo này. Họ bước đi thận trọng, không một tiếng động, vì không ai biết lúc nào có một đội tuần tra của địch đi qua hoặc một lính gác núp đâu đó xuất hiện trên đường. Khi đi men đầm nước, cả Heyward lẫn Mắt Chim Ưng đều liếc nhìn cảnh vật âm u hãi hùng. Họ không còn thấy bóng người lính mới vừa đây đi đi lại lại bên bờ đầm im lặng; sóng gợn lăn tăn, mặt nước chưa trở lại phẳng lặng khiến họ hãi hùng nhớ tới hành động đẫm máu mà họ đã chứng kiến. Tuy nhiên, cũng như cái chết bi thảm của người lính Pháp mờ đi, đầm nước nhòa đi trong bóng đêm và hòa vào cảnh vật tối om phía sau lưng đoàn bộ hành.
Mắt Chim Ưng quặt ngang con đường mà đoàn người đang rút lui và đi vào dãy núi tạo thành một bức tường án ngữ phía Tây bình nguyên nhỏ hẹp. Bác thoăn thoắt dẫn mọi người vào sâu dưới bóng những ngọn núi cao nhấp nhô. Đường đi trở nên gập ghềnh vì có những tảng đá và khe vực cắt ngang khiến họ phải chậm bước. Tuy nhiên những quả núi lạnh lẽo đen ngòm nằm hai bên đường truyền tới mọi người một cảm giác an toàn và một phần nào bù lại những vất vả dọc đường. Cuối cùng, họ chậm chạp leo lên một sườn núi cao và gồ ghề theo một con đường lượn vòng giữa những tảng đá và thân cây. Nhìn con đường thì thấy rằng những người làm ra nó đã quen sống lâu năm ở chốn hoang vu. Càng lên cao thì bóng tối dày đặc của một đêm sắp tàn càng tan dần, dưới đồng bằng cảnh vật đã hiện ra với những màu sắc thiên nhiên mỗi lúc một rõ nét. Khi đoàn người ra khỏi một đám cây cằn cỗi mọc chênh vênh trên sườn núi trọc và đặt chân lên một phiến đá bằng phẳng phủ đầy rêu ở đỉnh núi thì trời vừa sáng, tỏa ánh hồng lên những cây xanh tươi trên ngọn núi đối diện với thung lũng của hồ Horican.
Người trinh sát bảo hai chị em Cora xuống ngựa, bác tháo yên cương ở mõm và lưng những con vật mệt mỏi, thả chúng đi kiếm ăn trên vùng núi cao chỉ có cây con và cỏ héo này; bác nói với chúng:

Hãy đi kiếm ăn ở nơi nào tạo hóa dành riêng cho các ngươi và giữ gìn chớ làm mồi ngon cho bầy sói đói khát lởn vởn trên những quả núi này.


Ta không cần đến chúng nữa ư?
Heyward hỏi.

Hãy xem đây khắc rõ,
người trinh sát vừa nói vừa đi lại bờ vực núi phía Đông, làm hiệu cho cả đoàn đi theo,
nếu nhìn vào trái tim con người ta cũng dễ dàng như từ đây nhìn thẳng vào doanh trại của tướng Montcalm thì những kẻ đạo đức giả sẽ bớt đi nhiều, và thói xảo trá của bọn Mingo không hòng thắng được tính trung thực của người Delaware.

Khi tới sát bờ vực, mọi người nhận ra ngay là người trinh sát nói đúng và họ thầm phục bác đã biết nơi này và dẫn họ tới khiến họ nhìn được bao quát xung quanh.
Nơi họ đang đứng là một ngọn núi cao chừng ba trăm thước, hình chóp nhọn, hơi nhô ra phía trước dãy núi trải dọc phía Tây bờ hồ lớn. Dãy núi này chạy dài tới bên kia hồ, nhập vào những rặng núi khác và hướng về Canada, tạo thành những khối đá nhấp nhô mờ mờ điểm một vài chòm cây xanh thưa thớt. Ngay dưới chân họ, bờ Nam hồ Horican khoanh một hình bán nguyệt lớn từ núi này sang núi nọ, làm thành một vùng rộng lớn, mấp mô và cao. Từ đỉnh núi chót vót này nhìn về hướng Bắc thấy dải nước hẹp và trong vắt của
hồ thiêng liêng
với cơ man nào là vịnh lờm xờm ven bờ, với những mũi đất hình thù kỳ quái nom rất ngoạn mục, và không biết bao nhiêu hòn đảo nhỏ. Cách xa chừng vài dặm, mặt nước bị núi non che khuất hoặc chìm trong những đám hơi mù theo gió ban mai bốc lên từ lòng hồ. Nhưng nhìn qua một khe hẹp giữa đỉnh hai ngọn núi, lại thấy dòng nước luồn lách tìm đường về phương Bắc, phơi bày tấm thân trong vắt trước khi trao mình cho hồ Champlain. Ở hướng Nam là vùng bình nguyên hiểm trở mà chúng tôi đã nhiều lần nhắc tới. Núi non trùng trùng điệp điệp ở đây dường như không muốn từ bỏ quyền ngự trị; nhưng rồi chúng cũng phải rời nhau ra, và cuối cùng lẫn vào vùng đất cát bằng phẳng mà chúng ta đã cùng đi qua với đoàn Mắt Chim Ưng trong hai chuyến trước đây. Dọc hai dãy núi bao bọc hai bên hồ và thung lũng, từ dưới cánh rừng hoang vắng cuộn bay lên những đám mây mỏng tưởng như khói bốc từ những mái nhà tranh núp dưới rừng cây; lại có những đám mây lượn lờ dưới thấp và hòa vào hơi đất. Duy có một áng mây trắng như tuyết bềnh bồng lẻ loi trên thung lũng, ngay trên đầu
đầm máu
lặng lẽ.
Kề bên bờ hồ, gần mé Tây hơn Đông, trải dài những lũy đất và công sự thấp của pháo đài William Henry. Có hai công sự nhìn bao quát ra hồ, trông như xây trên mặt nước; một hào sâu và những bãi lầy rộng bảo vệ các mặt khác; xung quanh pháo đài cây cối được phát quang trên một khoảng đất khá rộng. Phía ngoài nữa là cảnh vật thiên nhiên màu xanh, trừ những nơi có hồ nước trong veo mát dịu hoặc những hòn đá thẳng đứng nhô đỉnh đen trụi trên những rặng núi nhấp nhô.
Trước mặt pháo đài có lính gác nghiêm ngặt, đề phòng một kẻ địch đông gấp bội; bên trong tường lũy có những người lính ngủ gà ngủ gật sau phiên gác đêm. Phía Đông Nam, tiếp giáp với pháo đài có một cứ điểm đặt trên một gò đá (lẽ ra nên chọn nơi này làm địa điểm xây pháo đài). Mắt Chim Ưng bảo mọi người rằng ở đó có các trung đoàn tiếp ứng đã khởi hành cùng một lúc với bọn họ từ pháo đài Edward. Xa chút nữa về phía Nam, những cột khói đen sì từ trong rừng bốc lên, khác hẳn những làn hơi nước sáng sủa của những con suối. Người trinh sát bảo Heyward rằng đó là những dấu hiệu rõ rệt chứng tỏ quân địch tập trung đông tại đấy.
Nhưng cảnh tượng khiến người sĩ quan trẻ chú ý hơn cả đang diễn ra ở bờ hồ phía Tây. Đứng từ trên nhìn xuống, Heyward thấy một dải đất tưởng như quá hẹp để chứa một đạo quân lớn (thực ra, nó chạy dài hàng mấy trăm thước từ bờ hồ Horican đến tận chân núi). Tại đây có những lều màu trắng và vũ khí đủ dùng cho hàng chục ngàn binh lính. Các cỗ súng đã được bố trí ở phía trước và giữa lúc những người đứng trên đỉnh núi quan sát cảnh tượng hiện ra dưới mắt họ như trên một bản đồ, mỗi người với một tâm trạng khác nhau, tiếng đại bác gầm thét trong thung lũng và vang lên như sấm rền dọc dãy núi phía Đông.

Trời vừa sáng ở dưới đó,
người trinh sát nói với vẻ trầm ngâm suy nghĩ,
và những kẻ không ngủ muốn đánh thức những người đang ngủ bằng tiếng đại bác. Chúng ta đến chậm mất mấy tiếng đồng hồ. Tướng Montcalm đã tung bọn Iroquois đáng nguyền rủa vào khắp rừng.


Quả thật pháo đài đã bị bao vây,
Duncan đáp,
nhưng không có cách nào cho chúng ta vào được sao? Thà bị bắt trong ấy còn hơn một lần nữa rơi vào tay bọn Anh điêng lảng vảng trong rừng.


Trông kìa!
người trinh sát kêu lên, vô tình khiến Cora phải chú ý nhìn về phía bản doanh của cha nàng,
Thế nào mà phát đạn kia làm tung cả đá ở mé nhà viên chỉ huy như vậy! Phải, bọn Pháp đã phá nhanh hơn người ta xây cái nhà này, dù rằng tường của nó kiên cố dày dặn.


Anh Heyward, lòng tôi quặn đau khi nhìn cảnh gian nguy này mà không chia sẻ được.
Người con gái gan dạ không kìm nổi lo âu.
Chúng ta hãy đi gặp tướng Montcalm và xin được vào trong pháo đài; chắc ông ta không nỡ từ chối ân huệ này đối với một người con gái.


Cô khó tới được lều của viên tướng Pháp với bộ tóc còn nguyên vẹn trên đầu,
người trinh sát xẵng giọng,
Nếu tôi có được một chiếc thuyền trong số hàng ngàn chiếc bỏ không trên bờ nước kia thì có thể giải quyết nổi. Nhưng kìa, cuộc pháo kích sắp phải ngừng vì có một đám sương mù đang kéo tới làm cho ngày trở thành đêm và khiến cho cây nỏ của người Anh điêng nguy hiểm hơn khẩu đại bác đúc. Bây giờ, nếu mọi người có đủ can đảm đi theo thì tôi sẽ mở một con đường vì tôi đang nóng lòng muốn xông xuống doanh trại Pháp, dù chỉ để đánh đuổi mấy con chó Mingo đang rình mò ven đám cây bulô kia.


Chúng tôi có đủ can đảm,
Cora cứng cỏi đáp,
trước tình thế này, chúng tôi sẵn sàng đi, bất chấp nguy hiểm.

Người trinh sát quay về phía nàng, cười tỏ vẻ tán thưởng thành thực và nhiệt liệt, bác nói:

Ước gì tôi có được một ngàn người có đôi bắp tay bắp chân nở nang, đôi mắt tinh nhanh và không sợ chết như cô! Chỉ trong vòng tuần lễ, tôi sẽ dồn về tận hang ổ bọn Pháp ba hoa, mặc cho chúng kêu gào như lũ chó bị cùm hay bầy sói đói. Nhưng ta đi thôi.
Mắt Chim Ưng quay sang những người khác, nói tiếp:
Đám sương mù đang tỏa xuống nhanh; chúng ta chỉ có đủ thời giờ để gặp nó ở dưới đồng bằng và dùng nó làm bức màn che. Hãy nhớ là nếu tôi gặp tai nạn thì cứ đi về hướng có gió thổi vào má trái, hoặc tốt hơn hết là cứ bám sát hai người Mohican; họ sẽ tìm thấy đường, dù ban ngày hay ban đêm.

Nói xong, bác vẫy tay ra hiệu cho mọi người đi theo rồi lao mình xuống núi dốc ngược, chân bước nhanh nhưng vẫn thận trọng. Heyward vừa đi vừa dìu hai chị em Cora, lát sau đã tới chân quả núi mà trước đó họ đã vất vả khó nhọc leo lên.
Theo hướng đi của Mắt Chim Ưng, chẳng bao lâu cả đoàn đã xuống tới đồng bằng, gần đối diện với một cái cửa xuất kích phá vây ở lũy phía Tây của pháo đài Anh; Mắt Chim Ưng dừng lại cho Duncan và chị em Cora tới. Khoảng cách từ chỗ này tới pháo đài chừng tám trăm thước. Mọi người đi khá nhanh và nhờ đường đất bằng phẳng, họ đến trước đám sương mù đang chậm chạp tỏa xuống mặt hồ. Cần phải tạm nghỉ cho tới khi màn sương xốp phủ kín doanh trại Pháp. Tranh thủ thời gian, hai cha con người Mohican trườn ra khỏi cánh rừng, quan sát xung quanh; người trinh sát đi theo phía sau để kịp nghe họ báo cáo lại, đồng thời bác cũng muốn đích thân theo dõi tình hình địch.
Chỉ lát sau bác đã quay trở lại, nét mặt bừng bừng tức giận, biểu lộ sự thất vọng bằng những lời lẽ không dịu dàng lắm:

Bọn Pháp quỷ quyệt đã bố trí một tốp lính gác gồm cả da đỏ lẫn da trắng ngay trên con đường của chúng ta; trong sương mù, chúng ta có thể đi thoát mà cũng có thể rơi vào giữa cái ổ này.


Ta không thể đi vòng thúng để tránh nguy hiểm được sao?
Heyward hỏi,
Sau đó lại trở về đường cũ một khi nguy hiểm đã qua.


Một khi đã rời khỏi con đường mình đang đi trong sương mù, ai có thể nói được khi nào và bằng cách nào tìm thấy đường cũ! Sương mù ở hồ Horican không giống làn khói tẩu thuốc lá hoặc đám khói đống lửa hun muỗi đâu…

Người trinh sát còn đang nói, bỗng đâu một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, một viên đạn đại bác rót vào đám bụi rậm, quật vào một cây non rồi nẩy xuống đất, sức mạnh lúc này đã giảm nhiều vì vấp phải sự chống đỡ của thân cây. Hai cha con người Anh điêng chăm chú quan sát đường bay của viên đạn đáng sợ, rồi Uncas sôi nổi phát biểu bằng tiếng Delaware, tay chân vung vẩy.

Có thể được đấy, cháu ạ,
người trinh sát khẽ đáp khi Uncas ngừng lời,
vì chữa những cơn sốt ác liệt không giống chữa đau răng đâu. Nào, ta đi thôi, sương mù đã kéo đến rồi.

Khoan đã!
Heyward kêu lên,
Trước hết, hãy cho biết ý định của bác.


Rồi anh sẽ biết ngay, và hy vọng cũng rất mong manh tuy còn hơn không,
người trinh sát lấy chân đá cục sắt vô dụng,
Viên đạn này đã xới đất trên đường đi tới đây; chúng ta sẽ theo vết cày của các viên đạn vì không còn dấu vết nào khác để định hướng cả. Đừng bàn cãi nữa và hãy theo tôi kẻo đám sương mù kia sẽ bỏ rơi chúng ta giữa đường, làm mục tiêu cho cả hai bên nã súng vào.

Thấy tình thế trở nên nguy ngập và cần phải hành động hơn bàn cãi. Heyward đi vào giữa hai chị em Corai dìu họ tiến nhanh, mắt không rời bóng hình mờ mờ của người dẫn đường. Quả thật Mắt Chim Ưng không phóng đại tác dụng của đám sương mù. Mới đi được vài chục bước, mọi người đều thấy khó mà nhận được nhau trong hơi sương.
Đoàn người vòng sang trái một chút rồi lại ngả về bên phải. Heyward ước lượng đã đi được gần nửa phần trên quãng đường dẫn tới đồn quân thân thuộc, bỗng đâu có tiếng hô dữ dội vang bên tai anh, chỉ cách độ hai chục bước:

Ai đó?


Tiến lên!
người trinh sát khẽ nói và lại tạt sang trái.

Tiến lên!
Heyward nhắc lại trong khi hàng chục tiếng hô lại vang lên, đầy hăm dọa.

Tôi!
người sĩ quan trẻ kêu to; anh không dắt mà kéo tuột hai chị em Cora lên phía trước.

Con khỉ! Tôi là ai?


Bạn của nước Pháp.


Xem ra mi là kẻ thù của nước Pháp thì đúng hơn. Đứng lại, nếu không tao cho làm bạn với quỷ sứ! Không à! Bắn! Các bạn, bắn!

Lệnh được thi hành tức khắc và năm chục phát súng nổ vang làm rung chuyển đám sương mù. May sao bọn địch bắn trượt, những viên đạn xé không khí đi hơi chệch hướng bọn người đang chạy trốn. Tuy nhiên, đạn bay gần đến nỗi đối với những đôi tai ít kinh nghiệm của David và hai cô gái, tưởng như tiếng réo chỉ cách vài đốt ngón tay. Tiếng hô lại nổi lên, rồi nghe thấy rất rõ tiếng người ra lệnh không những tiếp tục bắn mà còn phải đuổi theo. Sau khi Heyward nói lại vắn tắt nội dung những câu tiếng Pháp, Mắt Chim Ưng đứng lại quyết định một cách nhanh chóng và táo bạo, bác nói:

Hãy nổ súng; bọn chúng sẽ nghĩ là quân ta ở trong pháo đài thọc ra, và chúng sẽ bỏ cuộc hoặc sẽ chờ lực lượng tăng cường.

Kế hoạch thì hay nhưng không mang lại kết quả. Khi quân Pháp thấy súng nổ, tưởng như khắp cánh đồng rộn bóng người, tiếng súng trường lách cách mọi nơi từ bờ hồ tới ven rừng.

Tình hình này thì chúng sẽ huy động toàn quân tổng công kích ta mất thôi.
Heyward nói,
ông bạn, vì sự sống còn của bác và của chúng tôi, hãy đi trước dẫn đường.

Người trinh sát có vẻ muốn thực hiện lắm nhưng trong lúc bối rối thay đổi vị trí, bác đã mất hướng. Bác quay hết má phải đến má trái về phía gió thổi nhưng vô hiệu vì cả hai má đều cảm thấy mát. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan, Uncas phát hiện thấy dấu vết đường đạn đại bác trên ba tổ kiến nằm liền nhau.

Để ta xem nào!
Mắt Chim Ưng cúi liếc nhìn đường đạn rồi lập tức tiến lên trước.
Lúc này, tiếng hò hét chửi rủa, gọi nhau và tiếng súng tay ran ran khắp bốn bề. Bất thình lình một làn chớp lóe sáng làm đám sương mù vọt lên tan ra nhiều mảng, các khẩu đại bác khạc đạn trên cánh đồng, và núi non vọng lại tiếng súng gầm nặng nề.

Súng trong pháo đài bắn ra rồi!
Mắt Chim Ưng reo to, quay ngoắt trở lại,
Thế mà chúng mình lại đâm đầu vào rừng như những kẻ ngốc mất trí để nộp mạng dưới lưỡi dao của bọn Maqua!

Sau khi nhận ra sai lầm, mọi người khẩn trương sửa ngay. Heyward trao Cora cho Uncas dắt dìu, cô gái cũng nhận sự giúp đỡ của người da đỏ không chút ngại ngần. Sau lưng, quân địch hùng hổ đuổi theo, và họ có thể bị bắt hoặc bị giết bất cứ lúc nào.

Quyết không để cho lũ khốn kiếp thoát!
một tên có vẻ chỉ huy cuộc săn đuổi, đang ra sức chạy theo và thét to.
Bỗng nhiên một tiếng hô nổi lên ngay trên đầu những người đang chạy trốn:

Hãy giữ vững vị trí và sẵn sàng chiến đấu, hỡi các dũng sĩ trung đoàn 60 của ta! Chờ cho quân địch xuất hiện, hãy bắn thật thấp, quét sát khoảng đất trống trước pháo đài!


Cha ơi, cha!
một tiếng kêu thất thanh từ trong đám sương mù vang lên,
Con đây! Alice đây! Chính Elsie của cha đây! Chớ bắn vào chúng con! Ôi, hãy cứu hai đứa con gái của cha!


Dừng lại!
tiếng kêu lúc nãy lại nổi lên, giọng đầy lo âu của một người cha hốt hoảng, vang tới tận khu rừng rồi vọng lại một cách nghiêm trang,
Đúng con gái ta rồi! Chúa đã trả hai đứa con cho ta! Mở ngay cổng xuất kích! Trung đoàn 60 hãy xông ra ngoài đồng! Chớ nổ súng kẻo giết phải hai con cừu của ta! Hãy đánh đuổi lũ Pháp bằng gươm giáo!

Heyward nghe thấy tiếng then cửa sắt rít lên; anh lao về hướng đó thì gặp một hàng dài binh sĩ, quân phục màu đỏ sẫm, đang băng nhanh tới khoảng đất trống trước pháo đài. Nhận ra tiểu đoàn của mình, anh xông tới đầu hàng quân và trong chốc lát, quét sạch quân địch khỏi khu vực trước pháo đài.
Người sĩ quan trẻ đột nhiên bỏ đi khiến hai chị em Cora run sợ hoang mang, nhưng hai nàng chưa kịp định thần thì một võ quan có tầm vóc cao lớn, tóc đã bị thời gian và nghề nghiệp làm bạc trắng nhưng vẫn giữ được vẻ oai phong của người quân nhân, lao ra khỏi đám sương mù, chạy lại ôm gọn hai con gái vào vòng tay. Hai hàng nước mắt nóng hổi lăn trên má răn reo, người đó reo to bằng giọng nói riêng biệt của xứ Scotland:

Lạy Chúa, xin cảm tạ Người đã ban ơn này. Giờ đây, kẻ tôi tớ của Người sẵn sàng chờ đón mọi gian nguy!

Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican.