Chương 6


Dịch giả: Trương Đắc Vỵ
NXB Văn Học
Những thánh ca từng vang lên êm dịu ở Zion
Anh kỹ càng chọn ra một vài bài
Rồi nói, vẻ trịnh trọng:
Chúng ta hãy kính Chúa
.[30]
• BURNS
[30] Tối thứ Bảy dưới mái nhà tranh của Robert Burns, nhà thơ Anh ở xứ sở Scotland, 1750 - 1798.
Thấy ba người bỏ đi một cách bí mật, Heyward và hai cô bạn đồng hành trong lòng không khỏi lo âu; tuy cho tới với cách cư xử của người da trắng không có gì đáng chê trách nhưng trang phục thô lậu, lời nói lỗ mãng và thái độ ác cảm ra mặt của bác đối với kẻ thù, thêm vào đó là tính tình lầm lì của hai người Mohican, đều là những lý do khiến những người vừa bị choáng váng vì những sự phản bội của tên Anh điêng cảm thấy nghi ngại. Riêng thầy quản hát không hề quan tâm đến những việc xảy ra. Anh ngồi thẫn thờ trên một mỏm đá, thở dài thườn thượt chứng tỏ đang có một cuộc đấu tranh gay gắt trong đầu. Bỗng có tiếng nói nhỏ nhẹ gần đó, nghe như tiếng người gọi nhau trong lòng trái đất; rồi một ánh sáng rọi vào những người đang đứng bên ngoài, để lộ nơi trú ẩn rất kín đáo.
Ở tận cuối một hang đá vừa hẹp vừa sâu, người trinh sát đang ngồi, tay cầm một cành thông cháy rực; dưới ánh đuốc thông bập bùng, hang đá như dài thêm ra. Ánh sáng chói lòa của ngọn lửa tỏa xuống khuôn mặt phong trần và bộ áo quần sơn dã của bác khiến con người bác đượm một vẻ giang hồ phiêu lãng. Nếu nhìn dưới ánh sáng tự nhiên ban ngày, ta sẽ thấy nổi lên những đặc điểm của bộ y phục lạ mắt, một thân hình rắn chắc, sự pha trộn kỳ lạ giữa tính sắc sảo nhanh nhạy và vẻ mộc mạc hồn nhiên làm biến mất những nét gân guốc trên mặt bác. Uncas đứng cách người trinh sát vài bước về phía trước, toàn thân hiện rõ dưới ánh đuốc. Trong lòng băn khoăn, những người đứng ngoài cửa hang ngắm nhìn thân hình thẳng tắp và mềm mại của người Mohican trẻ có những cử chỉ điệu bộ vừa đẹp mắt vừa thoải mái tự nhiên. Khác mọi ngày, Uncas khoác một tấm áo đi săn màu xanh có tua, giống như của người da trắng; mắt anh đen láy, sáng quắc và ngoan cường, vừa dữ lại vừa hiền; gương mặt quả cảm, hiên ngang và ngạo nghễ đượm một màu đỏ trong sáng; trán vát và cao, rất chững chạc đường hoàng; đầu tròn và cân đối, cạo trọc nhẵn, chỉ để lại một chỏm tóc dày. Lần đầu tiên, Heyward và các bạn anh có dịp ngắm kỹ người trợ thủ Anh điêng trẻ của họ. Khuôn mặt man sơn nhưng kiêu hãnh và cương nghị của người chiến binh khiến họ trút được hết mối nghi ngại. Họ hiểu rằng một con người như vậy có thể bị giam hãm trong tối tăm dốt nát nhưng không thể là một kẻ manh tâm đem những năng khiếu thiên bẩm ra lừa thầy phản bạn. Cặp mắt tinh đời của Alice nhìn không chớp dáng vẻ phóng khoáng và đầy tự trọng của Uncas như ngắm một di vật quý của nền điêu khắc Hy Lạp; còn Heyward tuy đã từng thấy nhiều thân hình đẹp đẽ của những người thổ dân chất phác, cũng không giấu được vẻ thán phục trước một hình mẫu hoàn mỹ nhất của con người.

Em có thể ngủ yên
Alice khẽ nói,
vì có một thanh niên dũng cảm và hào hiệp như vậy canh gác cho. Anh Duncan, chắc chắn những chuyện giết chóc tàn bạo, những cuộc tra khảo khủng khiếp mà chúng ta thường đọc trong sách và nghe kể sẽ không bao giờ diễn ra được trước mắt một con người như vậy.


Nghe nói đây là một dân tộc có nhiều đức tính tự nhiên,
Duncan đáp,
và người da đỏ này hẳn là một tấm gương sáng và hiếm của dân tộc đó. Anh đồng ý với em là vầng trán và cặp mắt kia sinh ra để áp đảo kẻ thù chứ không phải để phản bội; nhưng chúng ta cũng không nên tự lừa dối mình, chờ mong ở con người đó những hành động cao đẹp hơn những người Anh điêng khác. Những gương sáng về đức độ quá hiếm hoi ở những người theo đạo Cơ Đốc, và ở những người da đỏ cũng hãn hữu vậy thôi. Tuy nhiên, vì vinh dự chung cho loài người chúng ta, mong rằng tất cả đều có được những đức tính tốt đẹp. Bởi vậy ta hãy hy vọng rằng người Mohican này không làm cho ta phải thất vọng và tỏ ra là một người bạn dũng cảm và trung thành như diện mạo bên ngoài của anh ta.


Quả là những lời nói xứng đáng với thiếu tá Heyward!
Cora lên tiếng,
Nhìn người con của núi rừng này, còn ai nghĩ tới màu da tối sẫm của anh ta nữa.

Mọi người còn lặng yên, lúng túng trước nhận xét của Cora thì đã thấy người trinh sát oang oang gọi họ vào; trong lúc bốn người chui vào hang, bác ta nói:

Ngọn lửa này bắt đầu cháy quá to và sẽ soi đường cho bọn Mingo tới làm hại ta. Uncas, hạ cái chăn xuống để lũ bất lương chỉ nhìn thấy mặt đen thôi. Bữa ăn tối nay thật không xứng với một vị thiếu tá Trung đoàn Hoàng gia ở Bắc Mỹ; nhưng mắt tôi đã thấy có nhiều phân đội của đơn vị này ăn cả thịt thú rừng sống mà chẳng cần muối. Anh xem đây, chúng tôi có rất nhiều muối và có thể làm xong ngay món thịt nướng. Những cành cây dẻ vàng còn tươi này dành cho hai cô ngồi; tuy nó không chắc chắn bằng những chiếc ghế gỗ đào hoa tâm nhưng có mùi thơm dịu hơn cả mùi da lợn ở Guinea hay ở bất cứ nơi nào khác. Còn anh bạn kia, chớ buồn phiền vì con ngựa tơ. Đó là một con vật vô tội chưa gặp nhiều gian khổ. Cái chết giải thoát cho nó khỏi bị còng lưng mỏi gối!

Uncas đã hạ chăn xuống và khi người trinh sát nói xong, tiếng thác đổ nghe như sấm rền ì ầm xa xa.

Trong hang này có thật sự an toàn không?
Heyward hỏi,
Liệu có nguy cơ bị đánh úp không? Chỉ cần một kẻ có vũ khí chặn cửa hang là chúng ta chịu chết.

Một bộ mặt quái đản từ trong bóng tối, phía sau lưng người trinh sát, ló ra lấy một cành cây đang cháy và giơ lên soi vào tận cuối hang. Khi hình thù gớm ghiếc này tiến lại gần ánh lửa, Alice khẽ kêu lên, và cả Cora cũng phải đứng phắt dậy. Nhưng rồi họ bình tĩnh lại khi Heyward cho biết đó là Chingachgook; người trợ thủ của họ. Người da đỏ vén tấm chăn ở cuối hang để lộ ra một cửa hang khác. Tay cầm cành cây cháy dở, bác luồn qua một đá sâu và hẹp tạo thành góc vuông với lòng hang, chỉ khác là lộ thiên, rồi chui vào một cái hang khác như nơi mấy người đang trú.

Những con cáo già như tôi và Chingachgook mấy khi chịu bị tóm cổ trong một cái hang chỉ có một cửa.
Mắt Chim Ưng cười nói,
Các bạn có thể dễ dàng thấy rằng tạo hóa đã khéo xếp đặt nơi này; đá ở đây là loại đá vôi đen và mềm như chúng ta đều biết; dùng nó làm gối khá tiện trong lúc cây cỏ và gỗ thông khan hiếm. Ngày trước, mé dưới chúng ta vài thước là một dòng thác và tôi dám nói rằng thời ấy nước chảy điều hòa và ngoạn mục như bất cứ ngọn thác nào trên sông Hudson. Nhưng thời gian đã hủy hoại những vẻ đẹp, mà điều ấy thì hai cô thiếu nữ trẻ trung dịu dàng này chưa biết được. Đáng buồn là nơi đây đã trải qua nhiều đổi thay. Những tảng đá mang đầy vết nứt nẻ; có những chỗ đá mềm, nước xối vào khoét thành những hố sâu hoắm. Cứ như thế, dòng nước húc vỡ chỗ này, bào mòn chỗ kia, rồi lùi về phía sau hang vài chục thước đến nỗi dòng thác chẳng còn ra hình thù gì nữa.


Chúng ta đang đứng ở quãng nào?
Heyward hỏi.

Chúng ta đang ở gần nơi mà trước kia tạo hóa xếp đặt dòng thác; nhưng hình như nước bướng bỉnh không chịu nằm yên một chỗ. Đá ở hai bên đây là loại đá mềm, nước bèn khoét thành hai cái hang con cho chúng ta trú ẩn, làm cho giữa lòng sông bị khô cạn.


Vậy ra chúng ta đang ở trên một hòn đảo ư?


Phải; với hai thác nước hai bên và sông ở phía trên và dưới. Ban ngày leo lên mỏm tảng đá này nhìn dòng nước tai ác thì cũng bõ công. Nước chảy không theo một quy luật nào, chồm lên, ụp xuống, lao qua, vọt tới, có chỗ trắng xóa như tuyết, chỗ xanh rì như cỏ; phía này nước đổ dồn vào những vũng sâu, ầm ầm rung chuyển mặt đất, phía kia nước rì rào reo vui như con suối, tạo ra những xoáy nước xói vào đá mềm như thể xói vào đất sét. Toàn bộ kế hoạch của con sông dường như bị đảo lộn. Lúc đầu dòng nước chảy chậm về xuôi như theo một trật tự đã định; rồi nó ngoặt về một bên và đâm thẳng vào bờ, có những quãng nó quay hẳn đầu lại như lưu luyến cảnh rừng rú hoang vu, không muốn hòa mình vào nước mặn. Này cô gái, tôi có thể chỉ cho cô thấy rằng chiếc khăn quàng cổ đẹp đẽ giống như tơ nhện kia nom thô kệch chẳng khác tấm lưới đánh cá bên cạnh những hình nét muôn màu muôn vẻ mà dòng sông dường như phá vỡ trật tự sẵn có, đã tạo nên. Thế nhưng kết quả ra sao? Sau một thời gian tung hoành như một kẻ cứng đầu, nước bị tạo hóa tập trung lại ở mé xuôi chúng ta mấy con sào kia, rồi chạy thẳng ra biển như đã định từ lúc khai thiên lập địa.

Những lời lẽ vụng về tả cảnh thác Glen khiến cho những người nghe cảm thấy yên tâm về sự an toàn của nơi trú ẩn tuy họ không có những nhận xét giống như Mắt Chim Ưng về phong cảnh hoang dã nơi đây. Nhưng tình thế hiện tại không cho phép họ để tâm trí vào những cảnh đẹp của thiên nhiên. Người trinh sát vừa nói vừa không ngừng chuẩn bị thức ăn, trừ đôi lúc bác giơ chiếc dĩa sứt chỉ vào những khúc đặc biệt đáng chú ý của con sông hung dữ. Còn mấy người khách lúc này chỉ quan tâm tới một điều tuy tầm thường nhưng cần thiết đối với họ là được ăn cho đỡ đói lòng.
Bữa ăn có cả một ít đồ ngọt do Heyward mang theo khi phải bỏ ngựa lại, khiến mọi người hồi sức. Uncas quanh quẩn bên hai thiếu nữ, giúp họ tất cả những việc vặt có thể làm được, với một vẻ vừa đĩnh đạc vừa ân cần ý tứ khiến cho Heyward lấy làm thích thú. Người sĩ quan biết rõ rằng đó là một điều mới lạ vì phong tục của người Anh điêng không cho phép các chiến binh của họ tự hạ mình làm những việc lặt vặt, đặc biệt để phục vụ phụ nữ. Tuy nhiên, những luật lệ về lòng mến khách lại thiêng liêng đối với người da đỏ, cho nên hành động của Uncas tuy có phần nào phạm vào phẩm giá con người nhưng không ai có ý kiến gì. Ví thử lúc ấy có người nào vô tư quan sát kỹ thì sẽ thấy rằng sự giúp đỡ của người thủ lĩnh trẻ không phải hoàn toàn không thiên vị. Nếu khi đưa cho Alice bầu nước và món thịt rừng đựng trong một cái da chạm trổ làm bằng mẩu cây, Uncas tỏ ra có đủ lịch thiệp thì khi mang đến cho Cora, đôi mắt đen của anh dừng lại hồi lâu trên khuôn mặt xinh tươi của nàng.
Một đôi lần, Uncas buộc phải sử dụng tiếng nói để nhắc nhở một điều gì cho hai cô gái. Những lúc đó người chiến binh da đỏ dùng tiếng Anh; chàng nói ấp úng và sai mẹo luật nhưng đủ hiểu được. Âm thanh từ trong cổ họng phát êm nhẹ và thánh thót, không thể không làm cho hai thiếu nữ phải ngạc nhiên khen thầm. Trong những lúc tiếp xúc, họ nói với nhau rất ít, nhưng những lời ngắn ngủi cũng đã tạo ra một không khí thân mật giữa đôi bên.
Trong khi đó, Chingachgook luôn luôn giữ một vẻ nghiêm trang. Bác ngồi trong vùng ngọn đuốc tỏa sáng khiến cho những cặp mắt lo âu của những người khách da trắng có thể phân biệt được diện mạo thật của bác với những nét sơn dữ dội. Họ nhận thấy hai cha con giống nhau như đúc tuy có sự chênh lệch về tuổi tác cũng như về những gian khổ mà mỗi người đã gặp phải. Vẻ dữ dằn trên khuôn mặt của Chingachgook lúc này dường như dịu đi, nhường chỗ cho một thái độ bình thản thảnh thơi, một đặc điểm của người chiến binh Anh điêng một khi không có việc gì hệ trọng đòi hỏi phải dốc hết trí lực ra. Tuy nhiên, qua những nét thoáng hiện trên khuôn mặt ngăm đen, ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng chỉ cần khuấy động những tình cảm của con người đó, những nét sơn gớm ghiếc dùng để áp đảo kẻ thù sẽ phát huy hết tác dụng. Trong khi đó, đôi mắt sắc sảo và tinh nhanh của người trinh sát luôn luôn hoạt động. Bác vừa ăn vừa uống một cách ngon lành như không cảm thấy nguy hiểm đang đe dọa, nhưng rõ ràng vẫn thường xuyên cảnh giác. Rất nhiều lần, vừa đưa bầu nước hay miếng thịt ngang mồm, bác chợt dừng tay, đầu nghiêng ngó như nghe ngóng những tiếng động khả nghi xa xa; cử chỉ đó nhắc nhở mấy người khách nhớ tới hoàn cảnh hiện tại của họ và những nguyên nhân hãi hung đã dẫn họ tới hoàn cảnh đó. Sau những lần nghe ngóng, không thấy bác có ý kiến gì, và rồi nỗi lo âu của mọi người cũng lắng xuống và qua đi.
Gần cuối bữa ăn, Mắt Chim Ưng rút ở dưới đống lá ra một cái hũ con và nói với ông khách ngồi kề bên đang thưởng thức rất công bằng tài nấu nướng của bác:

Này anh bạn, hãy thử nhấp tí tửu làm bằng nụ thông. Nó sẽ xua tan nỗi nhớ thương con ngựa tơ và làm tăng sức sống cho anh. Tôi uống mừng tình hữu nghị của chúng ta thêm thắm thiết hy vọng rằng con ngựa bé nhỏ kia không gây oán cừu giữa đôi ta. Chẳng hay tên anh bạn là gì?


Gamut, David Gamut,
thầy quản hát đáp, sẵn sàng tu một hơi chất nước thơm phức và nồng đậm của người bạn sơn cước để nén cơn buồn phiền.

Tên nghe hay làm sao? Tôi dám chắc bạn thừa hưởng cái tên đó của một gia đình nề nếp. Tôi là một kẻ hâm mộ những tên kêu tuy rằng cách đặt tên của người Cơ Đốc giáo khác xa người da đỏ. Anh chàng nhát gan nhất đời lại có tên là Sư Tử, còn mụ vợ Nhẫn Nại thì luôn mồm chửi bới điếc tai hàng xóm. Đối với người da đỏ, đây là một vấn đề của lương tâm, tên gọi phải xứng với người. Nói như vậy không phải bảo rằng Chingachgook có nghĩa là Rắn Lớn, - phải thực sự là một con rắn lớn hoặc nhỏ. Bác mang tên đó vì nhìn thấu những nỗi uẩn khúc của con người, vì bác kín đáo và đánh kẻ địch vào lúc chúng không ngờ tới nhất… Thế anh bạn làm nghề gì?


Nghề mọn của tôi là dạy hát những bài thánh thi.


À ra vậy!


Tôi dạy hát cho đám thanh niên được tuyển mộ ở Connecticut.


Lẽ ra anh bạn phải làm những việc có ích hơn. Bọn nhãi ranh ấy đã cười đùa hát hò quá nhiều trong rừng trong lúc chúng phải im hơi lặng tiếng như một con cáo rình mồi. Anh có biết bắn súng nòng trơn hoặc nòng xẻ rãnh không?


Nhờ ơn Chúa, tôi chưa có dịp nào mò tay vào những vật giết người ấy.


Có lẽ anh biết sử dụng la bàn và vẽ lên giấy những con sông quả núi ở những miền hoang vu để cho người sau có thể căn cứ vào tên đặt mà tìm ra.


Tôi cũng không làm một việc như vậy.


Với bộ giò của anh, đường dài cũng thành ngắn. Chẳng hay có khi nào anh chạy liên lạc cho tướng quân không?


Chưa bao giờ tôi chỉ làm theo năng khiếu cao quý của mình là dạy hát những bài ca ngợi Chúa!


Thật là một nghề lạ lùng!
Mắt Chim Ưng nói trong bụng cười thầm,
chẳng khác một con sáo cả đời nhại lại những tiếng bổng tiếng trầm phát ra từ cổ họng người khác. Thôi được, cứ coi đó là năng khiếu của bạn và nó cũng phải được công nhận như tài bắn súng hay một năng khiếu nào khác. Chúng ta hãy nghe anh bạn làm ăn ra sao; đó cũng là một cách thân thiện chúc cho nhau ngủ ngon giấc vì đã tới lúc hai cô thiếu nữ đây đi nghỉ lấy sức kẻo đường đi còn dài và vất vả; ta sẽ lên đường sáng sớm mai trước khi bọn Maqua dậy.


Tôi xin vui lòng làm ngay.
David vừa nói vừa đeo đôi mục kỉnh gọng sắt, rút cuốn sách nhỏ quý báu và đưa ngay cho Alice,
Còn gì hợp cảnh và khuây khỏa hơn là đọc kinh chiều cầu nguyện Chúa sau một ngày gian nan vất vả.

Alice mỉm cười nhưng chợt nhìn Heyward cô đỏ mặt ngần ngừ.

Xin cứ tự nhiên,
người sĩ quan khẽ nói,
lời gợi ý của con người đáng kính mang tên Nhà soạn thánh ca[31] chẳng đáng được coi trọng trong lúc này sao?

[31] Tức David, vua xứ Israel, khoảng thế kỷ 10 trước Công nguyên.
Được lời, theo sự thôi thúc của lòng thành kính và sở thích, Alice cất lên ngay những âm thanh êm dịu của mình. Nàng mở sách ra đúng vào trang có một bài ca khá phù hợp với hoàn cảnh của mọi người. Dịch giả bài ca, trung thành với nguyên tác đầy cảm hứng của vua xứ Israel, đã tìm được những lời thơ trong sáng và trang trọng. Cora ngỏ ý muốn tham gia cùng với em gái, và thế là bài thánh ca vang lên sau khi thầy quản hát đã theo đúng phương pháp làm một việc không thể thiếu được là lấy cái thanh mẫu để cho giọng thật đúng.
Điệu ca nghiêm trang và chầm chậm. Nghiêng mình trên cuốn sách nhở, hai cô gái hát say sưa sùng kính. Giọng của họ khỏe, lúc ngân cao vút, lúc hạ thật trầm khiến cho tiếng thác đổ hòa vào giai điệu như những tiếng nhạc đệm êm nhẹ. Bằng khiếu thẩm mỹ sẵn có và đôi tai chính xác, David điều khiển tiếng hát khi bổng khi trầm cho thích hợp với cái hang chật hẹp, và các khe ngách tràn ngập những âm thanh réo rắt làm rung động lòng người. Hai cha con người Anh điêng nhìn chằm chằm vào vách hang lắng tai nghe chăm chú, như biến thành tượng đá. Còn người trinh sát lúc đầu tì tay vào cằm với một vẻ thờ ơ lạnh nhạt cũng dần dần dịu hẳn nét mặt khắc khổ; tiếng hát cứ ngân vang làm cho tâm hồn sắt đá của bác cũng phải trở nên mềm yếu. Bác nhớ lại thời niên thiếu cũng đã từng nghe những bài ca cầu nguyện tương tự trong các vùng đất mới ở thuộc địa. Đôi mắt linh hoạt của bác rớm ướt và trước khi bài ca kết thúc, từng giọt lệ nóng hổi trào ra từ đôi mắt tưởng như đã từ lâu khô cạn và lăn trên gò má quen chịu đựng những trận phong ba bão táp hơn là tỏ ra yếu mềm. Những hợp âm còn đang ngân nhẹ và tắt dần, và mọi người còn đang say sưa tận hưởng như ý thức rằng mình sắp chịu một sự mất mát, bỗng đâu mé ngoài hang nổi lên một tiếng kêu không giống tiếng người, cũng không giống một tiếng nào khác trên thế gian, một tiếng kêu không chỉ thấm sâu vào các hốc đá mà vào tận từng người nghe. Tiếng kêu vừa dứt, không khí lặng như tờ, tưởng chừng thác nước đang đổ ầm ầm cũng bị tiếng kêu khủng khiếp và đột ngột nọ chặn đứng lại. Alice lặng người vì khiếp đảm; lát sau nàng khẽ hỏi:

Có chuyện gì vậy?


Có chuyện gì vậy?
Heyward nhắc to.
Cả Mắt Chim Ưng và hai người Anh điêng đều không đáp. Họ kinh ngạc lắng nghe như chờ tiếng kêu nổi lên một lần nữa. Cuối cùng, họ thảo luận sôi nổi bằng tiếng Delaware, rồi Uncas thận trọng ra khỏi hang bằng cửa sau kín đáo hơn. Uncas đi rồi, người trinh sát mới trả lời bằng tiếng Anh:

Có chuyện gì hay không có chuyện gì, không ai ở đây có thể nói được tuy rằng hai chúng tôi đây đã lăn lộn trong rừng trên ba chục năm trời. Tôi cứ tưởng rằng không có tiếng người Anh điêng hoặc tiếng thú dữ nào kêu mà tai tôi chưa nghe thấy; nhưng tiếng kêu này chứng tỏ tôi chỉ là một kẻ tự phụ hão.


Phải chăng đó là tiếng kêu của những chiến binh khi họ muốn áp đảo kẻ thù?
Cora quấn tấm khăn choàng quanh người, đứng hỏi với một vẻ trầm tĩnh khác hắn thái độ hốt hoảng của em gái.

Không phải,
người trinh sát đáp,
tiếng kêu này nghe hãi hùng không chịu nổi và có một cái gì không giống người; còn một khi đã nghe tiếng hú trận, không bao giờ người ta có thể nhầm với bất cứ tiếng nào khác,
bác quay sang nói bằng tiếng Delaware với người thủ lĩnh trẻ vừa trở về:
Thế nào, Uncas! Có thấy gì không? Ánh lửa trong hang có chiếu qua những tấm chăn không? Uncas cũng đáp lại bằng tiếng Delaware, lời lẽ ngắn gọn và dứt khoát.


Đứng bên ngoài hang không trông thấy gì,
Mắt Chim Ưng nói tiếp, đầu lắc lắc tỏ vẻ không hài lòng,
và nơi trú ẩn của chúng ta vẫn kín đáo. Các vị cần qua hang bên kiếm chỗ nghỉ ngơi. Chúng ta phải trở dậy trước khi mặt trời mọc và tranh thủ tới được pháo đài Edward trong lúc bọn Mingo còn đang ngủ.


Cora điềm tĩnh bước đi trước khiến cho cô em gái nhút nhát cũng phải noi gương. Tuy nhiên, trước khi rời khỏi hang, nàng khẽ yêu cầu Duncan đi cùng.

Uncas vén chăn cho họ ra; khi hai chị em Cora quay lại cảm ơn về sự chu đáo của anh, họ thấy người trinh sát đã trở về ngồi trước đống lửa tàn, hai tay bưng lấy mặt, đang trầm ngâm suy nghĩ về tiếng kêu kỳ quặc đã làm gián đoạn những tình cảm thành kính của họ lúc ban chiều.
Heyward cầm theo một cành cây cháy dở; ngọn lửa tỏa ánh sáng yếu ớt vào trong lòng chật hẹp của nơi trú ẩn mới. Anh đặt cây đuốc vào một nơi thuận tiện rồi đến gần chị em Cora. Lần đầu tiên từ khi rời những thành lũy thân thuộc của pháo đài Edward, hai cô mới lại được trò chuyện riêng với anh.

Đừng bỏ chúng em ở đây một mình, anh Duncan nhé,
Alice nói,
chúng em không thể ngủ được ở một nơi như thế này khi tiếng kêu khủng khiếp vừa rồi vẫn còn văng vẳng bên tai.


Trước hết ta hãy xem pháo đài này của chúng ta có an toàn không đã,
Heyward đáp,
sau đó sẽ bàn tới chuyện nghỉ ngơi.

Nói xong, Heyward đi về phía cửa cuối hang cũng có chăn che; anh vén tấm chăn dày, hít thở không khí mát rượi trong lành từ thác nước tỏa ra. Ngay dưới chân anh có một nhánh sông chảy qua một cái khe sâu và hẹp do nước xói vào đá mềm tạo thành; theo anh đây là một địa điểm phòng ngự vững chắc, chặn được mọi cuộc tấn công vào hướng này; cách vài sào ở phía thượng lưu, nước lao xuống loang loáng và xiết.

Thiên nhiên đã tạo ra một bức chắn kiên cố ở đây,
Heyward chỉ vào thành đá dựng đứng trên mặt nước đen ngòm rồi hạ chăn xuống,
và như hai cô thấy đấy, phía trước chúng ta có những con người dũng cảm và trung thành canh gác; bởi vậy tôi thấy không có lý do gì để không nghe lời khuyên của ông chủ nhà lương thiện. Tôi chắc chắn Cora sẽ đồng ý với tôi rằng giấc ngủ là cần thiết cho cả hai cô lúc này.


Cora có thể công nhận ý kiến của anh là đúng song không thể thực hiện được.
Cô chị đang ngồi trên đống cành de vàng bên cạnh Alice, đáp,
Cho dù tiếng kêu bí ẩn hồi nãy không làm cho choáng váng, chúng tôi cũng đã mất ngủ vì những nguyên nhân khác rồi. Anh Heyward thử nghĩ xem, làm sao chúng tôi có thể quên được rằng cha mình đang phải lo lắng, không biết hai con gái phiêu bạt nơi nào, sống chết ra sao giữa nơi rừng thiêng nước độc với bao nguy hiểm này.


Ngài là một quân nhân và hiểu biết những điều may rủi trong rừng.


Dù sao người cũng là một người cha và không từ bỏ bản chất được.


Người tốt biết bao trước mọi hành động điên rồ của em!
Alice thổn thức,
Người hiền từ và rộng lượng biết bao trước những ước vọng của em! Chị ơi, chúng mình quả là ích kỷ, cứ nằng nặc đòi đi thăm cha trong tình hình bất trắc như thế này!


Có thể chị đã nôn nóng thúc bách cha phải chấp thuận trong lúc người đang bận rộn, nhưng chị muốn tỏ cho cha thấy rằng trong lúc có những kẻ thờ ơ trước những khó khăn của cha, các con của người vẫn luôn luôn thương nhớ.


Khi được tin hai cô tới pháo đài Edward,
người sĩ quan nói với một vẻ trìu mến,
ngài bị giằng co giữa lo sợ và tình cha con; nhưng rồi tình cha con đã thắng vì ngài xa cách các cô đã lâu ngày. Ngài nói: ‘Anh Duncan, chính tâm hồn cao thượng của Cora dẫn đường cho chị em nó, và tôi không muốn ngăn cản. Cầu trời cho kẻ nào bảo vệ danh dự đức vua có được một nửa lòng dũng cảm của con bé.’


Thế cha không nói gì về em ư, anh Heyward
Alice ganh tị hỏi,
Chắc chắn cha không quên bé Elsie này.


Không thể quên được,
người sĩ quan trẻ đáp,
ngài đã nhắc tới em bằng cả ngàn hình dung từ mà anh không dám dùng từ mà anh nhận thấy rất đúng. Thật vậy, có lần ngài nói là…

Bỗng Duncan ngừng lời. Giữa lúc anh nhìn chằm chằm vào đôi mắt Alice, và cô gái cũng đang hướng về phía anh bằng vẻ hăm hở và tình cảm kính mến tha thiết để nắm bắt những lời anh kể, tiếng kêu khủng khiếp lại vang lên trong không trung, làm anh im bặt.
Trong hồi lâu, ba người nín thở, im lặng nhìn nhau, hãi hùng chờ tiếng kêu nổi lên lần nữa. Cuối cùng, tấm chăn từ từ vén lên và người trinh sát xuất hiện ở cửa hang, nét mặt có phần nao núng trước một bí ẩn dường như báo hiệu một nguy hiểm mà tài trí và kinh nghiệm của bác không vượt qua nổi.
Nhấn vào đây để xem chương mới nhất của Ebook Người Cuối Cùng Của Bộ Tộc Mohican.